Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

tri tue cam xuc cua sinh vien truong dai hoc su pham dai hoc da nang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.1 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trí tuệ cảm xúc là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu thập niên
90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các nhà chuyên môn,
đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ cảm xúc đối với sự thành
công của con người. Con người thành đạt trong cuộc sống ngày nay không chỉ có
kiến thức sâu rộng, khả năng sáng tạo mà còn cần phải có bản lĩnh để chế ngự các
cảm xúc trong tham gia, trong hợp tác, trong việc đưa ra quyết định, kết hợp với sự
thấu hiểu các diễn biến tâm lý, tình cảm của người khác.
Trong xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, con người dễ dàng đạt
được thành công trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là lúc họ có sự quan tâm đến
những nhu cầu của đời sống tinh thần đặc biệt là trong các mối quan hệ người người. Ở các nước phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến cảm xúc của con
người và việc giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then chốt, cơ
bản để phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người phù
hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc của sinh viên
là một trong những nội dung rất quan trọng của công tác giáo dục trong trường đại
học hiện nay.
Trí tuệ cảm xúc, một dạng trí tuệ mà các cuộc nghiên cứu gần đây
khẳng định rằng chúng quan trọng hơn cả trí thông minh truyền thống trong việc
dự đoán sự thành công và hạnh phúc của con người. Giáo sư Daniel Goleman cho
rằng: “Nếu bạn không có những khả năng về cảm xúc thì bạn không thể nào tiến
xa được”.
Và từ thời cổ đại, Aristotle cũng cho rằng: “Bất cứ ai cũng có thể trở nên
giận dữ - điều này thật dễ dàng. Tuy nhiên, để giận đúng người, đúng mức, đúng


lúc, đúng mục đích, và đúng cách - điều này là không dễ”. Trong một nghiên cứu
năm 2005, Gary R. Low và Darwin B. Nelson (trường Cao đẳng Giáo dục Texas
Hoa Kỳ) đã kết luận “Trí tuệ cảm xúc là chìa khóa quan trọng của cá nhân trong
việc giành được thành tích xuất sắc trong học thuật và sự nghiệp” . Như vậy, có
thể nói việc nhận thức đúng về tình cảm và khả năng xử lý cảm xúc sẽ quyết định


sự thành công và hạnh phúc của con người thuộc mọi tầng lớp và trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống.
Phát triển trí tuệ cảm xúc có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển
của sinh viên. Ví dụ: trí tuệ cảm xúc giúp sinh viên quản lý các tình huống căng
thẳng và giải quyết các vấn đề hàng ngày một cách có hiệu quả. Điều này tạo cho
sinh viên một nền tảng tốt về nhân cách cũng như những kỹ năng cần thiết trong
cuộc sống để họ có thể thành công vững chắc trong tương lai. Trí tuệ cảm xúc chịu
ảnh hưởng bởi kinh nghiệm mà cá nhân gặp phải, nó không cố định và có thể thay
đổi. Do vậy, việc giáo dục trí tuệ cảm xúc ở sinh viên là một điều cần thiết và rất
đáng được quan tâm.
Trí tuệ cảm xúc được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời và tiếp
tục phát triển cho đến khi trưởng thành. Đặc biệt, những năm học ở trong trường
đại học là những năm thú vị và có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời, là thời gian sinh
viên phát triển tốt hơn về mặt xã hội, tình cảm, nhận thức một cách mạnh mẽ. Đây
chính là giai đoạn sinh viên trải nghiệm sự phát triển to lớn về mặt tình cảm. Điều
này giúp cho sinh viên nâng cao năng lực cảm xúc của bản thân và tạo dựng nền
tảng cho sự phát triển trí tuệ cảm xúc. Sự chuẩn bị tốt về mặt cảm xúc ở giai đoạn
này là tiền đề để sinh viên tự tin, vững bước tiến vào ngưỡng cửa của cuộc đời.
Như vậy, giáo dục trí tuệ cảm xúc cho sinh viên là điều hết sức quan trọng và cần
thiết.
Tuy vậy, trí tuệ cảm xúc vẫn là một vấn đề còn mới mẻ, phức tạp đặc biệt


vấn đề trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
chưa được ai nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “TRÍ
TUỆ CẢM XÚC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC
ĐÀ NẴNG” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên

trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp
nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Sư Phạm –
Đại học Đà Nẵng.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Sư Phạm –
Đại học Đà Nẵng.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên năm nhất hệ Sư phạm trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà
Nẵng.
Đối tượng khảo sát: 280 sinh viên năm nhất hệ Sư phạm trường Đại học Sư
Phạm – Đại học Đà Nẵng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu.
Quy mô: 280 sinh viên năm nhất (chọn ngẫu nhiên) hệ Sư Phạm trường Đại
học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng.


Không gian: Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng.
Thời gian: từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2013.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên năm nhất hệ Sư phạm trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà
Nẵng có mức độ trí tuệ cảm xúc ở mức trung bình và thấp.
Các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên năm nhất hệ Sư phạm
trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng chưa đồng đều.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết để làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Khảo sát thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh
viên năm nhất hệ Sư phạm trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh
viên năm nhất hệ Sư phạm trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng.

6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp
sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phân tích - tổng hợp lý thuyết.
- Phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn


- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp điều tra viết.
6.3. Phương pháp hỗ trợ.
- Sử dụng phần mềm SPSS 13.0 và Excel 2007.


NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA SINH VIÊN
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc
1.1.1. Nghiên trí tuệ cảm xúc ở nước ngoài
Phong trào nghiên cứu trí tuệ cảm xúc bắt nguồn và phát triển mạnh mẽ nhất ở Mỹ
với các nhà tâm lý học kiệt xuất.
E.L.Thorndike là người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc và ông gọi đó
là trí tuệ xã hội vào cuối những năm 1930. Theo ông, trí tuệ xã hội là “năng lực hiểu và
điều khiển mà những người đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sử dụng để hành động
một cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người”.
David Weschler (1940) cho rằng yếu tố phi trí tuệ là yếu tố quan trọng cho con
người trong việc thích nghi và đạt được những thành tích trong cuộc sống. Theo ông, yếu
tố phi trí tuệ được xem là cần thiết để dự đoán khả năng thành công của một người.
Howard Gardner (1983) cho ra đời tác phẩm “Frames of mind” như là một tuyên
ngôn chống lại độc quyền của trí thông minh, chứng minh rằng không có hình thức duy

nhất, toàn khối của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, đúng hơn có một thang
trí tuệ rộng lớn. Theo lập luận đó, ông đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng trí tuệ cá nhân
gồm hai loại: trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) và trí tuệ về bản thân
(intrapersonal intelligence). Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan trọng như trí
thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ (Intelligence quotient) và đo lường bằng trắc
nghiệm IQ.
Reuven Bar-On (1985) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trong
luận án tiến sĩ của mình. Bar-On đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết nhân cách,
đưa ra mô hình Well-being (1997) với ý định trả lời câu hỏi: “Tại sao một người nào đó
lại có khả năng thành công hơn những người khác?. Bar-On đã xem xét lại những nghiên


cứu tâm lý về đặc tính của nhân cách có liên quan đáng kể đến sự thành công trong cuộc
sống và đã nhận diện được 5 khu vực (nhân tố) bao quát về mặt chức năng phù hợp với sự
thành công trong cuộc sống. Từ đó ông đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc kiểu hỗn hợp.
Vào năm 2000, Bar-On đĩnh nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc như là một dãy các phi năng
lực và những kỹ năng ảnh hưởng đến năng lực một người thành công trong công việc
đương đầu với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường”.
Peter Salovey và John Mayer là hai nhà tâm lý học Mỹ đã công bố định nghĩa chính
thức đầu tiên về trí tuệ cảm xúc vào năm 1990: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm
xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng
những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình”. Định nghĩa này đã có
ảnh hưởng quan trọng đến lý thuyết trí tuệ cảm xúc tại thời điểm đó. Cũng trong năm
1990, Peter Salovey, John Mayer cùng với M.T.Đipaolo đã công bố bộ trắc nghiệm đo trí
tuệ cảm xúc và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự phát triển khoa học về lý thuyết và phương
pháp xác định chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional Quotient).
Sau bảy năm, Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi nét định nghĩa trí tuệ cảm
xúc được nêu vào năm 1990 như sau: “Trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết, bày tỏ
cảm xúc; cảm xúc hóa tư duy; hiểu, suy luận với cảm xúc; điều khiển, kiểm soát cảm xúc
của mình và người khác”. Dựa trên định nghĩa này mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực

được xây dựng.
Daniel Goleman – Tiến sĩ tâm lý học của đại học Harvard đã tập hợp các kết quả
nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc và cho ra đời cuốn sách đầu tiên “Trí tuệ cảm xúc” vào năm
1995. Thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong xã hội Mỹ.
Daniel Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện công việc.
Ông xác định: mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng dụng trực tiếp
vào khu vực hiệu quả quản lý và hoàn thành công việc từ người bán hàng đến công việc
của nhà quản lý. Mô hình trí tuệ cảm xúc mà D.Goleman đề xuất là một mô hình kiểu hỗn
hợp.


Theo D.Goleman, trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: sự tự chủ, lòng nhiệt thành
và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích thích hành động.
Từ năm 1995, Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về trí
tuệ cảm xúc hiện nay, đề xuất chúng ta phải có những năng lực cảm xúc cá nhân gồm:
- Năng lực tự nhận biết bản thân
- Năng lực tạo động lực
- Những năng lực thông minh cảm xúc xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người
khác và năng lực giao tiếp xã hội.
Tuy nhiên, vào năm 2001 D.Goleman đưa ra bốn biểu hiện của trí tuệ cảm xúc nói
lên năng lực của cá nhân trong mối quan hệ với mình và năng lực xã hội của con người
trong mối quan hệ với người khác:
- Tự biết mình
- Tự kiểm soát, tự quản
- Nhận biết các quan hệ xã hội
- Kiểm soát, điều khiển các mối quan hệ xã hội.
Những nghiên cứu của Goleman không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của trí
tuệ cảm xúc mà ông còn đưa ra những biện pháp để giáo dục trí tuệ cảm xúc.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể nói có ba đại diện tiêu biểu đã đi sâu nghiên
cứu trí tuệ cảm xúc dưới những cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, R. Bar-On tiếp cận trí

tuệ cảm xúc dưới góc độ nhân cách, P. Salovey và J. Mayer nghiên cứu dưới góc độ nhận
thức và D. Goleman tiếp cận dưới góc độ hiệu quả công việc.
1.1.2. Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc trong nước


Ở Việt Nam, vấn đề trí tuệ đặc biệt là trí thông minh, trí sáng tạo đã được các nhà
tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc
chỉ mới ở những bước đi đầu tiên.
Vào năm 2000, tạp chí Tâm lý học lần đầu tiên đăng các bài viết của PGS.TS.
Nguyễn Huy Tú về trí tuệ cảm xúc.
Đề tài cấp nhà nước KX-05-06 giai đoạn 2001-2005 do PGS.TS. Trần Kiều cùng
với các nhà tâm lý và giáo dục thuộc viện chiến lược và chương trình giáo dục nghiên cứu
trí tuệ cảm xúc đã xác định trí tuệ cảm xúc là một trong ba thành tố của trí tuệ (trí thông
minh, trí sáng tạo và trí tuệ cảm xúc) trên sinh viên, học sinh và lao động trẻ. Đề tài này
mở đầu cho các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc sau này.
Các tác giả trong các công trình nghiên cứu luận văn, luận án tâm lý học cũng đã
chọn trí tuệ cảm xúc làm vấn đề nghiên cứu như: luận văn thạc sĩ của Dương Thị Hoàng
Yến (2004), luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007)... Các đề tài này phần lớn tập
trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của giáo viên trong hoạt động chủ nhiệm lớp. Luận văn
thạc sĩ của tác giả Phan Trọng Nam (2004) và Nguyễn Thị Tuấn Anh năm (2008) tập
trung nghiên cứu đối tượng là sinh viên sư phạm. Ngoài ra còn một số công trình nghiên
cứu khác về trí tuệ cảm xúc tập trung chủ yếu trên đối tượng là sinh viên.
Hiện nay, Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọn
Thủy, Phan Trọng Ngọ... và nhiều tác giả khác vẫn đang tiếp tục đi sâu nghiên cứu trí tuệ
cảm xúc.
Như vậy, có thể nói rằng những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về trí
tuệ cảm xúc tuy chưa nhiều nhưng đã đạt được kết quả bước đầu.
1.2. Khái niệm chung về trí tuệ và cảm xúc
1.2.1. Định nghĩa về trí tuệ



Trong tiếng La tinh: Trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là trí năng sắc sảo, sự hiểu biết
chu đáo.
Trong từ điển Tiếng Việt: Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ
nhất định.
Trong từ điển tâm lý: Trí tuệ là khả năng hành động thích nghi với biến động của
hoàn cảnh thiên về tư duy trừu tượng (Nguyễn Khắc Viện, 2001).
Giống như nhiều vấn đề khác trong tâm lý học, thật khó có thể nêu lên được một định
nghĩa hoàn chỉnh và đầy đủ nhất về thuật ngữ “trí tuệ” bởi lẽ cho đến nay có nhiều quan điểm
của các nhà khoa học khác nhau trên thế giới nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, “trí tuệ” hay
còn gọi là “trí thông minh” được định nghĩa theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta
có thể khái quát trí tuệ một cách tương đối theo 2 quan niệm: quan niệm truyền thống và quan
niệm hiện đại.
Trí tuệ theo quan niệm truyền thống
Điểm chung của quan niệm truyền thống là đồng nhất trí tuệ với trí thông minh
(intelligence). Theo F.S.Freeman (1963), trong vô số các định nghĩa về trí tuệ, có thể thấy rõ
có 3 loại: thứ nhất – xem trí tuệ là năng lực học tập; thứ hai – xem trí tuệ là năng lực tư duy
trừu tượng; thứ ba – xem trí tuệ là năng lực thích ứng cá nhân.
Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực học tập
Đây là quan niệm đã có từ lâu và khá phổ biến.
Nhà tâm lý học người Nga B.G.Ananhev xem trí tuệ là đặc điểm tâm lý phức tạp của
con người mà kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó.
V.V.Bogoxlovki và những người khác (1973) xem hệ thống những thuộc tính trí tuệ
của nhân cách đảm bảo cho sự tương đối dễ dàng trong việc nắm các tri thức, được hiểu là
các năng lực chung.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy giữa học tập (đặc biệt là kết quả học tập) với khả
năng trí tuệ của cá nhân có mối quan hệ nhân quả và chúng không đồng nhất. Trên thực tế,
phần lớn học sinh có chỉ số IQ cao nhưng kết quả học tập lại không cao. Điều này có thể giải



thích bằng nhiều lý do như động cơ học tập, ý chí, hứng thú, cách học… Chính A.Binet đã
nghiên cứu và chứng minh được những học sinh học kém là do khả năng trí tuệ và những em
do lười hoặc những nguyên nhân khác.
Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng
L.Terman (1937) cho rằng trí tuệ là năng lực phát triển tư duy trừu tượng.
Theo cách hiểu như vậy thì chức năng của trí thông minh là sử dụng có hiệu quả các khái
niệm và tượng trưng.
N.A.Menchinskaia xem đặc trưng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao tác
trí tuệ để con người tiếp thu được tri thức.
X.L.Rubinstein cho rằng đặc trưng cơ bản hàng đầu của trí tuệ là năng lực tâm thần ở
mức cao chẳng hạn như suy luận trừu tượng.
Theo cách hiểu này, trí tuệ tức là khả năng sử dụng có hiệu quả các thao tác tư duy để
giải quyết các vấn đề đặt ra. Trong khi đó, tư duy chỉ là một thành phần, một bộ phận của trí
tuệ. Quan niệm như vậy đã thu hẹp nội hàm lẫn hình thức của trí tuệ.
Nhóm quan niệm xem trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân
Đây là quan niệm phổ biến nhất và được nhiều nhà nghiên cứu tán thành.
V.Stern coi trí tuệ là năng lực thích ứng tâm lý chung của con người với những điều
kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống.
D.Wechler (1958) xem trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện trong
hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán và thông hiểu một cách đúng đắn, trong việc làm
cho môi trường thích nghi với những khả năng của mình.
J.Piaget xem bản chất của trí tuệ bộc lộ trong việc cấu tạo những mối quan hệ giữa môi
trường và cơ thể. Ông cũng cho rằng bất kỳ trí tuệ nào cũng đều là một sự thích ứng.
F.Raynal và A.Rieunier (1997) xem trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết
vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới.
N.Sillamy (1997) xem trí tuệ là khả năng hiểu mối quan hệ sẵn có giữa các yếu tố của
tình huống và thích nghi để thực hiện cho lợi ích bản thân.


Theo cách tiếp cận này, trí tuệ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể và môi

trường. Tuy nhiên sự tác động qua lại đó phải được xem xét như là một sự thích ứng tích cực,
có hiệu quả nhằm cải tạo môi trường cho phù hợp với mục đích của con người, chứ không
phải là sự thích ứng thụ động đơn giản.
Nhìn chung, các quan điểm trên không loại trừ lẫn nhau mà do cách tiếp cận khác nhau
trong việc lựa chọn dấu hiệu quan trọng nhất của trí tuệ. Các quan niệm này còn có một điểm
chung là đã đồng nhất trí tuệ với trí thông minh. Nhưng rõ ràng không một định nghĩa nào
trong các định nghĩa trên chứa đựng được hết bản chất của hiện tượng tâm lý phức tạp như trí
tuệ của con người. Do vậy, có thể xem những quan niệm trên đây là những quan niệm truyền
thống về trí tuệ. Những quan niệm này là nền tảng cho sự ra đời của quan niệm hiện đại về trí
tuệ.
Trí tuệ theo quan niệm hiện đại
Ngày nay, việc nghiên cứu trí tuệ dưới sự kết hợp của khoa học như: Di truyền học,
Thần kinh học, Công nghệ thông tin đã đem lại một cách nhìn nhận toàn diện và sâu sắc hơn.
Từ đó, các nhà tâm lý học thừa nhận trí tuệ là một hiện tượng tâm lý xã hội mang bản chất
lịch sử xã hội chứ không phải là cơ cấu khép kín, không thay đổi và có tính bẩm sinh di
truyền. Mặt khác, các nhà nghiên cứu có xu hướng cho rằng có nhiều loại trí tuệ khác nhau và
trí tuệ theo cách hiểu như vậy được biểu thị bởi thuật ngữ Wisdom.
Các nhà tâm lý học như: Hofstatter (1971), Sterberg vaf Gardner (1984) khẳng định trí
tuệ phải có cơ sở và gắn liền với thực tiễn. Trí tuệ theo quan niệm mới không chỉ thể hiện ở
việc giải quyết các tình huống trong đời sống hàng ngày. Trí tuệ chính là kết quả tương tác
giữa con người với môi trường sống, đồng thời trí tuệ cũng là tiền đề cho sự tương tác đó.
Theo Neisse (1976), nếu đặt trí tuệ hàn lâm (academic intelligence) vào điều kiện tự nhiên thì
sẽ có một dạng trí tuệ khác được thể hiện khi thực hiện các tình huống đời thường. Cho đến
1990, Amelang và Bartussek gọi dạng trí tuệ này là trí tuệ thực tiễn (practical intelligence).
Con người luôn sống và hoạt động trong mối tương tác với người khác, với cộng đồng, với
các nhóm khác nhau…Vì vậy, nếu con người chỉ trang bị cho bản thân những tri thức trường
học, tư duy logic, trí nhớ hay trí sáng tạo thì chưa đủ để hoàn thành nhiệm vụ thực tiễn. Do


vậy, ngoài trí thông minh và sáng tạo, con người cần phải có trí tuệ xã hội (Social Intellgence

= SI). Trí tuệ xã hội là năng lực hoàn thành các nhiệm vụ trong hoàn cảnh có sự tương tác với
người khác. Nó diễn ra trong hoạt động cùng người khác, với mục đích tâm lý và tính xã hội
ổn định. Trí tuệ xã hội được tạo nên bởi ba thành tố sau đây, trong đó trí tuệ cảm xúc là hạt
nhân:
- Tự nhận thức về bản thân
- Năng lực xã hội (Social competence) bao gồm ba tiểu thành tố:
+ Nhận thức (Cognitive)
+ Xúc cảm (emotion)
+ Vận động (motorie)
- Trí tuệ cảm xúc bao gồm bốn tiểu thành tố:
+ Tri giác (nhận ra) cảm xúc
+ Khả năng biểu hiện cảm xúc
+ Điều khiển có hiệu quả cảm xúc (của mình và của người khác)
+ Sử dụng những thông tin có liên quan đến cảm xúc để thúc đẩy, đặt kế hoạch và
thực hiện có kết quả những hành động nhất định.
Vào năm 1988, H.J.Eysenck đã đưa ra mô hình trí tuệ ba tầng bậc dựa trên sự kế thừa,
phát triển quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại:
- Trí tuệ sinh học (biological intelligence) là mặt sinh học của năng lực trí tuệ và là
nguồn gốc của những khác biệt về trí tuệ cá nhân.
- Trí tuệ tâm trắc (psychometric intelligence) hay trí tuệ hàn lâm là mặt trí tuệ được đo
bằng các trắc nghiệm IQ, CQ (Creative Quotient: chỉ số sáng tạo) truyền thống được xây
dựng trong tình huống giả định, có tính hàn lâm chưa phải là tình huống thực trong cuộc
sống. Nó bao gồm trí tuệ hàn lâm, trí thông minh hay năng lực nhận thức và sáng tạo.
- Trí tuệ xã hội là sự thể hiện của trí tuệ tâm trắc khi cần phải giải quyết các nhiệm vụ
trong cuộc sống thực tế của chủ thể hoạt động có sự nhận thức rõ ràng về bản thân, có nhận
thức về xã hội và mối quan hệ giữa bản thân với xã hội đó.


Tình trạng kinh
tế-xã hội


Động cơ

Giáo dục gia đình
Di truyền

Văn hóa

Dinh dưỡng

Kinh nghiệm

Yếu tố văn hóa

Thể chất

Sinh lý
AI
(IQ,CQ
)

BI

Nhân cách

Giáo dục

Thời gian
uống
Hoàn cảnh

gia đình

Giáo dục

Sinh hóa
Tình trạng
kinh tế-xã hội

Trí tuệ sinh học

SI
(EQ)

Các bệnh tâm thần

Trí tuệ tâm trắc

Các chiến
lược đối phó

Trí tuệ xã hội

Theo Eysenck, trí tuệ là một thuộc tính nhân cách mang bản chất sinh vật, tâm lý, xã
hội và văn hóa một cách sâu sắc.
Như vậy, trí tuệ theo quan điểm hiện đại không còn được hiểu đồng nhất với trí thông
minh, bởi lẽ trí tuệ là một cấu tạo tâm lý động, có phạm vi rộng hơn không chỉ bao gồm trí
thông minh mà còn trí sáng tạo và trí tuệ xã hội.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khi nghiên cứu
trí tuệ con người cần chú ý đến những vấn đề lý luận và phương pháp luận sau:
- Trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập tương đối với các yếu tố tâm lý khác của cá

nhân.
- Trí tuệ có chức năng đáp ứng mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể với môi
trường sống, tạo ra sự thích ứng tích cực của cá nhân.
- Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong hoạt động của chủ thể.
- Sự phát triển của trí tuệ chịu ảnh hưởng của yếu tố sinh học của cơ thể và chịu sự chế
ước của các yếu tố văn hóa – xã hội.
Như vậy, trí tuệ là một cấu trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận thức
của nhân cách, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa –


lịch sử quy định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung
quanh, cho sự cải tạo có mục đích.
Kế thừa và phát huy một cách sáng tạo, các nhà tâm lý học thuộc viện chiến lược và
Chương trình giáo dục Việt Nam đã đưa ra định nghĩa hiện đại và toàn vẹn hơn về trí tuệ như
sau: Trí tuệ - đó là một cấu trúc tương đối độc lập của những năng lực nhận thức và xúc cảm
của cá nhân, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa – lịch
sử quy định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung quanh,
cho sự cải tạo có mục đích của hiện thực ấy nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng trong
cuộc sống của cá nhân và xã hội.
1.2.2. Khái niệm chung về trí tuệ xúc cảm
1.2.2.1. Định nghĩa về cảm xúc
Nếu trí thông minh được biết đến và nghiên cứu một cách phổ biến, sâu sắc trong
gần một thế kỷ nay thì trí tuệ cảm xúc là một khái niệm mới được biết đến khoảng trên
một thập kỷ trở lại đây. Những nghiên cứu đầu tiên về trí tuệ xúc cảm được công bố trên
các tạp chí vào những năm 90 của thế kỷ XX, được xem là nhân tố dự đoán sự thành công
của con người (Daniel Goleman) và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho con người (Hein
Steve).
Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc được P. Salovey và J. Mayer sử dụng đầu tiên vào năm
1990. Không lâu sau đó vào năm 1995, D. Goleman cho ra đời cuốn sách bán chạy nhất
mang tên “ Emotional Intelliigence” thì thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trở nên phổ biến và

thông dụng ở nước Mỹ. Từ đây, các công trình nghiên cứu trí tuệ xúc cảm diễn ra một
cách rộng khắp và phổ biến.
Trí tuệ cảm xúc là một vấn đề mới mẻ, phức tạp đã và đang được nghiên cứu sâu
rộng. Vì thế, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về trí tuệ cảm xúc. Tuy
nhiên, nhìn tổng quát có thể nhận ra hai dòng quan niệm tiêu biểu về trí tuệ cảm xúc như
sau:


Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần
Bề dày nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc không nhiều . Vì vậy quan niệm về trí tuệ
cảm xúc khá đa dạng với nhiều xu hướng khác nhau. Nổi bật nhất là những quan niệm
sau:
Darwim đã đề cập đến tầm quan trọng của sự diễn ra cảm xúc của các cá thể trong
quá trình chọn lọc tự nhiên và các thay đổi thích nghi.
E.L. Thorndike khoảng những năm 1920 đã sử dụng khái niệm “trí tuệ xã hội” để
miêu tả kỹ năng và quản lý người khác.
Về sau, trên cơ sở quan niệm của Howard Gardner về sự tồn tại một dạng trí tuệ cá
nhân bao gồm trí tuệ về mối quan hệ giữa các cá nhân và trí tuệ cá nhân hướng nội. Năm
1990, P.Salovey và J.Mayer đi tiên phong trong việc phát triển lý thuyết trí tuệ cảm xúc
theo kiểu thuần năng lực tâm thần. Hai ông đã đưa ra nội dung chính thức về trí tuệ cảm
xúc như sau: “trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc bản thân, thấu hiểu cảm xúc
của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy
nghĩ và hành động của mình”.
Sau nhiều công trình nghiên cứu, năm 1997 Mayer và Salovey đã thay đổi đôi chút
định nghĩa trí tuệ cảm xúc được nêu vào năm 1990 nhằm nhấn mạnh hơn nữa khía cạnh
nhận thức, suy nghĩ về cảm giác và các giai đoạn phát triển trí tuệ và xúc cảm. Mayer và
Salovey đã chính xác hóa nội dung định nghĩa như sau: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận
biết và bày tỏ cảm xúc; hòa cảm xúc vào suy nghĩ; hiểu và suy luận với cảm xúc; điều
khiển, quản lý cảm xúc của mình và của người khác”.
Trong một cuốn sách xuất bản năm 1996, H.Steve cũng đưa ra định nghĩa tương

đồng với các tác giả trên, theo đó: “Trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp giữa sự nhạy cảm về
cảm xúc có tính chất tự nhiên với các kỹ năng quản lý cảm xúc có được do tự học hỏi,
nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống”. Theo đó, ông cho rằng: trí tuệ


cảm xúc là một tiềm năng bẩm sinh để cảm nhận, sử dụng, giao tiếp, nhận biết, ghi nhớ,
mô tả, xác định, học hỏi, quản lý, hiểu và giải thích cảm xúc.
Cùng với quan điểm trên, Boyatizis (1999) cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực
nhận biết tình cảm của mình và của người khác để tự thúc đẩy mình, kiểm soát, điều khiển
cảm xúc của mình và của người khác”
Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu hỗn hợp
R.Bar-On dựa trên cơ sở hiểu biết cảm xúc và xã hội có ảnh hưởng đến khả năng
đối phó có hiệu quả của con người đối với môi trường và hoàn cảnh, ông cho rằng: “ Trí
tuệ cảm xúc là một dãy các năng lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến
khả năng thành công của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với những
yêu cầu và sức ép từ môi trường”
Theo cách tiếp cận trên, quan điểm của D.Goleman (1995) được biết đến một cách
rộng rãi hơn: “ Trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình
và năng lực thôi thúc mình”. D. Goleman nhận thức được rằng ông đang đi từ trí tuệ cảm
xúc sang cái gì rộng lớn hơn khi cho rằng có một từ có vẻ lỗi thời cho một loạt các kỹ
năng mà trí tuệ cảm xúc được xem là đại diện qua các kỹ năng này là: “tính nết”.
Các quan niệm theo kiểu hỗn hợp cho thấy có sự pha trộn hay kết hợp giữa các
năng lực tâm thần và các năng lực không phải là tâm thần, chẳng hạn như các nét nhân
cách: nhiệt tình, kiên trì, lạc quan…
Hiện nay trí tuệ cảm xúc được các nhà tâm lý học trên thế giới định nghĩa như là
khả năng tác động có hiểu quả lên những ham muốn của bản thân (R.Busk, 1991;
E.L.Ykovleva, 1997) ; khả năng hiểu sự thể hiện của nhân cách ra bên ngoài thông qua
cảm xúc cũng như dùng trí tuệ để phân tích, tổng hợp vấn đề, trên cơ sở đó điều tiết cảm
xúc của mình (Peter Salovey, John D.Mayer, 1994; G.G. Gorskova, 1999)
Như vậy, các cách tiếp cận trên đã đưa ra định nghĩa khác nhau về trí tuệ cảm xúc,

từ đây sẽ làm nảy sinh các mô hình trí tuệ cảm xúc khác nhau. Nhìn chung chúng ta có thể


nhận thấy trí tuệ cảm xúc là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện cho những nhân tố
khó thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, sự thấu cảm, tính tích cực hoạt
động xã hội,… Về cơ bản, các tác giả nhất trí xem trí tuệ cảm xúc có liên quan đến những
năng lực nhận biết và điều khiển các cảm xúc của mình và của người khác.
Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới góc độ thuần năng lực đã cho thấy sự khác biệt
giữa trí tuệ cảm xúc và các nét tính cách quan trọng của nhân cách, khu trú trí tuệ cảm xúc
vào năng lực tâm lí và chỉ rõ nội dung cốt lõi của trí tuệ cảm xúc là sự tương tác giữa cảm
xúc và tư duy. Điều này có nghĩa là những người được coi là có trí tuệ cảm xúc cao phải
có khả năng tiến hành xử lí thông tin xúc cảm một cách tinh tế. Do vậy khi con người sử
dụng năng lực của bản thân để làm cho suy nghĩ của chính mình dễ dàng thì họ có thể học
được cách điều chỉnh cảm xúc. Trên cơ sở này , chúng tôi chọn quan điểm trí tuệ cảm xúc
theo kiểu thuần năng lực của Mayer và Salovey làm cơ sở lí luận định hướng nghiên cứu
của đề tài.
1.2.2.2. Đặc điểm về cảm xúc
Trí tuệ cảm xúc là một cấu trúc phức hợp của nhiều năng lực khác nhau liên
quan đến lĩnh vực cảm xúc.
Trí tuệ cảm xúc là tổ hợp của những năng lực về cảm xúc của bản thân. Tổ hợp đó
bao gồm nhiều năng lực cụ thể khác nhau chẳng hạn như: năng lực hiểu biết của bản thân,
năng lực điều khiển, điều chỉnh cảm xúc của bản thân cho phù hợp với hoàn cảnh xung
quanh. Các năng lực này đóng vai trò quyết định trong việc một người có thể học các kỹ
năng cần thiết để thành công trong công việc và cuộc sống.
Trí tuệ cảm xúc mang bản chất xã hội lịch sử, trí tuệ cảm xúc được hình thành trong
quá trình cá nhân tham gia vào các dạng hoạt động như học tập, lao động, hoạt động xã
hội và chịu sự ức chế to lớn của môi trường giáo dục, môi trường xã hội.
Trí tuệ cảm xúc dễ thay đổi và có biên độ thay đổi rộng



Trái với quan niệm truyền thống, những phát hiện gần đây trong tâm lý học và từ
thực tế nghịch lý cho thấy trí thông minh, bằng cấp, và các kỳ thi chưa phải là công cụ tiên
đoán một cách chắc chắn sự thành công trong tương lai của con người. Vài thập niên gần
đây, nhiều nhà tâm lý học cho rằng trí thông minh chỉ là vùng hẹp của những năng lực
ngôn ngữ và toán học, khả năng dự đoán các kết quả trắc nghiệm trí thông minh tốt cũng
sẽ không cao và ít quan trọng hơn khi rời khỏi lĩnh vực trường học. Goleman nhận định
rằng: “Sự tương quan giữa chỉ số IQ và thành tựu đạt được trong công việc, tỉ lệ này dự
kiến đạt mức cao nhất chỉ vào khoảng 25%”. Theo Gardner, trong tuyệt đại đa số trường
hợp, vị trí chắc chắn mà cá nhân có được trong xã hội được quy định bởi những nhân tố
khác. Nhân tố ấy chính là trí tuệ cảm xúc như là năng lực thúc đẩy hay kiên trì trong khó
khăn, làm chủ những xung năng của mình và nhẫn nại chờ đợi thỏa mãn ham muốn, khả
năng điều hòa tâm lý và không để sự buồn rầu của mình chi phối khả năng đồng cảm và
hy vọng. Trí tuệ cảm xúc có thể cho phép tiên đoán sự thành công trong đường đời của
mỗi người. Trí tuệ cảm xúc hướng dẫn sự lựa chọn sáng suốt, mang màu sắc lý tính trong
tình huống khác nhau, chúng hoạt động ăn khớp với tinh thần lý trí, cho phép hoặc ngăn
cấm hoạt động lý trí.
Trí tuệ cảm xúc là khả năng có thể tự học hỏi được và ngày càng sắc sảo hơn trong
quá trình sống tức là được tích lũy dần từ kinh nghiệm của chúng ta. Trí tuệ cảm xúc dễ
thay đổi và có biên độ lớn. Trí tuệ cảm xúc có thể được dạy bởi giáo viên, gia đình… Điều
này mở ra khả năng cho việc giáo dục trí tuệ cảm xúc cho mọi người. Thực tế cho thấy
rằng trong 2 năm sau khi xuất bản cuốn sách của Goleman, có hơn 700 trường học tiến
hành chương trình học tập cảm xúc xã hội (SEL- Social Emtional Learning) được tiết kế
để dạy cho học sinh những kỹ năng cảm xúc, kỹ năng xã hội và trí tuệ cá nhân khi giải
quyết vấn đề (Cohen, 2001).
Trí tuệ cảm xúc là một dạng siêu năng lực hay siêu trí tuệ
Trí tuệ hàn lâm không chuẩn bị cho con người đủ sức đương đầu với những thử
thách, cơ hội và biến động không ngừng của cuộc sống. Ngay cả chỉ số thông minh cao


cũng không đảm bảo cho sự thành công, thịnh vượng và hạnh phúc nếu không có những

nét tính cách phù hợp, những cảm xúc thông minh. Đời sống xúc cảm là một lĩnh vực
nhạy cảm, phức tạp mà con người có thể chứng tỏ những năng lực của mình và đòi hỏi
vốn hiểu biết nhất định. Sự thành thạo, khéo léo của con người về trí tuệ cảm xúc là
nguyên nhân tạo thành công cho người đó, trong khi người khác có trí thông minh tương
đương nhưng có trí tuệ xúc cảm kém lại thất bại. Trí tuệ cảm xúc thực sự là loại siêu trí
tuệ, siêu năng lực vì nó quyết định việc chúng ta có thể khai thác thế mạnh của mình, kể
cả lợi thế về trí thông minh hay không. Thực tế cho thấy những người có sự hiểu biết về
đời sống tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được những xúc cảm của người
khác và hòa hợp với cảm xúc ấy một cách hữu hiệu thì luôn có lợi thế trong nhiều lĩnh
vực. Ngược lại, những người không kiểm soát đời sống tình cảm của mình thường chịu
xung đột nội tâm, mất năng lực tập trung và suy nghĩ thiếu sáng suốt. Điều này chứng tỏ
người có trí tuệ cảm xúc cao thường nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ để đạt lấy thành công và
hạnh phúc.
1.2.2.3. Mô hình trí tuệ cảm xúc
Năm 1990, P. Salovey và J. Mayer lần đầu tiên đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc, cho
đến nay đã có một số mô hình trí tuệ cảm xúc được đề xuất: mô hình của Goleman (1995),
Cooper và Sawap (1997), Weisinger (1998),… Nhìn một cách tổng quát có thể phân thành
hai nhóm mô hình trí tuệ cảm xúc bao gồm: mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực và mô
hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp. Hai mô hình này không chỉ khác nhau về khái niệm, cấu
trúc, thành tố mà còn về cách thức, phương pháp đo lường và đánh giá.
Mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực
P. Salovey và J. Mayer (1990) đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực bao
gồm 3 quá trình trí tuệ (mantal process) liên quan đến nhau và hàm chứa các thông tin
cảm xúc dựa trên cách hiểu trí tuệ cảm xúc như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát
tình cảm của mình và người khác, để định hướng cách suy nghĩ và hành động của bản
thân.


Những quá trình của mô hình cảm xúc (1990) bao gồm:
- Đánh giá và biểu hiện cảm xúc (bản thân và người khác)

- Điều khiển, kiểm soát cảm xúc (bản thân và người khác)
- Sử dụng cảm xúc một cách phù hợp để giải quyết vấn đề, bao hàm từ cách suy
nghĩ linh hoạt, suy nghĩ sáng tạo, tập trung chú ý trực tiếp và động cơ thúc đẩy.
Sau khi đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), hai ông đã đưa ra hai cách đánh giá
đo lường trí tuệ cảm xúc như sau: phương pháp đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào tự thuật
(self-report measures). Tuy nhiên, lúc bấy giờ Mayer và Salovey đã lưu ý rằng cần làm
sao để những thành phần trí tuệ cảm xúc có thể đánh giá như một năng lực.
Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), Shutte và các đồng sự đã soạn thảo một
thang đo lường trí tuệ cảm xúc theo thứ tự kiểu đánh giá gồm 33 mục hỏi, còn gọi là EIS.
Tuy nhiên, người ta nhận thấy EIS có thể không thích hợp cho việc đo lường trí tuệ cảm
xúc dù có nhiều nghiên cứu đã cho thấy có nhiều nhân tố có liên quan đến đặc điểm của
trí tuệ cảm xúc và quá trình thông tin của trí tuệ cảm xúc.
Sau 7 năm nghiên cứu mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), Mayer và Salovey nhận ra
những thiếu soát của mô hình này và đã cùng đồng nghiệp là David Caruso bổ sung, đổi
mới để cho ra đời một quan niệm mới về trí tuệ cảm xúc và một mô hình trí tuệ cảm xúc
mới vào năm 1997 gồm bốn năng lực cảm xúc sau đây:
- Nhận thức cảm xúc (của bản thân, người khác và môi trường xã hội).
- Sử dụng cảm xúc để đẩy mạnh tư duy và để tạo ra một sự chia sẻ cảm xúc tương
ứng.
- Hiểu rõ cảm xúc chẳng hạn : hiểu nguyên nhân cảm xúc, sự biến đổi của chúng qua
thời gian…
- Kiểm soát sự kết hợp của lập luận và những dữ kiện về những cảm xúc để ra những
quyết định chiến lược hay còn gọi là kiểm soát cảm xúc.


Mô hình này nhấn mạnh đến mặt nhận thức, tập trung vào khả năng tâm trí cụ thể
để phục vụ cho việc nhận biết và tổ chức điều khiển cảm xúc.
Điểm nổi bật của mô hình cảm xúc trí tuệ năm 1997 so với mô hình trí tuệ cảm xúc
năm 1990 ở chỗ là các năng lực trong mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997 không đơn
thuần chỉ có mối quan hệ với nhau như những thành phần trong một cấu trúc mà còn như

là một quy trình liên tục. Ý nghĩa quan trọng của mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997, D.
Caruso và các cộng sự đề xuất một quy trình phát triển trí tuệ cảm xúc bao gồm 4 giai
đoạn như sau: nhận thức cảm xúc, hiểu rõ cảm xúc và kiểm soát cảm xúc.
Cũng dựa trên mô hình cảm xúc thuần năng lực năm 1997, Mayer, Salovey và
Caruso đã soạn thảo trắc nghiệm đo lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu phép đo lường năng
lực mang tên MSCEIT (Mayer Salovey Caruso Emtional Intelligence Test) vào năm
2002.
Mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp (Mixed models of EI)
Khác với mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực, các mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn
hợp đều pha trộn nhiều yếu tố và mở rộng ý nghĩa của cấu trúc. Đại diện cho mô hình trí
tuệ cảm xúc hỗn hợp như mô hình của Bar-On, Cooper và Sawap, Goleman,…
Tiếp cận trí tuệ cảm xúc dười góc độ nhân cách, R. Bar-On (1997) đưa ra mô hình
trí tuệ cảm xúc hỗn hợp. Lý thuyết của Bar-On kết hợp những đặc tính được xem là năng
lực tâm lý chẳng hạn như: tự nhận biết cảm xúc của mình với các đặc tính khác được xem
là khác biệt với năng lực tâm lý như là tính độc lập, tính tự trọng và tâm trạng.
Theo Bar-On cấu trúc trí tuệ cảm xúc gồm 5 khả năng sau:
- Khả năng hiểu mình, thể hiện khả năng làm chủ cảm xúc của mình, thể hiện ở sự
nhận ra cảm xúc của bản thân, ở lòng tự trọng, tự lập và sự hiện thực hóa.
- Khả năng hiểu người khác, thể hiện trong các quan hệ cá nhân, trong trách nhiệm
xã hội và ở sự đồng cảm với người khác.
- Khả năng thích ứng, thể hiện trong khả năng giải quyết vấn đề, trong việc kiểm tra
cảm xúc qua thực tiễn và trong tính mềm dẻo của tư duy.
- Khả năng kiểm soát căng thẳng (stress), thể hiện ở khả năng chịu đựng các căng
thẳng gặp phải, khả năng kiểm soát được các bất đồng, xung tính.


- Khả năng giữ tâm trạng cân bằng, thể hiện ở sự hạnh phúc, tinh thần lạc quan.
Dựa trên sự tổng kết nhiều công trình nghiên cứu, Daniel Golenam (1995) đã đưa ra
mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp bao gồm 5 khu vực sau:
- Hiểu về cảm xúc của mình (Knowing one’s emtion): thể hiện ở sự tự nhận cảm

xúc của mình khi nó xảy ra mọi lúc.
- Quản lý cảm xúc (Managing emotions): thể hiện ở khả năng xử lý cảm xúc một
cách thích hợp, ở năng lực an ủi, động viên con người, năng lực tìm ra các phương pháp
để loại bỏ nhưng nỗi sợ hãi, lo lắng, giận dữ và buồn đau.
- Tự thúc đẩy, động cơ hóa mình (Motivating oneslf): thể hiện ở năng lực điều
khiển cảm xúc hướng vào mục đích hành động: khả năng biết trì hoãn những ham muốn
của bản thân, chế ngự, dập tắt sự bất đồng xung tính và khả năng hòa vào tâm trạng hứng
khởi.
- Nhận biết cảm xúc ở người khác (Recognizing emotion in thers): thể hiện ở khả
năng đồng cảm với người khác bao gồm sự nhạy cảm, quan tâm đến cảm xúc của người
khác và khả năng đoán trước được những triển vọng của họ, làm cho mình phù hợp với
điều người khác cần và mong muốn.
- Xử lý các quan hệ (Handling relationships): thể hiên ở khả năng điều khiển cảm
xúc của người khác và biết phối hợp hành động hài hòa với người khác. Xử lý các quan hệ
sẽ cho thấy trình độ tự nhận thức và năng lực xã hội của cá nhân như thế nào. Xử lý các
mối quan hệ còn chứa đựng khả năng kiểm soát cảm xúc trong quan hệ với người khác,
năng lực xã hội và kỹ năng xã hội.
Tuy nhiên, năm 2001 Goleman lại đưa ra cấu trúc của trí tuệ xúc cảm gồm có hai
nhóm năng lực: năng lực cá nhân và năng lực xã hội.
Năng lực cá nhân

Năng lực xã hội

(Quan hệ với mình)

(Quan hệ với người khác)

 Tự biết mình

 Nhận biết các quan hệ xã hội


- Nhận biết cảm xúc của mình

- Đồng cảm

- Đánh giá chính xác mình

- Định hướng sự phục vụ

- Tự tin

- Biết cách tổ chức


 Tự kiểm soát quản lý mình

 Quản lý điều khiển các mối quan hệ xã
hội

- Kiểm soát cảm xúc của mình

- Phát triển người khác

- Có lòng tin

- Tạo ảnh hưởng

- Tự ý thức

- Giao tiếp


- Thích ứng

- Kiểm soát xung đột

- Động cơ thành đạt

- Lãnh đạo có tầm nhìn, khôn ngoan

- Sáng tạo

- Xúc tác để thay đổi
- Xây dựng các mối quan hệ
- Tinh thần đồng đội, sự hợp tác

Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp, Bar-On đã soạn thảo trắc nghiệm đo
lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu tự đánh giá là EQ -I (Emotional Quotient - Interview),
thang đo trí tuệ cảm xúc của Goleman (1995) hay thang đo trí tuệ cảm xúc của Cooper
(1996-1997)…
Như vậy, trong khi mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp có khuynh hướng pha trộn
nhiều nét của nhân cách, vừa không chứng minh được trí tuệ cảm xúc là một dạng trí tuệ,
vừa có ít điều kiện đo lường nó một cách chính xác, tin cậy thì mô hình trí tuệ cảm xúc
thuần năng lực nổi bật và thu hút nhiều nhà nghiên cứu cũng như đem lại nhiều lợi ích
hơn trong lĩnh vực như: giáo dục học, tổ chức nhân sự, lãnh đạo quản lý xã hội,… Ngay
từ năm 1993, Mayer và Salovey đã phát biểu rằng trí tuệ cảm xúc tiêu biểu cho những
cấu trúc độc nhất vô nhị có thể làm nền tảng cho quá trình hình thành thông tin cảm xúc,
không nên xem xét trí tuệ cảm xúc như hỗn hợp những năng lực bẩm sinh và những nét
tính cách xã hội, mà nên xem nó như một loại trí tuệ làm phát triển, nâng cao sự hình
thành các loại thông tin nhất định.
Mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp chủ trương đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào sự tự

thuật (self- report measures) trong khi mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực đưa ra
những tiêu chuẩn đánh giá dựa trên những thông tin biểu hiện (performance-based
measures). Trên thực tế, con người thường không thông báo chính xác trình độ năng lực
trí óc của mình. Điều này cũng xảy ra tương tự đối với sự thông báo của cá nhân về năng


lực cảm xúc. Chẳng hạn khi yêu cầu người ta đánh giá trí tuệ cảm xúc của mình rồi cung
cấp cho họ một biện pháp khách quan về thực hành trí tuệ cảm xúc, kết quả cho thấy mối
tương quan rất thấp và thường không có ý nghĩa về mặt thống kê. Chính vì thế, các nhà
tâm lý học thế giới bên cạnh việc tiếp tục khám phá lĩnh vực trí tuệ cảm xúc đã thừa
nhận: “Dựa trên những bằng chứng hiện thời đã đề xuất rằng lĩnh vực này sẽ thu được
nhiều lợi ích nếu các nhà nghiên cứu trí tuệ cảm xúc nghiên cứu căn cứ theo mô hình trí
tuệ cảm xúc thuần năng lực của Mayer, Salovey và cộng sự”.
Từ những phân tích trên về mô hình trí tuệ cảm xúc và phương pháp đo lường trí tuệ
cảm xúc dựa trên những mô hình của nó, chúng tôi chọn mô hình trí tuệ cảm xúc thuần
năng lực của Mayer và Salovey (1997) là cơ sở lý luận nghiên cứu thực trạng của đề tài.
1.2.2.4 Các mặt biểu hiện của trí tuệ cảm xúc
Các mặt biểu hiện của trí tuệ cảm xúc bao gồm: Nhận thức cảm xúc, cảm xúc hóa
tư duy (hay hòa cảm xúc vào suy nghĩ), hiểu cảm xúc, điều khiển – kiểm soát cảm xúc.
Tuy nhiên, vì giới hạn của đề tài nên chúng tôi chọn hai mặt biểu hiện là hiểu cảm xúc,
điều khiển cảm xúc của mình và của người khác để nghiên cứu.
Hiểu biết cảm xúc
Năng lực hiểu biết cảm xúc thể hiện ở chỗ hiểu được những loại cảm xúc nào là
tương tự, là đối nghịch hay sự pha trộn giữa các loại cảm xúc. Hiểu cảm xúc cũng chính là
hiểu những quy luật trong đời sống cảm xúc, chẳng hạn như sự mất mát thường kéo theo
sự buồn chán hoặc sự buồn chán có thể làm người ta không muốn tiếp xúc với người khác,
sự thành công không thể giải thích được của đối phương dễ dẫn đến cảm giác ganh tỵ,…
Hiểu biết cảm xúc liên quan đến khả năng thấu hiểu các ngôn ngữ cảm xúc, hiểu rõ
mối quan hệ phức tạp giữa các cảm xúc. Thành phần này liên quan đến khả năng hiểu,
thấu hiểu (thông cảm, đồng cảm), tôn trọng, thúc đẩy và truyền cảm xúc để khích lệ, an ủi

người khác. Hiểu biết cảm xúc thể hiện ở chỗ cá nhân hiểu biết xúc cảm tình cảm của bản
thân, nhưng nhấn mạnh ở việc cá nhân hiểu biết xúc cảm và tình cảm của người khác, để


×