Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận tân phú, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.71 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRUNG TIẾN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRUNG TIẾN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI, năm 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng, chính xác và trung thực. Kết luận của luận
văn chưa từng được công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn

Lê Trung Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM .......................................... 8
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .... 8
1.2. Đặc điểm, phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm .................................................................................... 16
Tiểu kết Chương 1..................................................................................... 18
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI QUẬN TÂN PHÚ,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................... 20
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm....................................................... 20
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh .............................. 28
Tiểu kết Chương 2..................................................................................... 46
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ TẠI QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......... 48
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ...................................................................................... 48
3.2 Giải pháp chính ..................................................................................... 52
3.3. Các giải pháp khác ............................................................................... 55
Tiểu kết Chương 3..................................................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CP

: Chính phủ

CT

: Chỉ thị

ĐCS

: Đảng cộng sản


ĐTV

: Điều tra viên

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSV

: Kiểm sát viên

KSXX

: Kiểm sát xét xử

NN

: Nhà Nước

PL

: Pháp luật

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

TNHS


: Trách nhiệm hình sự

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TP

: Thẩm phán

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XXST

: Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
S



T
r
h 2T a 2
.ỷ
8
2T
3
.ỷ
4
T
3
2ỷ
. lệ 6
32T
T
3
.ỷ
8
T
4
2ỷ
. lệ 0
5số


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước những đòi hỏi, yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội

phạm hiện nay, việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật là một trong những nội dung quan trọng được thể hiện ở nhiều nghị
quyết của Đảng trong thời gian qua. Trong đó có hoạt động thực hành quyền
công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân nhằm
mục đích chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Yêu cầu trên đã được trình bày cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, BLTTHS
năm 2003 và được tiếp tục khẳng định ở Hiến pháp 2013 và luật tổ chức Viện
kiểm sát năm 2014, BLTTHS năm 2015. Nghị quyết số 48/NQ-TW và Nghị
quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” BLTTHS 2015 đã có những qui định thể hiện tinh thần đó. Hiện nay,
BLTTHS 2015 đã qui định khá cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của Kiểm sát
viên nói riêng và Viện Kiểm Sát nói chung trong việc thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự sơ thẩm.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy cơ quan VKSND đã thực hiện
tương đối tốt chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự góp phần tích cực vào đấu tranh chống tội phạm,
bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân. Tuy nhiên bên
cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của VKSND trong lĩnh vực này vẫn
còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội và công cuộc cải
cách tư pháp hiện nay. Một trong những nguyên nhân là do chính sách hình
sự, các quy định pháp luật về tố tụng hình sự có nhiều bất cập, chậm được sửa
đổi bổ sung; trong đó chủ yếu là do quá trình thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm ở một số vụ án của Kiểm sát viên còn có vi phạm thủ

1


tục tố tụng; việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị các tài liệu, nội dung đề cương
thẩm vấn tại phiên tòa của KSV chưa được chú trọng; hoạt động tranh tụng

của KSV với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
còn nhiều mặt hạn chế nên thực tế vẫn để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội
phạm.
Trong giai đoạn vừa qua, VKSND quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí
Minh đã thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình góp phần to lớn
vào việc phát triển kinh tế, xã hội; bảo đảm an ninh chính trị của địa phương.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ đặc biệt là công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự. Vì lý do đó tôi chọn đề tài: "Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận Tân
Phú, Thành phố Hồ Chí Minh" làm luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố ở nước ta đã và đang
được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau:
- Lê Thị Tuyết Hoa (2002) Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật. [9]
- Trần Đình Tú (2008) Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân các quận ở thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. [25]
- Mai Thị Nam (2008) Chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ
thẩm hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá, Luận
văn thạc sĩ, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. [11]

2


- Bùi Trí Dũng (2008) Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, Luận văn

thạc sĩ, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. [6]
- Đào Thịnh Cường (2009) Năng lực áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà
Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh. [5]
- Trần Quốc Hoàn (2009) Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
ở tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sỹ, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh. [10]
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002) Những giải pháp nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Đề tài
khoa học cấp bộ, Hà Nội. [14]
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008) Viện kiểm sát nhân dân trong
tiến trình cải cách tư pháp, Hội thảo khoa học, Hà Nội. [15]
- Ban cán sự Đảng – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008) Tổ chức bộ
máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải
cách tư pháp, Đề án, Hà Nội. [2]
- TS Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. [21]
- Ngô Thị Thu An (2016) Nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết các vụ án hình sự ở
thành phố Hải Phòng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội. [1]
- TS. Dương Thanh Biểu (2007) Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm,
NXB Tư pháp, Hà Nội. [2]

3


- TS. Lê Cảm (2001) Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố
(nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền), Tạp chí chuyên ngành Viện

kiểm sát nhân dân, Hà Nội. [4]
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2017) Các giải pháp nhằm
thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự theo quy định
mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật hình sự và
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Chuyên đề khoa học, Khánh Hòa. [28]
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ (2016) Hướng dẫn công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự năm 2016, Công văn, Phú
Thọ. [30]
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2017) Những qui định mới
của Pháp luật và những vấn đề cần lưu ý nhằm bảo đảm thực hiện tốt công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự, Chuyên đề khoa
học, Khánh Hòa. [29]
Ngoài ra còn có một số công trình, bài viết đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành như: Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm
sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp của tác giả Lê Hữu Thể, Tạp chí
kiểm sát số 14-16, 2008; Bàn về mô hình Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách
tư pháp của tác giả Lại Hợp Việt, tạp chí Kiểm sát số 14-16, 2008; Một số ý
kiến về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp
của tác giả Bùi Đức Long, tạp chí Kiểm sát số 14-16, 2008; ...
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập tới một số khía cạnh của
quyền công tố và thực hành quyền công tố song chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về năng lực thực hành quyền công
tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của KSV VKSND quận Tân Phú,
Thành phố Hồ Chí Minh. Kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển những kết

4


quả nghiên cứu nêu trên, luận văn này nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề

năng lực thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại
quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn, những mặt ưu; khuyết
điểm để làm rõ vai trò của Viện kiểm sát trong thực hiện chức năng công tố
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm về cả mặt lý luận và thực tiễn. Dựa trên cơ sở
nêu trên làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố, đồng
thời xác định thực tiễn thực hành quyền công tố tại quận Tân Phú, Thành phố
Hồ Chí Minh cũng như tìm nguyên nhân của những sai sót, hạn chế trong quá
trình thực hành quyền công tố, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền và chức năng công
tố bằng cách nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân.
- Nghiên cứu về chức năng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
- Nghiên cứu thực trạng và thực tiễn thực hành quyền công tố tại quận
Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017, tìm ra những
kết quả tích cực đạt được cũng như những bất cập, hạn chế. Trên cơ sở đó đưa
ra các giải pháp kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hành quyền công
tố của Kiểm sát viên nói riêng và Viện kiểm sát nhân dân nói chung trong quá

5


trình giải quyết vụ án hình sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về
quyền công tố, năng lực thực hành quyền công tố và thực trạng, giải pháp
nâng cao năng lực thực hành quyền công tố trong XXST các vụ án hình sự tại
quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề thực
hành quyền công tố của KSV VKSND quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí
Minh, cụ thể nhất là trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Thời
gian nghiên cứu, khảo sát trong vòng 5 năm, từ năm 2013 đến 2017.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
năng lực thực hành quyền công tố trong giai đoạn XXST các vụ án hình sự
của của KSV VKSND quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, trực tiếp là
sau khi ban hành bản cáo trạng và quyết định truy tố của VKSND cùng hồ sơ
vụ án được chuyển đến Toà án cho đến khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật hoặc bị kháng cáo, kháng nghị và hồ sơ vụ án được chuyển lên Toà án có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các
quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và pháp luật; về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về cải cách
tư pháp trong giai đoạn hiện nay và đặc biệt là quan điểm chỉ đạo về đấu tranh
phòng, chống tham nhũng.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch

6



sử, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa tương đối về mặt khoa
học pháp lý góp phần hoàn thiện một phần lý thuyết về chức năng công tố của
VKS, đồng thời thấy được vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
VKS trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn quận Tân Phú
trong thời gian vừa qua.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị; những đề xuất,
kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc
sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lý luận thực
hành quyền công tố cũng như hoạt động thực tiễn của cơ quan VKS tại phiên
toà sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, các đề mục với cơ cấu như sau:
Chương 1: Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

7


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM

1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm
1.1.1. Khái niệm công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đang triển khai thực hiện các
nghị quyết lần thứ 8 khoá VII, lần thứ 3 và thứ 7 khóa VIII của Ban chấp
hành trung ương Đảng về cải cách bộ máy nhà nước. Khi tìm hiểu về quyền
công tố, tôi thấy rằng đây là một đề tài rất rộng và được nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm nghiên cứu. Khi nghiên cứu về lịch sử xuất hiện quyền công
tố, tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: quyền công tố là một khái niệm
pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời
của Nhà nước và pháp luật [23, tr.86]. Quyền công tố xuất hiện hầu như trong
tất cả các hình thức Nhà nước từ trước đến giờ đã từng xuất hiện trong lịch sử
loài người.
Nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện
các giai cấp và xảy ra mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp ấy (thường là
mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và bị trị) không thể điều hòa được. Điều đó
có nghĩa là trong bất kỳ một xã hội nào, khi đã xuất hiện Nhà nước thì bên
cạnh lực lượng thống trị luôn có một hoặc nhiều lực lượng bị trị có thái độ thù
địch chống lại lực lượng thống trị đang nắm quyền lực nhà nước. Và muốn
trừng trị người phạm tội (người chống lại ý chí của giai cấp thống trị) thì phải
buộc được tội của họ. Quyền nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền)
thực hiện sự buộc tội này chính là quyền công tố [21, tr.15]. Việc tổ chức thực
hiện quyền công tố này như thế nào, nội dung của quyền công tố ra sao và

8


phạm vi của quyền công tố đến đâu được mỗi quốc gia quy định khác nhau
tùy theo giai đoạn lịch sử với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.

Theo dòng lịch sử pháp lý Việt Nam, có thể nói Luật tổ chức VKSND
năm 1981 và Hiến pháp năm 1980 là những bộ luật đầu tiên của Nhà nước
đưa ra thuật ngữ “thực hành quyền công tố” khi nói đến nhiệm vụ, chức của
VKSND. Hiểu và nhận định chính xác các khái niệm “quyền công tố” và
“thực hành quyền công tố” là một phương pháp tiếp cận nhanh chóng và hiệu
quả khi tìm hiểu về vai trò, vị trí và chức năng của VKS. Song, cho đến nay,
khi chúng ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa có sự
thống nhất cao trong nhận thức thế nào là quyền công tố, nội dung và phạm vi
quyền công tố như thế nào. Về vấn đề này, theo nghiên cứu của tác giả, thì có
nhiều quan điểm về quyền công tố nhưng trong đó có một số quan điểm nổi
bật như sau:
Quan điểm thứ nhất, xuất hiện trước khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi,
bổ sung năm 2001, quan điểm này đã hợp nhất hóa khái niệm quyền công tố
với khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Quan điểm này cho
rằng các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng là thực hành quyền
công tố: khi VKS ban hành kiến nghị yêu cầu các Cơ quan nhà nước, các tổ
chức kinh tế, xã hội bị kiểm sát sửa chữa, khắc phục vi phạm pháp luật của
mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế cũng là thực hành quyền công tố.
Dựa trên nền tảng chủ đạo chính là quy định của các Điều 137 và 138 Hiến
pháp 1992 và Luật tổ chức VKSND các năm 1981 và 1992 [17]. Biểu hiện
tiêu biểu của quan điểm này quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND 1992
[18].
Theo ý kiến của tôi thì hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm
trên là chưa chính xác, đã đồng nhất hoạt động thực hành quyền công tố với
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng thời cũng không phù hợp


với Hiến pháp. VKS có hai chức năng chiếu theo Hiến pháp 1992 được sửa
đổi bổ sung năm 2001 là: “Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt
động tư pháp” [12, tr.211]. Điều này được tái khẳng định một cách vững chắc

trong Hiến pháp 2013 như sau: khoản 1 Điều 107 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [16]. Sự quy
định rõ ràng, cụ thể hai chức năng của VKSND đã bác bỏ quan điểm này.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước để đưa các vụ việc trái với các quy định của pháp luật (chống đối lại ý
chí nhà cầm quyền) ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ
trật tự pháp luật [23, tr.87]. Quan điểm này được đưa vào như là quan điểm
chính trong học phần của Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội và rất hay được
nhắc đến trong các văn bản giải đáp các vấn đề vướng mắc, tổng kết các
chuyên đề trước đây của VKSND. Quan điểm này cho rằng, quyền công tố
xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh
vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành
luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và
ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác [21, tr.25].
Nội dung quyền công tố là tổng kết các biện pháp pháp lý đặc trưng theo quy
định của pháp luật tương đương mà VKS có trách nhiệm thực hiện trong hoạt
động kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền công tố
là một nội dung của hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự, TTHS và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm
đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện,
điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội, tăng cường pháp chế thống nhất [23, tr.88].
Đặc trưng của TTHS là phát sinh, tồn tại và chấm dứt không phụ thuộc
vào ý chí của những người tham gia tố tụng; còn tố tụng dân sự được tiến


hành với nguyên tắc đặc trưng là: quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự nên hoạt động tố tụng này phát sinh, tồn tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý
chí của đương sự. Đồng thời, quan điểm nêu trên đã đồng nhất quyền công tố
trong vụ án hình sự với những nhiệm vụ, quyền hạn khác của VKS trong quá

trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Quan điểm thứ ba cho rằng, “quyền công tố là quyền Nhà nước giao
cho VKSND nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung sử dụng để
truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự để trừng trị các pháp nhân,
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự” [21, tr.26].
Theo quan điểm nghiên cứu của tôi thì quan điểm này chưa chính xác
bởi đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS: tội phạm khi
được thực hiện đều xâm phạm đến lợi ích chung hoặc riêng, vì vậy người
phạm tội phải bị truy cứu TNHS và bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Hiểu
khái niệm quyền công tố như quan điểm nêu trên, theo tôi là quá rộng đã dẫn
đến sự nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội, bào chữa
và xét xử. Như trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cả CQĐT và VKS đều
là cơ quan tiến hành tố tụng đối với một cá nhân cụ thể. Nhưng những hoạt
động buộc tội của CQĐT không phải là thực hiện quyền công tố mà đó chỉ là
những hoạt động nhằm hỗ trợ cho cơ quan được Nhà nước giao thực hiện
quyền công tố là VKS thực hiện sự buộc tội đối với cá nhân bị khởi tố.
Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà
nước thông qua cơ quan VKSND thực hiện việc truy cứu TNHS đối với
người phạm tội. Đây là quyền đặc trưng của Nhà nước, được Nhà nước giao
cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS) để phát hiện tội phạm
và truy cứu TNHS đối với người phạm tội [21, tr.40].
Điều đó thể hiện rõ nhất trong các nguyên tắc của TTHS và nguyên tắc
của tố tụng dân sự. Chúng ta đều thấy rằng, do có đối tượng điều chỉnh khác


nhau (hành vi có dấu hiệu tội phạm và các tranh chấp dân sự) nên hoạt động
TTHS và hoạt động tố tụng dân sự được tiến hành theo những nguyên tắc đặc
thù khác nhau. Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động TTHS là
nguyên tắc công tố (nguyên tắc mọi hoạt động tố tụng được tiến hành trước
hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội), nguyên tắc

nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người phạm tội
có thể là người xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, hoặc cũng có
thể là xâm hại lợi ích của người bị hại. Vì vậy, Nhà nước là người nhân danh
xã hội và Toà án nhân dân sẽ nhân danh Nhà nước để thực hiện việc trừng
phạt người phạm tội, giữ vững an ninh cũng như các mối quan hệ xã hội mà
Nhà nước ban hành. Khác hẳn với các nguyên tắc TTHS; trong hoạt động tố
tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết và chủ yếu thuộc về đương sự
chứ không phải là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố
Trong quá trình tiếp cận tri thức khoa học pháp lý về quyền công tố, để
chứng minh cho luận điểm của mình, các nhà nghiên cứu đều có những lý
luận riêng để đưa ra những luận điểm về đối tượng, nội dung và phạm vi của
quyền công tố. Theo quan điểm tôi đã chọn thì đối tượng, nội dung và phạm
vi của quyền công tố được hiểu như sau:
+ Đối tượng của quyền công tố được hiểu là cái mà quyền công tố tác
động vào nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó, ví dụ như để nhằm buộc
được tội của người phạm tội để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp
luật đã bị xâm hại…. Với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân
danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu TNHS) đối với
người phạm tội, tôi quan niệm đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và
người phạm tội [21, tr.44].


+ Về nội dung của quyền công tố: Trên cơ sở quan điểm của mình về
quyền công tố đã được nêu ở trên, tôi thống nhất với lý luận cho rằng, nội
dung của quyền công tố là sự buộc tội của Nhà nước thông qua cơ quan
VKSND đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm (trái pháp luật hình sự)
[21, tr.44].
Về nội dung thực hành quyền công tố, có những ý kiến như nó được
hiểu là tổng hợp tất cả các quyền năng pháp lý do luật định nhằm bảo đảm

cho việc mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý theo đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan sai. Đây
quan niệm gây nhầm lẫn giữa nội dung quyền công tố với nội dung hoạt động
thực hành quyền công tố.
+ Về phạm vi của quyền công tố: Xuất phát từ quan điểm coi quyền
công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, quyền công
tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự [21, tr.46]. Khi có hành vi phạm tội
xảy ra, nhiệm vụ của VKSND là phải tiến hành ngay các hoạt động tố tụng
theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện tội phạm và người phạm tội, xác
định các căn cứ, đặc trưng tội phạm phù hợp để buộc tội.
1.1.1.2 Khái niệm thực hành quyền công tố
Từ điển tiếng Việt ghi nhận “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [22,
tr.973].
Tôi đồng ý với lập luận rằng: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố để thực
hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử [21, tr.57]. Để bảo đảm thực hiện quyền này trong thực tế thì


Nhà nước ban hành các bộ luật, luật, nghị định.... trong đó quy định các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố.
Về phạm vi thực hành quyền công tố: cho đến giai đoạn hiện nay thì
phạm vi của thực hành quyền công tố cũng còn nhiều ý kiến khác nhau do
chưa có sự thống nhất về khái niệm quyền công tố. Trong phạm vi nghiên cứu
của mình, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: phạm vi thực hành quyền công
tố bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và kết thúc khi bản án có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy
định của pháp luật của pháp luật tố tụng hình sự. Trong thực tiễn làm việc,

không phải tất cả hành vi vi phạm pháp luật hình sự đều được phát hiện và xử
lý nên quyền công tố luôn sẵn sàng được áp dụng đối với những người đã
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa bị phát hiện và xử lý. Hơn
nữa, không phải mọi trường hợp quyền công tố đều kéo dài đến tận khi Bản
án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị mà có thể bị triệt
tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật TTHS. Khi
quyền công tố bị triệt tiêu thì cũng có nghĩa là không còn việc thực hành
quyền công tố đối với tội phạm và người phạm tội đó nữa.
Về nội dung của thực hành quyền công tố tôi cho rằng: nội dung của
hoạt động thực hành quyền công tố là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền
năng tố tụng độc lập nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội, không để
lọt người, lọt tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng.
Về đối tượng của thực hành quyền công tố tôi cho rằng: đó chính là tội
phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội.


1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của TTHS trong đó tòa án
có thẩm quyền tiến hành xem xét giải quyết vụ án, ra bản án, trả tự do hoặc
các quyết định khác theo quy định của pháp luật [24]. Định nghĩa này chưa
làm rõ bản chất của phiên tòa hình sự sơ thẩm và chưa phân biệt giữa xét xử
vụ án hình sự sơ thẩm và xét xử vụ án hình sự phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là hoạt động tố tụng dựa trên chức năng xét xử của tòa án dưới
hình thức phiên tòa xem xét và giải quyết các vụ án mang yếu tố hình sự, có
nghĩa là tòa án trên cơ sở các chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra
phán quyết về bị cáo có tội hay không có tội cũng như mức hình phạt áp dụng
đối với bị cáo. Đây là vấn đề cơ bản để phân biệt phiên tòa hình sự sơ thẩm
với phiên tòa hình sự phúc thẩm. Phiên tòa hình sự sơ thẩm chỉ có thể mở ra

khi có quyết định truy tố, bản cáo trạng của VKS và có đủ các điều kiện cần
thiết khác để tiến hành phiên tòa. Đối tượng của phiên tòa sơ thẩm là cáo
trạng của VKSmđối với bị cáo về việc đã thực hiện hành vi trái pháp luật hình
sự (hành vi tội phạm). Tòa án sơ thẩm có trách nhiệm xem xét những nội
dung cáo buộc này, bên buộc tội có căn cứ và hợp pháp hay không và thể hiện
quyết định của mình trong bản án, phạm vi của xét xử sơ thẩm bắt đầu khi
VKS chuyển hồ sơ cùng bản cáo trạng sang tòa và kết thúc khi Tòa ra bản án,
quyết định. Đối tượng xem xét của phiên tòa hình sự phúc thẩm không phải là
cáo trạng của VKS mà là chính bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị về tính hợp pháp, tính có căn cứ và mức
độ hình phạt của nó. Từ đó cho thấy xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của tố
tụng hình sự có những đặc điểm riêng biệt. Giai đoạn xét xử sơ thẩm có vai
trò quan trọng trong tiến trình tố tụng, có tính chất quyết định so với các giai
đoạn tố tụng trước đó. Nó kết thúc bằng một bản án hoặc quyết định giải


quyết vụ án như đình chỉ vụ án. Giai đoạn xét xử sơ thẩm được chia thành hai
giai đoạn nhỏ là giai đoạn chuẩn bị xét xử và phiên tòa sơ thẩm. Hoạt động tố
tụng hình sự là một tiến trình với nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn tố
tụng có tính độc lập riêng như tính đặc trưng về chủ thể, đặc trưng về hành vi
tố tụng, hình thức tố tụng, thời hạn tố tụng, văn bản kết thúc giai đoạn tố tụng,
nguyên tắc tố tụng… nhưng các giai đoạn tố tụng đều có mối quan hệ hữu cơ,
tác động lẫn nhau, giai đoạn trước làm tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau
bổ sung, kiểm tra giai đoạn trước tạo thành tiến trình tố tụng thống nhất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là hoạt động Nhà nước do Toà án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm
xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự được
thu thập ở những giai đoạn tố tụng trước, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định
để xác định có hành vi phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội
và các vấn đề liên quan khác.

Vậy khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm:
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố để buộc tội người phạm tội tại phiên Tòa ở cấp xét xử thứ
nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng cùng hồ sơ vụ án hình
sự sang tòa và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng cáo kháng nghị.
1.2. Đặc điểm, phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là biểu hiện
tập trung, rõ nét nhất của quyền công tố. Tại phiên tòa, KSV đại diện VKSND
thực hành quyền công tố có nhiệm vụ chính thức công bố công khai sự buộc
tội đối với bị cáo, đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó trước HĐXX và những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Hoạt động này chỉ VKSND tiến hành bởi


KSV là cơ quan duy nhất đại diện Nhà nước thực hiện buộc tội bị cáo tại
phiên tòa. Để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS quy định cho VKSND một
hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn. Trong đó có những quyền chỉ có
VKS mới thực hiện được đó là công bố sự buộc tội bị cáo trước tòa bằng bản
cáo trạng, và bảo vệ cáo trạng bằng luận tội. Do đó, tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự bắt buộc phải có KSV tham gia với vai trò là bên buộc tội.
Khi thực quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
VKS phải bảo đảm rằng sự buộc tội là có căn cứ, các chứng cứ được thu thập
ở các giai đoạn trước đó phải được kiểm chứng, chứng minh tại tòa có đúng
với nội dung bản cáo trạng, các hành vi pham tội phải được phát hiện xử lý,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. KSV kiểm chứng, chứng
minh sự buộc tội của mình bằng việc xét hỏi bị cáo, nhân chứng, bị hại, người
có quyền và nghĩa vụ liên quan, người giám định, xem xét, đối chiếu tài liệu
của các cơ quan chuyên môn, xem xét vật chứng…

Sau khi xét hỏi nếu xét thấy việc buộc tội bị cáo là không có căn cứ, thì
KSV có quyền rút truy tố. Nếu việc buộc tội có căn cứ KSV bảo vệ cáo trạng
bằng luận tội.
Luận tội phân tích đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan,
toàn diện, đầy đủ, viện dẫn các chứng cứ đã được kiểm tại tòa đảm bảo sự
buộc tội của VKS (bản cáo trạng) là có căn cứ.
Luận tội của VKS làm phát sinh tranh luận giữa KSV và bị cáo, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố
tụng khác. Đây được coi là giai đoạn “đấu lý” quan trọng nhất, giai đoạn làm
việc vất vả nhất của VKS tại phiên tòa. Bản luận tội không những là căn cứ để
bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về toàn bộ nội dung


vụ án mà VKS đã truy tố trước Tòa án, là cơ sở để Tòa án xem xét, quyết định
trong việc đưa ra phán quyết của mình đối với người phạm tội và toàn bộ vụ
án.
Phạm vi của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự bằng với giai đoạn xét xử sơ thẩm tức là bắt đầu khi VKS chuyển
hồ sơ và bản cáo trạng sang tòa kết thúc khi tòa án ra bản án, quyết định có
hiệu lực không bị kháng cáo, kháng nghị.
Nội dung của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự chính là VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự để buộc tội người phạm tội tại phiên
Tòa ở cấp xét xử thứ nhất.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và luật tổ chức VKSND thì
KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa bằng các hoạt động:
1. Thông báo cáo trạng, quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, các
quyết định khác liên quan đến việc giải quyết vụ án.
2. Thẩm vấn để làm rõ những vấn đề có liên quan đến hành vi phạm tội

của bị cáo, nhằm chứng minh những tài liệu, chứng cứ trong việc truy tố.
3. Thực hiện việc luận tội.
4. Tranh luận với bị cáo, bị hại, nhân chứng, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác.
Tiểu kết Chương 1
Như vậy, quyền công tố trong TTHS là quyền của Nhà nước yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền (ở nước ta là Viện Kiểm sát nhân dân) làm nhiệm vụ
buộc tội và trừng trị công khai người phạm tội trước Tòa án. Đối tượng tác
động của quyền công tố là tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, cho
nên nội dung của quyền công tố chính là sự buộc tội đối với người phạm tội
và phạm vi của quyền này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi


không còn căn cứ để tiếp tục phát động quyền công tố. Thực hành quyền công
tố là việc sử dụng kết hợp các chức năng pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc
nội dung của quyền công tố để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người
có hành vi phạm tội trong các giai đoạn ban đầu như tiếp nhận, xử lý thông tin
tố giác tội phạm cho đến các giai đoạn sau như điều tra, truy tố và xét xử.
Vậy khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm:
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố để buộc tội người phạm tội tại phiên Tòa ở cấp xét xử thứ
nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng cùng hồ sơ vụ án hình
sự sang tòa và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật,
không bị kháng cáo kháng nghị. BLTTHS năm 2003 mở rộng tranh tụng, tăng
cường hơn trách nhiệm của KSV trong việc làm rõ các tình tiết của vụ án liên
quan đến việc buộc tội, gỡ tội, đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo
đảm bảo bình đẳng dân chủ nhưng vẫn còn có những còn nhiều bất cập, hạn
chế chưa đảm cho VKS phát huy được vai trò trách nhiệm là bên buộc tội tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm. BLTTHS năm 2015 trên cơ sở nền tảng của
BLTTHS năm 2003 đã có nhiều sửa đổi bổ sung hoàn thiện BLTTHS năm

2003 quy định tranh tụng là nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS và sửa đổi bổ
sung nhiều quy định đảm bảo cho nguyên tắc tranh tựng được thực hiện
xuyên suốt trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm Nguyên tắc tranh tụng được triệt để thực hiện.


×