Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Những cách tân về nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì 1986 đến nay (nguyễn thị thu huệ, nguyễn ngọc tư, đỗ bích thúy)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 188 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH HỒNG

NHỮNG CÁCH TÂN VỀ NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ
THỜI KÌ 1986 ĐẾN NAY
(NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƢ, ĐỖ BÍCH THUÝ)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH HỒNG

NHỮNG CÁCH TÂN VỀ NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ
THỜI KÌ 1986 ĐẾN NAY
(NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƢ, ĐỖ BÍCH THUÝ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức


Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong các công trình
nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một cách
trung thực, cẩn trọng trong luận án.
Tác giả luận án

Nguyễn Thanh Hồng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Hà Văn Đức - người thầy đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án .
Tôi xin chân thành cảm ơn cơ sở đào tạo, các thầy cô giáo, cơ quan, bạn bè
và gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
NGHIÊN CỨU SINH

Nguyễn Thanh Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................4
5. Đóng góp của luận án ..............................................................................................5
6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................6
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..............................................7
1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết về truyện ngắn và xu hƣớng cách tân nghệ
thuật trong truyện ngắn Việt Nam thời kì 1986 đến nay ......................................7
1.1.1. Lí thuyết về truyện ngắn ....................................................................................7
1.1.2. Xu hướng cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay .9
1.2. Tình hình nghiên cứu những cách tân trong truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1986 ...13
1.3. Tình hình nghiên cứu về cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của các
cây bút nữ: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Bích Thúy .................17
1.3.1. Nguyễn Thị Thu Huệ .......................................................................................17
1.3.2. Nguyễn Ngọc Tư ..............................................................................................21
1.3.3. Đỗ Bích Thúy...................................................................................................27
Chƣơng 2. TỪ SỰ ĐỔI MỚI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON
NGƢỜI… ĐẾN NHỮNG CÁCH TÂN TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
NHÂN VẬT..............................................................................................................30
2.1. Từ sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngƣời… ..................................30
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người ...............................................................30
2.1.2. Hình tượng con người trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy .............................................................................................33
2.2. … đến những cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ......................42
2.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành động .................................................43
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm .............................................................................47
2.2.3. Một số thủ pháp nghệ thuật khác ....................................................................70


Chƣơng 3. NHỮNG CÁCH TÂN TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÌNH

HUỐNG VÀ KẾT CẤU TRUYỆN .......................................................................75
3.1. Những cách tân trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ..................75
3.1.1. Những cách tân trong nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Việt
Nam từ 1986 đến nay ................................................................................................76
3.1.2. Những cách tân nghệ thuật thể hiện qua việc xây dựng các kiểu tình huống .78
3.2. Những đổi mới trong kết cấu truyện ngắn ....................................................87
3.2.1. Các kiểu kết cấu tiêu biểu ...............................................................................90
3.2.2. Các thành tố bổ trợ kết cấu ...........................................................................102
Chƣơng 4. NHỮNG CÁCH TÂN TRÊN PHƢƠNG DIỆN NGÔN NGỮ VÀ
GIỌNG ĐIỆU ........................................................................................................112
4.1. Ngôn ngữ .........................................................................................................112
4.1.1. Những cách tân nghệ thuật trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ..............116
4.1.2. Những cách tân nghệ thuật trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .........121
4.1.3. Những cách tân nghệ thuật trong ngôn ngữ truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......127
4.2. Giọng điệu .......................................................................................................133
4.2.1. Giọng ngậm ngùi, xót xa, thương cảm ..........................................................134
4.2.2. Giọng hài hước, châm biếm, mỉa mai ...........................................................137
4.2.3. Giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm ............................................................141
KẾT LUẬN ............................................................................................................147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ...............................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có những khởi sắc đặc biệt. Không
chỉ mở rộng đề tài theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh
hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các nhà văn về một số vấn đề của lịch sử
Việt Nam cũng mang những sắc thái thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn

trước được thay thế bằng cảm hứng đời tư, thế sự. Xu hướng ngợi ca được thay thế
bằng cái nhìn phê phán hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan,
tươi đẹp được thay bằng sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những
khát vọng của đời sống cá nhân con người. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng
điệu, đa sắc màu và gây nhiều tranh cãi hơn.
Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất
nhanh với những vấn đề của đời sống. Truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngõ
ngách của xã hội, phản chiếu mọi tâm điểm nóng bỏng của hiện thực. Nhà văn
Nguyên Ngọc nhận xét: “Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay
trong văn học Việt Nam, tiếp theo “vụ được mùa truyện ngắn” những năm 1960 và
một vụ mùa khác, trong chiến tranh”. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những nét
khác biệt rõ rệt. “Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ, trong
veo, trữ tình. Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật
lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lượng của nó
nặng trĩu. Có những truyện ngắn chỉ mươi, mười lăm trang thôi mà sức nặng có vẻ
còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên”. [139]
Vì vậy, khi tiến hành thực hiện đề tài: Những cách tân về nghệ thuật trong
truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 đến nay (Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), chúng tôi muốn bước đầu nhận diện một số cách
tân của các tác giả nữ nói riêng, thể loại truyện ngắn nói chung, qua đó có những
nhìn nhận chung về tiến trình đổi mới của văn học nước nhà.
1.2. Bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm
1986, các cây bút nữ ngày càng thể hiện rõ thế mạnh của mình trong lĩnh vực văn
chương. Bên cạnh các cây bút sáng tác từ trước 1975, các gương mặt nữ như Y Ban,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai,

1


Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy đã xuất hiện….Nhiều tác phẩm

của họ vừa ra đời đã gây được sự chú ý của dư luận, tạo được dấu ấn trong đời sống
văn học như Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y
Ban), Kịch câm, Hoa muộn (Phan Thị Vàng Anh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn
Ngọc Tư)…Nhiều tác giả đạt giải cao trong các cuộc thi truyện ngắn trên các báo
như báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ Quân đội,… cùng với đó là hàng loạt những
tuyển tập bước đầu định hình những phong cách khiến độc giả không thể không ghi
nhận và hi vọng về tương lai văn học của những cây bút này. Ở góc độ của người
phụ nữ sáng tác văn học, từ quan niệm về nghề, quan niệm về thiên chức của người
cầm bút, các nhà văn nữ thời kỳ này đã đem đến cho văn chương những cảm hứng
và giọng điệu mới. Trong các sáng tác của các nhà văn nữ, ta luôn tìm thấy những
âm hưởng của thời đại chúng ta đang sống. Họ tỏ ra áp sát hiện thực đời sống một
cách trực diện và thẳng thắn khi nhìn nhận mặt trái của hiện thực. Có thể nhận thấy
sự sắc sảo và sâu sắc khi khái quát và tiếp nhận đề tài thế sự đời tư với nỗi đau nhân
tình thế thái bằng lối viết “dịu dàng, bén ngọt, riết róng và đồng cảm chia sẻ với
những thân phận, những người sống quanh mình”[183, tr.127]. Tìm hiểu những
cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ, chúng tôi muốn khẳng định giá trị của
dòng văn học “tính nữ” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng) trong sự
phát triển của văn học Việt Nam đương đại.
1.3. Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy là những cây bút có phong cách riêng rất độc đáo.
Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ với chất giọng trầm tiêu biểu cho sự đổi mới
của văn xuôi miền Bắc, Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ của mảnh đất phương Nam
xa xôi và Đỗ Bích Thúy là nhà văn có nhiều tác phẩm được đánh giá cao khi viết về
đề tài miền núi. Mỗi nhà văn đã đóng góp cho văn học Việt Nam một tiếng nói
riêng. Chính vì thế, lựa chọn đề tài: Những cách tân về nghệ thuật trong truyện
ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 đến nay (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), chúng tôi muốn bước đầu khám phá những thể nghiệm
nghệ thuật của một số tác giả nữ để từ đó bước đầu định hình được chỗ đứng của
văn học Việt Nam trên tiến trình vận động để hội nhập với văn chương và rộng lớn
hơn là văn hóa tiến bộ của thế giới.


2


2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận án là Tìm hiểu những cách tân về nghệ thuật trong truyện ngắn
của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 đến nay (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thúy), cho nên, đối tượng nghiên cứu trước hết là những cách tân nghệ
thuật của các tác giả đó (thể hiện ở các điểm tiêu biểu như: quan niệm nghệ thuật về
con người và nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật xây dựng tình huống và kết
cấu truyện, giọng điệu và ngôn ngữ truyện) cùng các sáng tác truyện ngắn tiêu biểu
của họ. Luận án chỉ khu biệt phạm vi nghiên cứu trong các truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, còn các thể loại khác như tiểu
thuyết, tản văn… được nhắc đến như các tư liệu tham khảo. Các tập truyện ngắn
trong giới hạn của đề tài gồm các tập truyện ngắn đánh dấu sự xuất hiện của các nhà
văn nữ trên văn đàn như Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ - 1994), Ngọn đèn
không tắt (Nguyễn Ngọc Tư – 2000), Sau những mùa trăng (Đỗ Bích Thúy – 2000)
cùng các tập truyện tiêu biểu khác như Nào, ta cùng lãng quên, Thành phố đi vắng,
… (Nguyễn Thị Thu Huệ), Giao thừa, Ngày mai của những ngày mai, Nước chảy
mây trôi, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,… (Nguyễn Ngọc Tư), Tiếng đàn môi sau
bờ rào đá, Người đàn bà miền núi (Đỗ Bích Thúy),…
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát những truyện ngắn tiêu biểu của ba cây bút nữ trên ba
phương diện:
- Từ sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người… đến những cách tân
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Những cách tân nghệ thuật trên phương diện kết cấu và tình huống truyện.
- Sự đổi mới về nghệ thuật trần thuật (ngôn ngữ và giọng điệu).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm khái quát những cách tân nghệ thuật tiêu
biểu nhất của truyện ngắn ba tác giả nữ: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư,
Đỗ Bích Thúy. Qua đó có thể thấy được diện mạo truyện ngắn của các nhà văn nữ
nói riêng cũng như truyện ngắn Việt Nam thời kì 1986 đến nay trong sự vận động,
phát triển của tiến trình văn học.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau: Khảo sát, nghiên
cứu, tổng kết và đưa ra nhận định về những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn
của một số cây bút nữ thời kì 1986 đến nay (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thúy) trên các phương diện: tình huống và kết cấu; sự đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con người và sự cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật;
những cách tân về mặt ngôn ngữ và giọng điệu/.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phương
pháp sau:
4.1. Phương pháp loại hình
Luận án tìm hiểu những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây
bút nữ thời kì 1986 đến nay để tìm ra những nét khu biệt trong sáng tác của những
tác giả đó.
4.2. Phương pháp hệ thống
Những cách tân nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thuý trên các phương diện: quan niệm nghệ thuật, tình huống, kết cấu,
nhân vật, trần thuật… cần được nhìn nhận một cách hệ thống. Mỗi phương diện là
một tiểu hệ thống riêng nằm trong hệ thống lớn là toàn bộ sáng tác của các tác giả
nữ trên. Đồng thời, phải đặt sáng tác của các tác giả nữ ấy trong hệ thống chung của

văn học Việt Nam để thấy vị trí và đóng góp riêng của các tác giả trong tiến trình
đổi mới, hiện đại hoá văn học nước nhà.
4.3. Phương pháp nghiên cứu văn học sử
Chúng tôi đặt các tác giả nữ vào bối cảnh lịch sử để nghiên cứu. Những giá trị
truyện ngắn của các tác giả nữ được đánh giá trong mối tương quan với thành tựu
văn học đương thời, nét mới, nét độc đáo của tác phẩm được nhìn nhận trong thời
điểm nó ra đời.
4.4. Phương pháp so sánh
Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để thấy được sự đổi mới
nghệ thuật qua từng chặng đường truyện ngắn của các tác giả. Đồng thời, chúng tôi
tiến hành so sánh tác phẩm của các tác giả nữ đó với nhau và với các nhà văn khác

4


trong cùng thời kỳ để ghi nhận đóng góp của họ cho sự phát triển của văn học Việt
Nam thời kỳ đổi mới.
4.5. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phân tích tổng hợp là phương pháp quan trọng. Thông qua đó, ta thấy được sự
cảm nhận riêng của từng nhà văn về con người và cuộc sống. Bên cạnh đó, mọi biểu
hiện sinh động trong sáng tác cần được soi chiếu bằng nhiều góc nhìn dưới con mắt
phân tích. Từ đó chúng tôi tổng hợp khái quát các kết quả phân tích để đi đến kết
luận minh chứng cho những luận điểm mà luận văn đưa ra.
4.6. Phương pháp phân loại, thống kê
Đối với từng khía cạnh, cấp độ trong việc tìm hiểu những cách tân về nghệ
thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy,
khi cần thiết, chúng tôi thực hiện việc khảo sát, phân loại và thống kê bằng những
số liệu cụ thể.
4.7. Phương pháp tiếp cận lí thuyết thi pháp thể loại
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận lí thuyết thi pháp học của Việt Nam và

thế giới, dùng thi pháp học để đánh giá văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng.
5. Đóng góp của luận án
Luận án bước đầu hệ thống, phân tích và đưa ra nhận định, đánh giá về sự đổi
mới, cách tân về nghệ thuật truyện ngắn trong sáng tác của một số cây bút nữ tiêu
biểu thời kì đổi mới như: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy.
Từ bình diện tìm hiểu những cách tân nghệ thuật, luận án muốn tìm hiểu sâu hơn
nữa về những cách tân của thể loại truyện ngắn Việt Nam nói riêng, cũng như văn
học Việt Nam nói chung, thời kì sau 1986.
Luận án trước hết nhằm chỉ ra những điểm chung về cách tân nghệ thuật
truyện ngắn của ba tác giả này trong xu thế cách tân truyện ngắn sau 1986. Sau đó
là chỉ ra những nét riêng về cách tân nghệ thuật truyện ngắn của mỗi tác giả ấy.
Luận án cũng góp phần khẳng định những thành tựu, đóng góp của ba cây bút
nữ nói riêng và sáng tác của các nhà văn trong tiến trình đổi mới và hội nhập của
văn học Việt Nam đương đại.
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa cung cấp phương pháp luận và
kiến văn cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy.

5


6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tham khảo, nội dung
chính của luận án gồm bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Từ sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người … đến những
cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Chương 3: Những cách tân trong việc xây dựng tình huống và kết cấu truyện
Chương 4: Những cách tân trên phương diện ngôn ngữ và giọng điệu

6



Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết về truyện ngắn và xu hƣớng cách tân
nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam thời kì 1986 đến nay
1.1.1. Lí thuyết về truyện ngắn
Truyện ngắn, một thể loại văn tự sự, thường là các câu chuyện kể bằng văn
xuôi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu chuyện dài như tiểu
thuyết. Thông thường, truyện ngắn có độ dài từ vài dòng đến vài chục trang và chỉ
tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Trong khi đó, tiểu thuyết chứa
được nhiều vấn đề, phủ sóng được nhiều phương diện rộng lớn của đời sống. Do đó,
truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật; thời gian và không gian trong
truyện ngắn cũng không trải dài như trong tiểu thuyết. Truyện ngắn có thể kể về cả
cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện, hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân
vật. Đôi khi, truyện ngắn chỉ là những khoảnh khắc của cuộc sống, chẳng hạn,
Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu diễn ra trong vài tiếng. Nhưng cái chính của
truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện, mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét
bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Chính vì vậy,
trong truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.
Trong Từ điển văn học do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1984,
truyện ngắn được quan niệm là một loại “truyện”: “Truyện “thuộc loại tự sự - có hai
thành phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp nghệ thuật chính là kể.
Truyện thừa nhận vai trò rộng rãi của hư cấu và tưởng tượng”. [124,tr.134]. Trong
cuốn Từ điển văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, các
soạn giả đã nhấn mạnh đến một số đặc điểm mấu chốt của thể loại truyện ngắn là
“ngắn”, “được viết ra để tiếp thu một cách liền mạch, đọc một hơi không nghỉ”,
“thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay đời sông tâm hồn con người. Vì thế trong truyện ngắn

thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. [61, tr.181]
Paul Bouurget, nhà văn và là nhà phê bình người Pháp có nhận định về thể
loại truyện ngắn, qua đó cũng giải thích phần nào về dung lượng khác nhau của
truyện ngắn và tiểu thuyết: “Phong cách của truyện ngắn và tiểu thuyết rất khác

7


nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện ngắn
dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình tiết mà cả dãy
đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm ngưng kết chúng, nối chúng
lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua cách triển khai, còn truyện ngắn thông
qua sự tập trung… Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng”. (Wikipedia
– truyện ngắn). Nguyễn Kiên quan niệm: “Tôi cho rằng truyện ngắn là một trường
hợp, trường hợp đó là một quan hệ (tình huống) những khoảnh khắc trong quan hệ
giữa con người và đời sống. [184, tr.32]. Nguyễn Công Hoan cho rằng: “Truyện
ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”
[184,tr.27]. Nguyên Ngọc thì cho rằng: “Truyện ngắn là một bộ phận của tiểu
thuyết nói chung, vì thế không nên nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào những
khuôn mẫu gò bó. Truyện ngắn có nhiều vẻ, có truyện viết về cả một đời người, lại
có truyện chỉ ghi lại một vài giây phút thoáng qua”. [184, tr.27]
Từ góc độ ngôn ngữ học, công trình Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn
học của Nguyễn Lai khi bàn về phong cách thể loại qua đặc trưng ngôn ngữ đã lấy
các thể loại văn học, trong đó có truyện ngắn làm đối tượng khảo sát. Tác giả đi sâu
vào ranh giới giữa các thể loại, tìm hiểu cơ chế sáng tạo khác nhau giữa chúng gắn
với chức năng và chất liệu của ngôn từ, từ đó bàn về sắc thái riêng của từng phong
cách thể loại trong mối quan hệ với ngôn ngữ.
Trong cuốn sách Những vấn đề của thi pháp truyện, tác giả Nguyễn Thái Hòa đã
đi sâu phân tích khái niệm “truyện”. Ở đây, tác giả không đặt ra vấn đề phân loại truyện
ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết mà đặt các khái niệm này theo tên gọi chung là “truyện”.

Hai cuốn sách Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí do Tạ Duy Anh chủ biên và
Sổ tay truyện ngắn do Vương Trí Nhàn sưu tầm, biên soạn đều đi tìm hiểu những
đặc điểm, đặc trưng của truyện ngắn, kĩ thuật viết truyện ngắn, để từ đó giúp độc
giả có cách nhìn, cách tiếp cận khá phong phú, sinh động về truyện ngắn.
Hai công trình Truyện ngắn – những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại của
Bùi Việt Thắng và Truyện ngắn: lý luận tác gia và tác phẩm của Lê Huy Bắc đã bổ
sung những nghiên cứu lí luận về thể loại này. Các tác giả đã đúc kết các vấn đề lí
luận gắn với thực tế phát triển của lịch sử Việt Nam và khảo sát các tác phẩm truyện
ngắn ở nước ngoài.

8


Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ năm 2007 đã công bố công trình Truyện ngắn
Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp – Chân dung do ông làm chủ biên đã đưa ra một cái
nhìn toàn cảnh về thể loại truyện ngắn Việt Nam thời trung đại đến nay qua các giai
đoạn phát triển, các đặc điểm thi pháp và các tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Tựu trung lại, các công trình nghiên cứu từ trước tới nay đều gặp nhau ở một
số vấn đề sau:
Thứ nhất, cố gắng tìm hiểu để đưa ra một định nghĩa về khái niệm “truyện ngắn”.
Thứ hai, đưa ra những nhận xét, cách đánh giá về vai trò của truyện ngắn
trong cấu trúc thể loại của nền văn học: phân biệt với thể loại tiểu thuyết, và truyện
ngắn có mối liên hệ như thế nào với các thể loại khác.
Thứ ba, xác định những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn.
Thứ tư, phân chia truyện ngắn thành những tiểu loại cơ bản.
1.1.2. Xu hướng cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986
đến nay
Cách tân được coi là một vấn đề then chốt của sự phát triển. Trong cuộc sống
hiện đại ngày nay, muốn phát triển, đi lên thì không thể không có sự cách tân. Nội
hàm khái niệm cách tân trong thể loại truyện ngắn nói riêng cũng mang những đặc

trưng riêng. Ta có thể gọi bằng những khái niệm thay thế khác như “tiền phong”,
“đổi mới”, “thử nghiệm”. Đó đều là thay cái đang có bằng cái khác tiến bộ, thích
hợp hơn. Tuy nhiên, trong văn học, nếu "đổi mới" được thể hiện trên cả hai bình
diện nội dung và hình thức nghệ thuật thì yếu tố "cách tân" chủ yếu được thể hiện ở
mặt nghệ thuật. Theo nhà nghiên cứu Robert L McLaughlin, ông sử dụng khái niệm
“cách tân” trong truyện ngắn để “chỉ loại truyện cố gắng mở rộng quan niệm của
chúng ta về một số vấn đề như: truyện có thể viết như thế nào, cốt truyện có tổ chức
ra sao (hoặc có cần có cốt truyện hay không), xây dựng nhân vật như thế nào (hoặc
có cần có nhân vật hay không), ngôn ngữ có những khả năng gì, đâu là ý nghĩa của
truyện [165].
Trong giai đoạn từ 1986 đến nay, sự cách tân trong thể loại truyện ngắn có thể
được khái quát ở một số nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, bên cạnh yếu tố truyền thống, truyện ngắn Việt Nam đã xuất hiện
nhiều yếu tố của chủ nghĩa “hậu hiện đại”. “Hậu hiện đại” phản ánh khuynh hướng
và điều kiện sống của xã hội ngày nay. Những đặc tính tiêu biểu có thể kể là: hỗn

9


độn, rối mù, chao đảo, đứt rời, phân mảnh, do dự, xúc động, mâu thuẫn, ít coi trọng
quyền lực, coi thường sự trong sáng, không để ý đến nguyên bản, phân hóa, nhại lại,
lắp ghép để sáng tạo, sao chép để tái chế, chế nhạo để soi rọi làm sáng lịch sử và
hình dung hóa hiện thực. Bằng cách sử dụng nhiều thể loại, nhiều kiểu tự sự và
phong cách khác nhau, sử dụng trò chơi kết hợp, nhà văn tạo ra một cấu trúc lai
ghép và văn bản đa thanh. Khuynh hướng hiện thực với bút pháp mới, từ kết cấu
trần thuật đến hình tượng, từ nhân vật đến giọng điệu. Với những phối hợp “đa
phức”, đa tầng và có nhiều đứt gãy về điểm nhìn, về người kể chuyện, các tác giả đã
mang đến những “thế giới hiện thực” bị xáo trộn, bị phân mảng, trở nên biệt lập và
không thể kết nối thành một cái nhìn toàn vẹn, duy nhất. Ở đây đã nảy sinh một
cuộc “đối thoại ngầm” giữa tác giả với nhân vật và bạn đọc thông qua sự “tương

tác” giữa các điểm nhìn, các ngôi và hệ quả tất yếu của nó sẽ là đa dạng hóa các
giọng điệu trần thuật, phá vỡ sự độc tôn của một “giọng chủ âm” trên văn bản tự sự.
Tất cả đều hướng đến một phương pháp đọc mới đòi hỏi sự sáng tạo của người đọc.
Đó là cách đọc không thụ động, đòi hỏi người đọc chủ động suy nghĩ, sáng tạo cùng
tác giả. Với những cách tân ở nhiều mức độ khác nhau, truyện ngắn Việt Nam đã có
những thành tựu đáng kể trong nỗ lực hòa nhịp cùng dòng chảy văn học đương đại
thế giới. Những cách tân mạnh mẽ đó đã phá vỡ ranh giới của hàng loạt quan niệm
mang tính định giá về: chủ nghĩa hiện thực, về vai trò của chủ đề tư tưởng trong tác
phẩm, về tầm vóc và quy mô của các tự sự.
Thứ hai, xuất hiện xu thế tiểu thuyết hóa truyện ngắn. Sau 1975, đặc biệt là
sau 1986, tính chất “một chủ thể”, tính chất “nhát cắt” bó hẹp của thể loại truyện
ngắn đã bị phá vỡ. Cuộc sống bộn bề với nhiều mảng hiện thực phức tạp đan xen
lẫn nhau. Nhà văn cũng không còn yên tâm với cái nhìn và sự cắt nghĩa giản đơn,
một chiều. Truyện ngắn đã có sự nới rộng biên độ trên nhiều phương diện. Trong đó
có sự gia tăng dung lượng và mở rộng khả năng bao quát hiện thực, xoáy sâu vào
những bi kịch nhân sinh, là cái nhìn đa chiều về số phận con người. Đó chính là xu
thế tiểu thuyết hóa truyện ngắn. Ta có thể nhận thấy điều đó qua nhiều truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Mạc Can, Võ Thị Hảo, Y Ban, Trần Thùy
Mai, Nguyễn Ngọc Tư… Lối kết cấu truyện ngắn theo kiểu truyền thống dường như
đang bị phá vỡ khi xuất hiện ngày càng nhiều các truyện ngắn lồng ghép nhiều chủ
đề, nhiều ý tưởng, nhiều khi các chủ đề đan xen với nhau, với nhiều khoảng mờ

10


không dễ nhận ra như Kiếm sắc, Giọt máu, … của Nguyễn Huy Thiệp, Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Hồn trinh nữ
của Võ Thị Hảo, Bóng đè, Vu quy của Đỗ Hoàng Diệu… Cùng với sự lồng ghép của
chủ đề là sự mở ra nhiều tuyến của cốt truyện, của hệ thống nhân vật, sự phức tạp
của hệ thống tình tiết, sự đan xen nhiều giọng điệu trần thuật. Có thể dễ dàng nhận

thấy, các thể loại văn xuôi hiện đại, trong đó có tiểu thuyết và truyện ngắn đang mở
rộng đường biên thể loại, đang thâm nhập lẫn nhau, thu hút các yếu tố tích cực của
nhau, mục đích cuối cùng là phát huy tối đa khả năng khám phá thế giới hiện thực,
khám phá thế giới tâm hồn đầy phức tạp, bí ẩn của con người.
Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, trong xu hướng chung của một “làn sóng
mới” ít nhiều còn mang tính chất “tìm đường”, một số truyện ngắn còn mang tính
chất “thử nghiệm”, chưa thực sự đạt đến độ hài hòa, nhuần nhuyễn giữa ý tưởng, ý
nghĩa của tác phẩm với hình thức nghệ thuật mới lạ. Thêm nữa, mặc dù các tác giả
truyện ngắn thuộc “dòng cách tân” trên đều nỗ lực thay đổi truyền thống tự sự,
vươn đến tính đa âm, tính phức điệu trong truyện ngắn, song, điều mà phần lớn các
tác phẩm văn xuôi Việt Nam, trong đó có truyện ngắn còn thiếu chính là một nền
tảng triết học sâu sắc làm chỗ dựa cho những cảm quan, suy tư mới mẻ về thế giới
và con người. Bởi một tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn thì dù ở phương trời nào cũng
sẽ có những mẫu số chung: phải có một chiều sâu tư tưởng nhân văn, cảm quan mới
mẻ về thế giới và được chứa trong một hình thức phù hợp, hấp dẫn.
Nhìn chung, truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới với xu hướng cách tân thể
loại đã có những bước đột phá rõ rệt cả về nội dung ý nghĩa cũng như hình thức thể
hiện. Trong quá trình cách tân ấy, cũng có những thử nghiệm dù là “mới” nhưng
chưa đúng, chưa hay, nhưng đây có thể nói là thời kì ghi nhận sự nỗ lực, đi lên, tìm
tòi không biết mệt mỏi của đội ngũ sáng tác hùng hậu.
Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra được sự cách tân, đổi mới trong truyện ngắn
Việt Nam thời kì sau 1975, đặc biệt là sau 1986. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng
trong sách Văn học Việt Nam thế kỉ XX khi bàn về truyện ngắn đã nhận định: “So
với tiểu thuyết, truyện ngắn 1975-2000 đã thực sự khởi sắc, các nhà văn đã có
những tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa, hay nói cách khác là
có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu”. [46, tr.341]. Bích
Thu cũng đánh giá cao hiệu quả nghệ thuật của truyện ngắn ngày này: “Chưa bao

11



giờ truyện ngắn lại phát triển phong phú về số lượng lẫn hiệu quả nghệ thuật như
hôm nay”[196].
Đi sâu vào các khuynh hướng chính trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975,
nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những cách tiếp cận khác nhau. Căn cứ vào cảm
hứng, Nguyễn Thị Bình nhận thấy văn xuôi, trong đó có truyện ngắn giai đoạn này
nổi bật ba khuynh hướng: “khuynh hướng nhận thức lại hiện thực”, “khuynh hướng
đạo đức thế sự”, “khuynh hướng triết luận”. Nguyễn Văn Long nói đến bốn khuynh
hướng, đó là: “khuynh hướng sử thi”, “khuynh hướng nhận thức lại”, “khuynh
hướng thế sự, đời tư” và “khuynh hướng triết luận”. Đáng chú ý trong các công
trình nghiên cứu tổng quan về truyện ngắn Việt Nam đương đại là luận án tiến sĩ
Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Lê Thị Hương
Thủy, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam năm
2013. Tác giả đi sâu khảo sát và phân tích các vấn đề: Truyện ngắn – quan niệm và
sự đổi mới tư duy thể loại; Các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn
bản truyện ngắn; Ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật. Theo tác giả luận án, truyện
ngắn Việt Nam đương đại đã có sự thay đổi theo hướng ngày càng uyển chuyển của
tư duy thể loại. Đây cũng có thể coi là một nhận xét có tính khái quát về sự cách tân
nghệ thuật trên nhiều mặt của truyện ngắn ngày nay: “Truyện ngắn Việt Nam thời
kì đổi mới đã có những biến đổi sâu sắc trên phương diện nghệ thuật xây dựng nhân
vật, tổ chức văn bản truyện ngắn”, “truyện ngắn Việt Nam đương đại cũng đã có
những thay đổi đáng kể từ góc độ ngôn ngữ và phương thức tổ chức trần thuật”.
[206, tr.147]. Nguyễn Thị Năm Hoàng, tác giả Luận án tiến sĩ Truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, bảo vệ tại trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, cũng đi sâu khảo sát và phân tích
sự đổi mới về thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các khía cạnh: tình huống
và kết cấu truyện ngắn, nhân vật, ngôn ngữ. Tự trung lại, các nhà nghiên cứu đã chỉ
ra sự vận động, đổi mới, biến chuyển một cách khái quát của thể loại truyện ngắn
thời kì sau 1975, đặc biệt là sau 1986. Trong Luận án này, chúng tôi muốn nhìn
nhận sự vận động, cách tân của truyện ngắn Việt Nam thời kì sau 1986 qua những

trường hợp cụ thể như Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy.

12


1.2. Tình hình nghiên cứu những cách tân trong truyện ngắn nữ Việt
Nam sau 1986
Trong lịch sử văn học Việt Nam trước 1986, đặc biệt là trước 1975, các cây
bút nữ có xuất hiện nhưng không nhiều. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra
một thời kỳ mới. Từ đây bắt đầu xuất hiện các cây bút nữ: Thanh Hương, Lê Minh,
Vũ Thị Thường, Ngọc Hải, Xuân Quý, Dương Thu Hương,…Đội ngũ các nhà văn
nữ tiếp tục phát triển qua thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: Lê Minh Khuê, Nguyễn
Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Dạ Ngân…Tuy nhiên, dường như tiếng nói
của họ chưa thực sự lớn mạnh. Những năm sau chiến tranh, đặc biệt là thời kỳ đổi
mới, văn học Việt Nam khởi sắc với sự xuất hiện của hàng loạt cây bút nữ. Ngày
càng nhiều những gương mặt nữ xuất hiện và chiếm ưu thế đã tạo nên sự mới mẻ,
hấp dẫn cho văn đàn. Các giải thưởng truyện ngắn liên tiếp được trao cho các cây
bút nữ là bằng chứng rõ nét nhất về điều đó. Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và
Chuyện một người đàn bà giành giải nhất cuộc thi năm 1990. Kết thúc cuộc thi năm
1992-1994 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Nguyễn Thị Thu Huệ đã giành giải nhất
với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Liên tiếp trong những năm 1996, 1999,
2000, 2002 các tác giả nữ đã nhận được danh hiệu cao quý nhất: Trần Thanh Hà,
Đỗ Bích Thúy, Thùy Linh…
Có thể nói, thập niên 90 của thế kỉ trước được xem là ngày hội của các cây bút
nữ. Sự xuất hiện của họ đã đem đến cho văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng
“một sinh khí mới rất cần thiết để thể hiện bề sâu, bề sau của cuộc sống con người
hôm nay”.[134]. Sự xuất hiện ồ ạt của các cây bút nữ đã trở thành một hiện tượng,
được nhà nghiên cứu Phương Lựu đánh giá là “một hiện tượng tốt đẹp, đánh dấu
một phương diện phát triển của văn học thế kỷ này trên đất nước ta, và đã thu hút
được sự chú ý của các nhà phê bình”, khiến ông nhận thấy: “Đã đến lúc, trên bình

diện lí thuyết, phải đặt vấn đề tìm hiểu những đặc điểm của nữ văn sĩ, với tất cả mặt
mạnh yếu của nó, để góp phần nhỏ thúc đẩy việc bồi dưỡng và phát triển lực lượng
sáng tác của nửa phần dân tộc và nhân loại này. [114]. Lý Hoài Thu cũng cho rằng
“Sự xuất hiện đồng loạt các cây bút nữ ngỡ có lúc họ làm chủ văn đàn cũng tỏ ra rất
“vừa tay” với thể loại này”. [ 201, tr.181]
Sau 1986, trong nền văn học đương đại Việt Nam đã xuất hiện cụm từ “nữ
khuynh” (Chữ dùng của các tác giả trong bài Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ13


Tạp chí Văn nghệ quân đội 3/1993) trong văn học. Có thể nói, sự xuất hiện ồ ạt của
các cây bút nữ cũng như số lượng khổng lồ các tác phẩm của họ trình làng và hơn hết
là chất lượng các sản phẩm mà họ tạo ra có thể khẳng định, đây là thời đại mà văn
chương của phái nữ đang chiếm ưu thế. Thậm chí, một số nhà nghiên cứu đã sử dụng
những cụm từ “gương mặt nữ”, “âm hưởng nữ quyền” để phác họa diện mạo văn học
Việt Nam đương đại. Đến bây giờ, có nhà nghiên cứu văn học đã phải thốt lên rằng:
“Đã hình thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mạnh là 2/3- một tỉ lệ đáng gờm bởi
nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang gương
mặt nữ” [183] có lẽ cũng là một nhận định đáng để chúng ta suy xét. Vì thế, có người
còn nhận xét rằng: “Văn học đang mang gương mặt nữ - ngày càng trắc ẩn và khoan
dung, ngày càng tinh tế và đằm thắm”. [3,tr.85]. Các cây bút nữ thực sự khẳng định
được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình. Với sự tinh tế nhạy cảm vốn có,
“dường như phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái
lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống.”[142]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã chỉ ra đặc
điểm riêng, những đóng góp riêng của các nhà văn nữ vào nền văn học đương đại của
nước nhà: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ họ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào
trang sách, hoặc nói như Tây, họ tự ăn mình” [44]. Vì thế mà: “Các cây bút nữ hôm
nay mở cuộc tìm tòi trên một cái diện rất rộng và họ đạt đến hiệu quả ngay” (Ngô Thế
Oanh). Phạm Thị Thanh Phượng trong Luận án tiến sĩ Truyện ngắn các nhà văn nữ
đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại cũng đề cao vài trò đặc biệt
của sáng tác các nhà văn nữ. Luận án đã đi sâu tìm hiểu đặc trưng thể loại truyện

ngắn qua một hệ thống sáng tác của các nhà văn nữ trên các phương diện: Diện mạo
truyện ngắn nữ đương đại trong sự vận động của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới; Truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật; Đặc
trưng thể loại truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. Qua đó, ta thấy được diện mạo
chung nhất của hệ thống sáng tác các nhà văn nữ trong tiến trình văn học thời kì sau
1986.
Trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1996 đăng tải tường thuật buổi tọa đàm Phụ
nữ và sáng tác văn chương, trong đó tập trung nhiều ý kiến của các nhà phê bình
như Văn Tâm, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên, Đặng Anh
Đào; các nhà văn như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo. Hầu hết các ý kiến đều đặt niềm
tin vào các cây bút nữ. Vương Trí Nhàn mở đầu cuộc nói chuyện bằng nhận xét về
“đặc thù” của người phụ nữ sáng tác văn chương: “Hình như do sự nhạy cảm riêng

14


của mình, phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới”. Phạm Xuân Nguyên
khẳng định: “Các nhà văn nữ hiện nay khá đa dạng, mỗi người có một gam riêng
chứ không thuần bản năng như có người nghĩ”. Văn Tâm tin ở sáng tác của họ có sự
đóng góp “cái mảng khá bí ẩn là tâm hồn họ”. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến chỉ ra
mặt còn hạn chế của văn chương nữ ở chỗ họ thường “không viết được cái gì khác
mình”, “lặp lại mình, đơn điệu trong các kiểu của mình.[200]
Trong số các bài viết về các tác giả nữ, nổi bật là loạt bài viết của hai tác giả
Bích Thu và Bùi Việt Thắng. Bích Thu qua các bài viết Những dấu hiệu đổi mới
của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống mô típ chủ đề, Những thành tựu của
truyện ngắn sau 1975, Văn xuôi của phái đẹp đã đánh giá cao sáng tác của những
nhà văn nữ trẻ. Tác giả cho rằng đội ngũ sáng tác là “một lớp trẻ dồi dào bút
lực”[198], và bằng tầm nhìn bao quát của một nhà phê bình, Bích Thu nhận định
“Sự xuất hiện rầm rộ của các cây bút trẻ đã làm thay đổi bộ mặt và dáng vẻ của văn
xuôi hôm nay.” [199]. Không chỉ quan sát sự xuất hiện của đội ngũ sáng tác nữ như

một hiện tượng, Bích Thu còn có những ý kiến đánh giá về giá trị văn xuôi phái đẹp
rất tinh tế: “Văn chương của phái đẹp hiện nay sắc và sâu khi khai thác đề tài thế sự
đời tư với nội dung nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt, riết róng
mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những con người sống quanh
mình”[200]. Ý kiến này thể hiện người viết tỏ ra hiểu rõ văn chương của phái đẹp
cả ở bề rộng của đề tài được phản ánh, cả ở chiều sâu của nghệ thuật được thể hiện.
Nếu Bích Thu viết về các tác giả nữ để thấy đóng góp của họ đối với văn học
thời kì đổi mới trên phương diện tổng thể thì Bùi Việt Thắng lại dõi theo họ khách
quan và cụ thể như một người trọng tài trong mỗi sân chơi. Là người chứng kiến
những cuộc thi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội trong thập kỉ 90, Bùi Việt Thắng
nhận xét về sự xuất hiện và dấu ấn của các cây bút nữ : “Họ là những gương mặt
làm sáng giá “thể loại nhỏ”[188]. Trong hai bài viết Khi người ta trẻ 1 [193] và Khi
người ta trẻ 2 [194], ông cũng ghi nhận sức sáng tác dồi dào, khỏe khoắn, “cách lí
giải những vấn đề muôn thuở phù hợp với nhân sinh quan của con người hiện đại”
của đội ngũ sáng tác nữ. Bùi Việt Thắng cũng là người tuyển chọn, viết lời giới
thiệu cho nhiều tập truyện có sự hội tụ của các cây bút nữ như Truyện ngắn bốn cây
bút nữ (NXB Văn học, 2002), Mùa thu vàng rực rỡ (NXB Quân đội nhân dân,
2006), Có một thời yêu (NXB Quân đội nhân dân, 2007). Theo ông, thực tiễn văn
học, đặc biệt trong lĩnh vực truyện ngắn, những cây bút nữ đã góp phần quan trọng,
làm cho văn đàn sôi nóng lên, hấp dẫn hơn nhờ vào sự đa hương sắc của tác phẩm

15


gắn liền với tên tuổi nhiều thế hệ từ Lê Minh Khuê, Trần Thùy Mai đến Nguyễn
Ngọc Tư: “Dù họ viết khác nhau nhưng điểm chung dễ nhận thấy là các cây bút nữ
thường vắt kiệt mình trên trang giấy, mỗi tác phẩm như một trận chiến đấu ngôn từ
nhằm làm phát lộ cái đẹp”.. Về lĩnh vực này, ông như một người “trang điểm khéo”
để sự xuất hiện của các cây bút nữ được nhiều hơn sự mến mộ của bạn đọc.
Ngoài ra còn có một số tác giả viết về các cây bút nữ như Phạm Xuân Nguyên:

“Một nét đặc biệt của mùa truyện ngắn hôm nay là sự xuất hiện đông đảo, tự tin của
đội ngũ viết trẻ và nhất là các cây bút nữ (…). Trên các trang viết của họ, nỗi buồn,
nỗi đau nhân thế luôn được nhìn nhận ở khía cạnh tinh tế rất phụ nữ” [142]. Vũ Tuấn
Anh trong bài viết Đổi mới văn học vì sự phát triển cũng ghi nhận các cây bút nữ có
được “những dấu ấn cá nhân trong tư duy nghệ thuật và cách thể hiện”[7].
Cuối năm 2012, Viện Văn học tổ chức tọa đàm Văn xuôi nữ trong bối cảnh
văn học Việt Nam đương đại. Gần 30 tham luận của tọa đàm đã đề cập và phân tích
một số vấn đề lí thuyết và thực tiễn sáng tác của các cây bút nữ trong văn học
đương đại, trong đó có bộ phận quan trọng là truyện ngắn. Bên cạnh việc khẳng
định đóng góp của các nhà văn nữ vào đời sống văn học, phân tích một số đề tài,
chủ đề, những đặc sắc nghệ thuật trong sáng tác của họ, một số tham luận đã đề cập
đến vấn đề “nữ quyền”, đề xuất áp dụng “lý thuyết nữ quyền” trong nghiên cứu bộ
phận sáng tác này.
Sáng tác của các cây bút nữ thường đi sâu vào bi kịch, những nỗi đau với sự
trải nghiệm sâu sắc. Các chị đã đem đến cho văn chương một diện mạo mới “đằm
thắm, tinh tế và khoan dung hơn”. Hiện thực cuộc sống với sự tha hóa đạo đức,
những xói mòn về nhân cách được thể hiện khá rõ nét. Nội tâm nhân vật được được
đào sâu khai thác với cái nhìn đa chiều, sâu sắc: Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu
Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban)….
Không chỉ có những khám phá mới về nội dung mà các cây bút nữ còn có
những cố gắng trong tìm tòi nghệ thuật nhằm xây dựng cho mình một phong cách
riêng: Y Ban với chất giọng nữ trầm trong văn chương, Võ Thị Hảo có lối viết pha
màu sắc huyền thoại, Nguyễn Ngọc Tư với lối viết văn đậm màu sắc Nam Bộ, Đỗ
Bích Thúy với những tác phẩm văn chương đậm tính chất vùng miền…Tất cả đã
tạo nên diện mạo của truyện ngắn đương đại với những tác phẩm rất tiêu biểu của
nữ giới.

16



1.3. Tình hình nghiên cứu về cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của
các cây bút nữ: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Bích Thúy
Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ từ 1986 đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy là những cây bút có tên tuổi. Số lượng các bài viết,
những công trình nghiên cứu về các tác giả này rất nhiều. Những công trình đó đã
đánh giá được tài năng cũng như những đóng góp của họ trong nền văn học dân tộc.
1.3.1. Nguyễn Thị Thu Huệ
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966. Quê quán: Xã Thạch Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Trú quán: Hà Nội. Tốt nghiệp đại học tổng hợp Hà
Nội, khoa Ngữ văn. Chị là một trong số những tác giả nữ gặt hái được rất nhiều
thành công khi tuổi đời còn khá trẻ:
- Giải thưởng truyện ngắn Hội văn học nghệ thuật Hà Nội 1986
- Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh Báo Tiền Phong 1993
- Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1994
- Tặng thưởng Hội nhà văn 1994
- Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2012
Tác phẩm: Đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã ra mắt bạn đọc nhiều tập truyện
ngắn được độc giả và giới phê bình đánh giá cao như: Cát đợi, Hậu thiên đường,
Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên, Thành phố đi vắng...
Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Thị Thu Huệ đã gây một tiếng vang lớn khi giành
giải nhất cuộc thi truyện ngắn lần thứ 5 (1992-1994) do Tạp chí Văn nghệ Quân đội
tổ chức với hai truyện ngắn Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Không dừng lại ở
các giải thưởng, chị tiếp tục khẳng định mình bằng một loạt các sáng tác có giá trị
khác. Đại hội nhà văn Hà Nội nhiệm kì XII (2017-2020) diễn ra vào ngày 8-9/8/2017,
nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã trúng cử vào Ban chấp hành và được bầu làm Chủ
tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
Nhận định về phong cách nghệ thuật, lối viết cá tính, đặc sắc không thể trộn
lẫn của Nguyễn Thị Thu Huệ, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định xác đáng.
Nhà nghên cứu Nguyễn Văn Lưu phê bình về tập truyện Cát đợi nêu ấn tượng:
“Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có một chất gì đó vỡ ra ào ạt, khuấy đảo sôi sục

cảm xúc trong người đọc.”[111]. Cùng cảm nhận ấy, Đoàn Hương (1996) cũng cho
rằng: “Huệ có lối viết văn như bị lên đồng, trong truyện ngắn của mình không phải
là cô kể cho chúng ta nghe mà là cô lôi chúng ta đi theo nhân vật. Đó là phong cách

17


độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ.[91]. Lý Hoài Thu chỉ qua một số truyện dự thi
của Nguyễn Thị Thu Huệ đã rất nhạy cảm và đầy tiên đoán nhận ra trong văn của
nữ tác giả này: “những cuộc săn đuổi, tìm kiếm ý nghĩa đích thực của tình yêu
dường như được đưa lên và đẩy đến tận cùng của ý đồ.” Phát hiện này thực chất có
thể coi là đã chỉ ra nội dung chủ đạo trong các sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ,
đồng thời cũng chỉ ra điểm mạnh nhưng đồng thời cũng là điểm yếu của Nguyễn
Thị Thu Huệ, đó là “đẩy đến tận cùng của ý đồ”.[202]
Đánh giá về đóng góp nổi bật của Nguyễn Thị Thu Huệ khi nhà văn nữ này
đạt giải nhất của cuộc thi truyện ngắn lần thứ 5 do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ
chức, Hồ Phương trong bài viết Ngẫu hứng du ngoạn nhận giải thưởng Văn nghệ
Quân đội đã bày tỏ sự thán phục: “Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là một cây bút sắc
sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm. Sao còn ít tuổi mà Huệ lọc lõi thế. Nó như một
con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng mình, ruột gan mình có gì, hình
như nó cũng biết hết. [155]. Kim Dung trong Đọc Hồi ức binh nhì và Bến trần gian
có nhận định về những cách tân, sự đổi mới trong lối viết văn của Nguyễn Thị Thu
Huệ: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt vừa bụi bặm trong tả
chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn chị cũng vừa táo bạo, vừa thanh khiết. Một cái gì
đó không thuần nhất, không đơn giản, thậm chí có khi còn đối chọi nhau trong văn
Nguyễn Thị Thu Huệ”. [35]
Bùi Việt Thắng – tác giả của nhiều chuyên luận, bài nghiên cứu về truyện
ngắn cũng đã có những nhận xét rất chí lí về truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Ông đánh giá cao ở tác giả này ở khả năng “hấp dẫn rộng rãi” nhiều đối tượng
người đọc. Đó cũng là một trong những cách khiến cho truyện ngắn của Thu Huệ

phù hợp với thị hiếu của đám đông. Với những cách tân, thể nghiệm và nỗ lực khám
phá không ngừng nghỉ, Thu Huệ đã thể hiện được sự cách tân rõ rệt trong nghệ
thuật tổ chức truyện ngắn của mình. Hai bài viết tiêu biểu là Năm truyện ngắn dự
thi của một cây bút nữ (1994), và Phác thảo về Thu Huệ qua Tứ tử trình làng
(2002): “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc vì giàu chất
đời…nhiều truyện ngắn hay của Nguyễn Thị Thu Huệ là nhờ người viết biết bứt lên
được trên những cái gì đó cao hơn con người, đó là đời sống tâm hồn vốn không rõ
ràng, rành mạch, vốn bí ẩn khó lí giải bằng lí trí. Và: “Thu Huệ quan tâm đến gia
đình trong xã hội hiện đại đang tồn tại và tan rã như thế nào, bởi những nguyên
nhân nào”, tình huống “tuy hẹp nhưng đặc sắc”, ngôn ngữ “có độ căng của nhịp

18


điệu”. Ông còn chỉ ra câu văn của Nguyễn Thị Thu Huệ thường ngắn, cấu trúc đơn
giản, giọng điệu linh hoạt “lúc bạo liệt lúc thật thà, lúc thâm trầm, lúc triết lí, có lúc
đỏng đảnh lại có lúc dịu dàng đến bất ngờ”. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, đặc biệt là khám phá những cách tân, đổi mới trong các
tác phẩm của chị, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã phát hiện trong tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ “một sự vật vã khắc khoải canh cánh trong mỗi nhân vật, đặc
biệt là nhân vật nữ[180]. Điều này phù hợp với quan niệm của Nguyễn Thị Thu Huệ
rằng chị luôn quan tâm đến số phận của người phụ nữ vì không chỉ họ làm nên cuộc
sống, bảo vệ và phát triển cuộc sống mà vì chị hiểu họ, dù có thể chưa đầy đủ. Chị
muốn chia sẻ với họ niềm vui, nỗi buồn. Đồng thời, ông cũng nhận thấy hạn chế
trong văn Thu Huệ: “Cây bút này hơi tham, chưa dám gạt bỏ, còn muốn nói nhiều,
nói hết trong truyện”.
Về thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Hoài Thu
cũng đưa ra những nhận xét tinh tế: “…cái nhìn phẫn nộ và phản ứng quyết liệt,
Thu Huệ dành cho thế giới đàn ông: từ những người loe xoe lôi những bông hoa
trên bàn họp để tặng phụ nữ, đến anh chàng nhồm nhoàm ăn uống một cách thô tục

sau khi cùng người tình lên thiên đường về, từ cái người đàn ông ra ngõ gặp người
tình sợ vợ con biết nên cầm luôn cái xô như đi đổ rác, đến lão tuổi đã xế bóng, thích
ăn xôi sáng cho chắc bụng, vẫn thèm khát cô gái 16 tuổi trẻ trung và bòn rút của cô
từng đồng xu một…”.[202]. Đây là những nhận xét rất sắc sảo về nhân vật người
đàn ông trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Gương mặt đàn ông được Nguyễn
Thị Thu Huệ nhìn nhận không chỉ đầy sự xấu xa, mà họ còn là tội đồ đối với người
phụ nữ. Nguyễn Việt Hòa (2003) nhận xét về tập truyện Nào ta cùng lãng quên:
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó toát
ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu phụ - thiếu nữ”.[76]
Không chỉ có sự cách tân, mới lạ ở điểm nhìn nghệ thuật, Nguyễn Thị Thu
Huệ còn có những cách tân trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện. Phạm Hoa trong bài
giới thiệu tập Cát đợi đã chỉ rõ hai kiểu xây dựng cốt truyện của Nguyễn Thị Thu
Huệ: “Một là truyện truyền thống (có chuyện), hai là truyện không có chuyện (cốt
truyện theo dòng tâm trạng)”. Nguyễn Thị Thu Huệ là người rất nghiêm túc trong
lao động sáng tạo nghệ thuật. Chị đã từng tâm sự rằng, truyện của chị giống như
một thùng nước sôi, nó sôi lên ùng ục đến khi hết sôi là hết. Vì thế, trong sáng tác,

19


×