Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Nhận thức của sinh viên trường Đại học Sư phạm Đại học Thái nguyên về hành vi xâm hại tình dục trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.27 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2017 - 2018

NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐẠI HỌC THÁI THÁI NGUYÊN VỀ HÀNH VI XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM

Xác nhận của người hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

(Ký, họ tên)

(Ký, họ tên)

Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018
i


LỜI CẢM ƠN

Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý – Giáo
dục trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên và các thầy cô giáo trong tổ bộ
môn Tâm lý học đã tận tình giúp đỡ để chúng em có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu
khoa học này.
Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo – PGS.TS. Phí Thị
Hiếu đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn chúng em hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học
này.


Xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên khoa Mầm Non và khoa Giáo dục
Tiểu học đã nhiệt tình hợp tác, giúp đỡ chúng tơi trong q trình khảo sát, thu thập số
liệu cho đề tài.
Do điều kiện và năng lực của bản thân còn hạn chế nên đề tài khó tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong thầy cơ và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài này được
hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày

tháng 04 năm 2018

Người thực hiện

Nguyễn Thị Quỳnh Anh

Trần Thị Bích Ngọc

ii


MỤC LỤC
Trang bìa phụ………………………………………………..…………………………i
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU...........................................................................................v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ.................................................................................................v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................................vi
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................................2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu...................................................................................2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................................................2
5. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................3
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.....................................................................3
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:....................................................................3
6.3. Phương pháp sử dụng toán thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu.............................3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM VÀ NHẬN THỨC
CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM VỀ HÀNH VI XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM............4
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................4
1.1.1. Ở nước ngoài..................................................................................................................4
1.1.2. Ở Việt Nam.....................................................................................................................5
1.2. Một số khái niệm công cụ................................................................................................6
1.2.1. Xâm hại...........................................................................................................................6
1.2.2. Trẻ em và xâm hại trẻ em.............................................................................................7
1.2.3. Xâm hại tình dục và xâm hại tình dục trẻ em............................................................8
1.2.4. Nhận thức của sinh viên về hành vi xâm hại tình dục trẻ em................................10
1.3. Một số vấn đề lý luận về xâm hại tình dục trẻ em và nhận thức của sinh viên sư
phạm về hành vi xâm hại tình dục trẻ em............................................................................12
1.3.1. Một số vấn đề lý luận về xâm hại tình dục trẻ em...................................................12
1.3.2. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên sư phạm.......................................................18
1.3.3. Nhận thức của sinh viên sư phạm về hành vi xâm hại tình dục trẻ em.................21
1.3.4. Thái độ và hành động của sinh viên góp phần ngăn chặn hành vi XHTD trẻ em
...................................................................................................................................................23
iii


1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên sư phạm về hành vi xâm hại
tình dục trẻ em........................................................................................................................23

Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN VỀ HÀNH VI XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ
EM............................................................................................................................................26
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu.......................................26
2.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về hành vi xâm hại
tình dục trẻ em.............................................................................................................27
2.2.1. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về khái niệm xâm hại tình dục
trẻ em........................................................................................................................... 27
2.2.2. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về các hình thức biểu hiện của
hành vi xâm hại tình dục trẻ em...................................................................................29
2.2.3. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về thủ phạm và địa điểm xảy ra
hành vi xâm hại tình dục trẻ em...................................................................................34
2.2.4. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về nguyên nhân dẫn đến vấn
nạn xâm hại tình dục trẻ em.........................................................................................36
2.2.5. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về hậu quả của hành vi xâm hại
tình dục trẻ em.............................................................................................................40
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về
hành vi xâm hại tình dục trẻ em...................................................................................43
2.2.7. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về biện pháp phòng chống hành
vi xâm hại tình dục trẻ em............................................................................................46
2.3. Thái độ của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN trong việc phòng chống XHTD trẻ
em................................................................................................................................ 50
2.4. Hành động của sinh viên trường ĐHSP - ĐHTN trong việc phòng chống XHTD trẻ em
..............................................................................................................................................54

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..............................................................................54
1. Kết luận.................................................................................................................... 54
2. Khuyến nghị............................................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................57
PHỤ LỤC.................................................................................................................... 59


iv


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về khái niệm xâm hại tình
dục trẻ em.................................................................................................................... 27
Bảng 2.2. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về các hình thức biểu hiện
của hành vi XHTD trẻ em............................................................................................30
Bảng 2.3. Nhận thức về địa điểm có thể xảy ra xâm hại tình dục trẻ em.....................35
Bảng 2.4. Nhận thức của sinh viên sư phạm về nguyên nhân dẫn đến hành vi XHTD
trẻ em........................................................................................................................... 37
Bảng 2.5. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về hậu quả của hành vi
XHTD trẻ em...............................................................................................................40
Bảng 2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN
về hành vi xâm hại tình dục trẻ em..............................................................................44
Bảng 2.7. Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về biện pháp phòng chống
hành vi XHTD trẻ em..................................................................................................46
Bảng 2.8. Các hoạt động mà sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN đã tham gia góp phần
đẩy lùi vấn nạn XHTD trẻ em......................................................................................53

v


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1. Thái độ của sinh viên trường ĐHSP - ĐHTN khi nghe/ xem thông tin về
XHTD trẻ em...............................................................................................................50
Biểu đồ 2. Mức độ quan tâm của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN đối với hoạt động

phòng chống XHTD trẻ em..........................................................................................51
Biểu đồ 3. Thái độ của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN đối với hành vi XHTD trẻ em
của người thân trong gia đình nạn nhân.......................................................................52

vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nội dung viết tắt

1



Cao đẳng

2
3
4
5
6
7
8
9

ĐH

ĐHSP – ĐHTN
GD&ĐT
GDMN
GDTH
NXB
UNICEF
XHTD

Đại học
Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
Giáo dục và đào tạo
Giáo dục Mầm non
Giáo dục Tiểu học
Nhà xuất bản
Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc
Xâm hại tình dục

vii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trẻ em là một thực thể hồn nhiên ngây thơ và trong sáng. Đây là lứa tuổi đang
hình thành và phát triển cả về mặt sinh lí, tâm lí, xã hội, các em đang từng bước gia
nhập vào xã hội – thế giới của mọi mối quan hệ. Tuy nhiên, trẻ em chưa đủ ý thức,
phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội mà các em luôn cần sự bảo trợ,
giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, có thể coi trẻ em là
một trong những đối tượng yếu thế trong xã hội, các em rất khó có thể bảo vệ được
mình trước những nguy cơ và khả năng bị xâm hại là rất cao. Trong thời gian gần đây
số ca xâm hại tình dục trẻ em ngày càng gia tăng và hậu quả đối với việc xâm hại

không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe mà còn gây tổn thương tâm lý của trẻ trong một thời
gian dài, thậm chí đến hết cả cuộc đời đứa trẻ. Xâm hại tình dục ở trẻ em gây ra hậu
quả lâu dài không chỉ cho trẻ em – nạn nhân mà còn gây ảnh hưởng trực tiếp cho gia
đình và xã hội. Theo kết quả khảo sát năm 2011 của UNICEF, có đến 60% trẻ em sau
khi bị xâm hại tình dục đều trở nên khơng bình thường, ln có cảm giác xấu hổ, tội
lỗi hoặc sống trong sợ hãi, lo lắng, căng thẳng, hoảng loạn; không tập trung, không
chú ý trong giao tiếp và học tập; hồi nghi, khơng tin tưởng và tìm cách xa lánh mọi
người. Một số trẻ bị nặng, mắc bệnh trầm cảm, muốn tự tử hoặc xa lánh tất cả mọi
người, kể cả người thân trong thời gian dài [21]. Tại Việt Nam, theo số liệu của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội trong 5 năm (2011 – 2015) cả nước phát hiện trên
8.200 vụ xâm hại trẻ em, với gần 10.000 nạn nhân, tăng 258 vụ. Số vụ xâm hại tình
dục chiếm 5.300 vụ (chiếm 65%) và gia tăng xâm hại tình dục nam. Điều đáng nói là
93% nghi phạm trong các vụ xâm hại tình dục là những người thân quen của nạn nhân,
của cha mẹ và có thể là hàng xóm, bố dượng, ơng nội, thậm chí là bố đẻ [21]. Có thể
thấy, thực trạng xâm hại tình dục ở nước ta hiện nay đang ở mức đáng báo động.
Trước tình hình đó, ngày 16 tháng 05 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc đã ra Chỉ thị 18/CT-Ttg về việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm
hại trẻ em. Chỉ thị đã xác định rõ vai trò của các Bộ, Ngành liên quan, trong đó Bộ
GD&ĐT có nhiệm vụ “chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục, nhà trường thực hiện
các biện pháp bảo vệ trẻ em; rà soát các tiêu chuẩn trường học bảo đảm mơi trường
giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em; tăng
cường giáo dục kiến thức về giới và kỹ năng phòng tránh bạo lực, xâm hại trẻ em cho
1


giáo viên và học sinh; chủ động phát hiện các trường hợp học sinh có dấu hiệu bị bạo
lực, xâm hại, thông báo, cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan có thẩm
quyền để thực hiện việc xử lý, điều tra, bảo vệ trẻ em”.
Sinh viên sư phạm là những người giáo viên trong tương lai trực tiếp tham gia
vào hoạt động giáo dục và giảng dạy thế hệ trẻ, là lực lượng đi đầu trong hoạt động

phịng chống xâm hại trẻ em. Vì vậy, tất cả các sinh viên sư phạm cần có nhận thức
đúng đắn về hành vi XHTD trẻ em để từ đó có những ứng xử phù hợp, biết cách phòng
chống và thiết kế những chương trình giáo dục phịng chống xâm hại tình dục trẻ em.
Tuy nhiên, khơng phải tất cả các sinh viên đều có nhận thức đúng đắn về vấn đề này.
Vì vậy, việc tìm hiểu nhận thức của sinh viên về XHTD trẻ em, từ đó đề xuất những ý
kiến nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề này là việc làm quan trọng và
cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề «Nhận thức của sinh
viên trường ĐHSP – ĐHTN về hành vi xâm hại tình dục trẻ em » để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng nhận thức của sinh viên trường
ĐHSP – ĐHTN về hành vi xâm hại tình dục trẻ em, đề tài đề xuất một số ý kiến nhằm
nâng cao nhận thức cho sinh viên về vấn đề này, từ đó góp phần ngăn chặn hành vi
xâm hại tình dục trẻ em.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: 200 sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN.
Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về hành
vi xâm hại tình dục trẻ em.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về xâm hại tình dục và nhận thức của sinh viên sư
phạm về hành vi xâm hại tình dục trẻ em.
4.2. Khảo sát thực trạng nhận thức của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về
hành vi xâm hại tình dục trẻ em.
4.3. Đề xuất ý kiến nhằm nâng cao nhận thức cho sinh viên trường ĐHSP –
ĐHTN về hành vi xâm hại tình dục trẻ em.

2


5. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu nhận thức của sinh
khoa Giáo dục Tiểu học và sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về hành vi xâm hại tình
dục trẻ em bao gồm: nhận thức về các hình thức xâm hại tình dục, nguyên nhân, hậu
quả của hành vi xâm hại tình dục trẻ em, cách phịng chống xâm hại tình dục trẻ em,
các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên sư phạm về hành vi xâm hại tình
dục trẻ em.
Thời gian khảo sát: tháng 03 năm 2018
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, khái qt
hóa các đề tài nghiên cứu, luận văn, các bài báo, các cơng trình nghiên cứu…có liên
quan đến vấn đề nhận thức, nhận thức của sinh viên về xâm hại tình dục trẻ em để xây
dựng khung lý thuyết cho đề tài nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
6.2.1. Phương pháp điều tra bằng anket
Chúng tôi sử dụng bảng hỏi gồm các câu hỏi đóng và mở để tìm hiểu nhận thức
của sinh viên trường ĐHSP – ĐHTN về hình thức biểu hiện, nguyên nhân, hậu quả của
hành vi xâm hại tình dục trẻ em và biện pháp phòng chống xâm hại tình dục trẻ em.
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được sử dụng nhằm tìm hiểu rõ hơn mức độ nhận thức
về hành vi xâm hại tình dục trẻ em của sinh viên; các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức
của sinh viên về hành vi xâm hại tình dục trẻ em; các biện pháp phịng chống xâm hại
tình dục trẻ em theo quan niệm của sinh viên…
6.3. Phương pháp sử dụng toán thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý kết quả nghiên cứu. Cách
thức xử lý số liệu theo phương pháp thống kê toán học trong khoa học tâm lý và giáo
dục học.

3



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM VÀ NHẬN THỨC CỦA
SINH VIÊN SƯ PHẠM VỀ HÀNH VI XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Vấn đề của trẻ em được quan tâm đặc biệt bởi các chính phủ và cộng đồng quốc
tế. Sáu trong tổng số tám mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ (MDGS) là nhằm nâng cao
chất lượng và thực hiện các quyền lợi của trẻ em, tạo cho trẻ em điều kiện sống và
phát triển tốt nhất.
Năm 1990, Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em được ban hành, quy định
rằng tất cả trẻ em ở khắp mọi nơi đều có quyền được bảo vệ khỏi tất cả các hình thức
bạo lực [19]. Vào năm 2002, Tổ chức Y tế Thế giới về Sức khỏe và Bạo lực đã có bản
báo cáo về tình trạng XHTD trong thời thơ ấu (khoảng 20% phụ nữ và 5 – 10% nam
giới đã từng bị XHTD) [13]. Năm 2004 – Karen J.Terry và Jennifer Tallon đã đưa ra
các lý thuyết sinh học và tâm lý học xã hội nghiên cứu và lý giải về hành vi XHTD trẻ
em của nam giới bằng các hành vi tình dục lệch chuẩn [13].
Năm 2015, các tác giả: Tiến sĩ Klaus M.Beier, Thạc sĩ Dorit Grundmann, Thạc
sĩ Laura F.Kuhle… và một số nhà nghiên cứu khác đã tiến hành Dự án Dunkelfeld của
Đức đó là Nghiên cứu thí điểm về ngăn chặn lạm dụng tình dục trẻ em và sử dụng hình
ảnh ngược đãi trẻ em. Nghiên cứu này đánh giá một chương trình điều trị nhằm tăng
cường kiểm soát hành vi và giảm các yếu tố nguy cơ có liên quan đối với ấu dâm. Các
tác giả cho rằng liệu pháp cho người ấu dâm trong Dunkelfeld có thể làm thay đổi
hành vi phạm tội tình dục trẻ em và giảm các hành vi liên quan. Các hành vi lạm dụng
tình dục trẻ em chưa được xác định, bất hợp pháp phổ biến rộng rãi hơn trong dân số
này so với báo cáo tái phạm chính thức [25].
Năm 2017, một nhóm tác giả thuộc Đại học Quốc tế Malaya-Wales, Kuala
Lumpur, Malaysia đã tiến hành một nghiên cứu về Lạm dụng tình dục trẻ em. Nghiên
cứu này đã thống kê tỷ lệ lạm dụng tình dục trẻ em chung trên toàn thế giới đồng thời

cũng chỉ ra nguyên nhân của sự lạm dụng tình dục trẻ em đó là do sự thiếu giáo dục từ
cha mẹ, nhà trường và truyền thông xã hội. Một trong những sự phát hiện lớn nhất của
nghiên cứu đó là ở những nước phương Tây thì mọi cơng dân đều là những phóng
4


viên, đặc biệt giáo viên là những phóng viên bắt buộc về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ
em. Khi họ nghi ngờ một ai đó lạm dụng trẻ em thì khơng bắt buộc họ phải báo cáo
với cha mẹ của đứa trẻ hoặc bất kỳ ai khác ngoài cơ quan nhận báo cáo lạm dụng trẻ
em [24].
Nhìn chung, các nghiên cứu trên các tác giả đã chỉ ra tình trạng XHTD trong
thời thơ ấu, đánh giá được chương trình điều trị, các liệu pháp nhằm thay đổi hành vi
phạm tội XHTD trẻ em, nguyên nhân của sự lạm dụng tình dục trẻ em và vai trị của
mọi người, đặc biệt là người giáo viên trong việc phòng chống XHTD trẻ em.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta đã có nhiều bài báo khoa học, cơng trình nghiên cứu về XHTD trẻ
em trong trường học và ngoài xã hội. Bài báo “Những hậu quả về tâm lý đối với nạn
nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục” của tác giả Dương
Tuyết Miên đã chỉ ra những hậu quả mà nạn nhân phải gánh chịu đó khơng chỉ là
những tổn thương về thể chất mà cịn gây ra những chấn thương tâm lý như: hoảng sợ,
lo lắng, hay giật mình, rối loạn tâm lý và rất ít người có thể trở lại cuộc sống bình
thường trong thời gian đầu sau khi trở thành nạn nhân của tội hiếp dâm. Tuy nhiên
trong số những nạn nhân của tội hiếp dâm chỉ có rất ít người đã từng tố cáo với cơ
quan chức năng về thủ phạm hoặc về vụ hiếp dâm, đa phần cịn lại thì giữ im lặng vì
xấu hổ hoặc sợ ảnh hưởng đến cuộc sống tương lai. Từ thực trạng trên tác giả đã đề
xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hậu quả về tâm lý của tội hiếp dâm [12].
Năm 2012, trên tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 6 đã đăng bài viết về
“Một số cách tiếp cận nghiên cứu xâm hại tình dục trẻ em qua các nghiên cứu nước
ngoài” của tác giả Trần Thị Cẩm Nhung. Trong bài viết tác giả đã đề cập đến vấn nạn
XHTD trẻ em – một vấn đề được quan tâm đặc biệt bởi các chính phủ và cộng đồng

quốc tế. Hậu quả của việc XHTD luôn để lại cho trẻ em những tổn thương lâu dài về
thân thể và về tâm lý. Bài viết đã trình bày một số cách tiếp cận trong nghiên cứu
XHTD trẻ em ở một số quốc gia trên thế giới. Kết quả của nghiên cứu sau đó được
đóng góp vào việc xem xét vấn đề XHTD trẻ em và rút ra những bài học kinh nghiệm
trong việc giải quyết vấn đề trẻ em ở Việt Nam [13].
Tác giả Nguyễn Tuấn Thiện với cơng trình nghiên cứu: “Các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành
phố Hà Nội)” (2015) đã chỉ ra các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo quy định của Bộ
5


luật Hình sự hiện hành, kinh nghiệm lập pháp của một số nước đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em, từ đó đề xuất hồn thiện các quy định của Bộ Luật Hình sự về
các tội xâm phạm tình dục trẻ em và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em [16].
Năm 2015, Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm học và Điều tra tội phạm, Học
viện Cảnh sát nhân dân và Văn phòng dự án tổ chức trẻ em Rồng Xanh (Blue Dragon)
đã phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học: “Xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam Nguyên nhân và các giải pháp phòng, chống”. Tại hội thảo, các chuyên gia đã làm rõ:
quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước và của Bộ Công an,
các bộ, ban, ngành liên quan đến phịng chống xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta; tình
trạng trẻ em bị xâm hại tình dục ở nước ta nói chung. Phân tích chỉ rõ các đặc điểm
đặc trưng của tình hình trẻ em bị xâm hại tình dục; phân tích thực trạng tình hình tổ
chức phịng chống xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta. Mối quan hệ phối hợp giữa các
cơ quan chức năng trong phịng chống xâm hại tình dục trẻ em… và đề xuất, kiến nghị
về mặt lập pháp, nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh, phịng ngừa
tội phạm xâm hại tình dục trẻ em [9].
Năm 2016, tác giả Nguyễn Minh Phương với Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội:
“Cơng tác xã hội trong việc phịng ngừa nguy cơ bị lạm dụng tình dục ở trẻ em lao
động sớm (khảo sát trên địa bàn quận Ba Đình và Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội)” đã
chỉ ra thực trạng trẻ em lao động sớm ở Việt Nam hiện nay, nguyên nhân, hậu quả của

lao động trẻ em và những nguy cơ bị lạm dụng tình dục của nhóm trẻ em lao động
sớm, từ đó đề tài đề xuất các giải pháp có sự can thiệp của cơng tác xã hội nhằm giúp
đỡ trẻ em lao động sớm, ngăn ngừa nguy cơ bị lạm dụng tình dục ở trẻ [14].
Nhìn chung, các bài báo và các cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra được những vấn
đề cơ bản có liên quan đến vấn nạn xâm hại tình dục ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên,
chưa có bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu nào tập trung đi sâu vào nghiên cứu nhận
thức của sinh viên nói chung và sinh viên trong các trường sư phạm nói riêng về vấn
đề XHTD trẻ em.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Xâm hại
Xâm hại là bất cứ hành động (hoặc không nhất thiết là hành động) có chủ ý làm
tổn thương hoặc gây nguy hại cho người khác. Tùy thuộc vào mức độ của nó, hành vi
6


này có thể gây ra những tổn thương nghiêm trọng cả về thể chất và tinh thần đối với
người bị hại. Những hậu quả mà xâm hại gây ra sẽ đeo bám nạn nhân suốt cả cuộc đời,
đồng thời cũng ảnh hưởng trực tiếp tới gia đình, cộng đồng và xã hội.
1.2.2. Trẻ em và xâm hại trẻ em
* Trẻ em
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đời người được chia thành hai giai đoạn:
giai đoạn trẻ em và giai đoạn người lớn. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng về
sinh lý, tâm lý và xã hội.
Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của cuộc đời con
người. Theo điều 1 của Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, được thơng qua
ngày 20/11/1989 tại Viên (Áo) và có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 thì: “Trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi
thành niên sớm hơn” [10].
Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam thì đưa ra khái niệm: “Trẻ em là
cơng dân Việt Nam dưới 16 tuổi trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy

định tuổi thành niên sớm hơn” [1].
Tâm lí học lại chia lứa tuổi trẻ em thành nhiều giai đoạn: Tuổi sơ sinh (0 – 2
tháng tuổi), tuổi hài nhi (2 – 12 tháng tuổi), tuổi vườn trẻ (1 – 3 tuổi), tuổi mẫu giáo
(từ 3 – 6 tuổi), tuổi nhi đồng (từ 6 – 11 tuổi), tuổi thiếu niên (từ 11 – 15 tuổi), tuổi
thanh niên mới lớn (từ 15 – 17,18 tuổi). Trẻ em ở những độ tuổi khác nhau thì có
những đặc điểm rất khác nhau hoặc cùng một độ tuổi nhưng sống ở xã hội khác nhau
thì những đặc điểm tâm lý, xu hướng phát triển cũng không giống nhau. Đứng dưới
góc độ tâm lý học, khái niệm “trẻ em” được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát
triển tâm lý, nhân cách con người và độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi.
Như vậy có rất nhiều khái niệm về trẻ em, tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này
chúng tôi sử dụng khái niệm của Tâm lý học làm khái niệm công cụ cho đề tài.
* Xâm hại trẻ em
Xâm hại trẻ em là những hành động gây hại hoặc làm tổn thương tới trẻ em
mà không phải là do tai nạn. Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa: Xâm hại trẻ em bao
gồm mọi hình thức ngược đãi về thể chất và tinh thần, xâm hại tình dục, xao nhãng,
bóc lột gây ra những thương tổn về sức khỏe, tính mạng, khả năng phát triển hay phẩm
giá bằng cách lợi dụng chức phận, lòng tin hoặc quyền hạn [4].
7


Theo Tổ chức Tầm nhìn Thế giới (World Vision) và Cơ quan Phát triển Quốc
tế Úc (Australian AID), xâm hại trẻ em là bất cứ hành động (hoặc không nhất thiết là
hành động) có chủ ý và làm tổn thương hoặc gây nguy hại cho trẻ [4].
Theo khoản 5 Điều 4 Luật Trẻ em 2016: “Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn
hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức
bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức
gây tổn hại khác” [7].
Như vậy, có rất nhiều khái niệm về xâm hại trẻ em. Trong đề tài này chúng tôi
sử dụng khái niệm xâm hại trẻ em của Luật Trẻ em 2016 do Quốc hội ban hành làm
khái niệm cơng cụ.

1.2.3. Xâm hại tình dục và xâm hại tình dục trẻ em
* Xâm hại tình dục
Cụm từ “xâm hại tình dục” có thể được hiểu là hành vi tình dục khơng tự
nguyện, trong một số trường hợp cịn dùng đến vũ lực. Xâm hại tình dục có thể bao
gồm việc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, loạn ln, cưỡng hiếp và bóc lột tình dục
bởi những người được xem là đáng tin cậy, chẳng hạn như bác sĩ, giáo viên hoặc giới
tăng lữ. Các nạn nhân bị quấy rối tình dục, dù qua lời nói hay về thể chất thường bị đe
dọa, hãm hại nếu nói ra sự việc [22].
Theo tác giả Đinh Thị Vân Anh: “Xâm hại tình dục là sự lơi kéo, cưỡng bức
người khác vào các hoạt động nhằm thỏa mãn dục vọng của mình” [2].
Từ khái niệm “xâm hại” và khái niệm xâm hại tình dục trên chúng tơi xây dựng
khái niệm xâm hại tình dục như sau: “Xâm hại tình dục là tất cả những hành vi tình
dục khơng tự nguyện từ phía người bị xâm hại, gây ra tổn thương nghiêm trọng cả về
thể chất lẫn tinh thần cho họ”.
* Xâm hại tình dục trẻ em
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF): “Xâm hại tình dục trẻ em là
mọi hành vi lôi kéo trẻ vào các hoạt động liên quan đến tình dục, mà trẻ khơng đủ khả
năng (hoặc không hiểu), hoặc không đủ tâm thế để đưa ra quyết định đối với các hành
vi này, hoặc các hành vi đó vi phạm đến luật pháp hay các giá trị văn hóa của cộng
đồng sở tại” [4].
Tổ chức Tầm nhìn Thế giới (World Vision) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc
(Australian AID) định nghĩa XHTD trẻ em xảy ra khi một ai đó sử dụng quyền lực
8


hoặc lợi dụng sự tin tưởng của trẻ để lôi kéo trẻ vào hoạt động tình dục. Xâm hại tình
dục trẻ em bao gồm tất cả các hành vi tình dục khơng mong muốn, có thể bao gồm cả
hành vi xâm hại có tiếp xúc hay hành vi xâm hại không tiếp xúc [4].
Theo định nghĩa của Finkelhor (2009), XHTD trẻ em bao gồm hành vi phạm tội
về tình dục mà trẻ em dưới 17 tuổi là nạn nhân. Luật Bảo vệ và Hỗ trợ trẻ em bị bạo

hành của Mỹ (CAPTA) định nghĩa XHTD trẻ em bao gồm những hành vi sau: “Sử
dụng, thuyết phục, lôi kéo hoặc sử dụng áp lực để ép trẻ em tham gia vào hoặc hỗ trợ
người khác tham gia và thực hiện hành vi tình dục hoặc hành vi gợi tình vì mục đích
có hành vi tình dục hoặc hiếp dâm, và trong trường hợp những người chăm sóc hoặc
người thân trong gia đình gạ gẫm, mại dâm, sử dụng hình thức bóc lột trẻ em, loạn
luân với trẻ em (Child Welfare Information Gateway, 2009) [13].
Theo định nghĩa của Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ, XHTD trẻ em không
những bao gồm các hành vi động chạm trực tiếp đến thân thể mà phô dâm, ngôn dâm
với trẻ em, xem phim đồi trụy trẻ em cũng được xem là XHTD trẻ em [17].
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa “Xâm hại tình dục trẻ em là sự lơi
kéo trẻ em vào hoạt động tình dục mà em đó khơng hiểu biết đầy đủ, khơng có khả
năng đồng ý một cách hiểu biết, hoặc chưa phát triển đầy đủ hoặc vi phạm pháp luật
hay các cấm kỵ của xã hội. Xâm hại tình dục trẻ em là hành vi giữa trẻ em với người
lớn hoặc trẻ em khác (Karin Heissler 2001) [4].
Nói về khái niệm “xâm hại tình dục”, ơng Trần Thành Nam – Tiến sỹ Tâm lý
học trẻ em và vị thành niên cho biết: XHTD trẻ em là tất cả các hành vi dụ dỗ, xúi bẩy,
lôi kéo, ép buộc trẻ em thực hiện một số hành vi mang tính chất tính dục khơng phù
hợp với lứa tuổi của các em. Hành vi nhìn chỗ kín (thị dâm), nói chuyện về vấn đề liên
quan đến hoạt động tình dục, bộ phận sinh dục (khẩu dâm), nghe, động chạm, ơm đều
có thể được xem là XHTD. Khái niệm XHTD được hiểu rất rộng chứ khơng chỉ là có
hành vi quan hệ tình dục như nhiều người vẫn nghĩ [18].
Nhìn chung, có rất nhiều cách hiểu về XHTD trẻ em cho thấy tính chất phức tạp
của vấn nạn này. Việc có nhiều cách định nghĩa như trên khiến cho cha mẹ, những
người làm cơng tác giáo dục gặp phải khó khăn trong việc hiểu đúng bản chất của
hành vi XHTD trẻ em và phịng ngừa XHTD trẻ em. Xuất phát từ tình hình đó, Căn cứ
vào Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội đã ban hành Luật
trẻ em 2016. Trong đó tại khoản 8 Điều 4 định nghĩa XHTD được hiểu như sau:
9



“XHTD trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em
tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao
cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi
hình thức” [11].
Như vậy, có thể thấy có rất nhiều quan điểm về XHTD trẻ em. Tuy nhiên, trong
phạm vi đề tài này chúng tôi sử dụng khái niệm về XHTD trẻ em của Tiến sỹ Trần
Thành Nam làm khái niệm công cụ cho đề tài nghiên cứu.
1.2.4. Nhận thức của sinh viên về hành vi xâm hại tình dục trẻ em
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhận thức:
Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức
và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy
trình như tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lý luận, sự tính tốn,
việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngơn ngữ.
Theo từ điển Bách Khoa tồn thư mở Wikipedia: “Nhận thức là quá trình con người
tìm hiểu thế giới tự nhiên và xã hội. Trong quá trình này, con người lý giải vạn vật theo
từng giai đoạn nhận thức của mình. Từ đó tìm ra quy luật vận động và phát triển, thay
đổi và tiến hóa, bản chất và hình thức, hình thành và tiêu vong của thế giới vật chất và
tinh thần.” [20].
Theo C. Mác và F. Ăngghen: Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc của con người. Sự phản ánh đó khơng phải là một hành động nhất thời, máy
móc, giản đơn và thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực
sáng tạo” [5].
V. Lênin cho rằng: Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con người.
Nhưng không phải phản ánh đơn thuần trực tiếp, hoàn chỉnh mà là cả quá trình. Quá
trình này là cả một chuỗi những sự trừu tượng, sự cấu thành và sự hình thành ra các
khái niệm, quy luật và chính các khái niệm, quy luật này bao quát một cách có điều
kiện gần đúng tính quy luật phổ biến của thế giới tự nhiên vĩnh viễn vận động và phát
triển [6].
Theo từ điển Tâm lý học do tác giả Vũ Dũng chủ biên (2008) thì nhận thức là
hiểu được một điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết

những quy luật về những hiện tượng, quá trình nào đó… [7].

10


Những quan điểm nêu trên đều có những điểm tương đồng khi định nghĩa về
nhận thức bởi đều xem nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan
thông qua sự nhận biết và các bước của tư duy. Sản phẩm của q trình nhận thức có
thể là nhận thức đúng đắn và sai lầm nhưng thông qua sự tích cực và tự giác con người
sẽ dần dần loại bỏ cái sai và có nhận thức đúng đắn để cải thiện hiện thực khách quan
làm cho nó ngày càng phục vụ cuộc sống con người ngày một tốt hơn.
Dưới góc độ Tâm lý học: Nhận thức là một trong 3 mặt cơ bản của đời sống tâm
lý con người (trong đó có nhận thức, tình cảm và hành động ý chí). Nhận thức có quan
hệ chặt chẽ với hai mặt cịn lại và đồng thời có quan hệ mật thiết với các hiện tượng
tâm lý khác của con người.
Nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt
động con người nhận thức – phản ánh được hiện thực xung quanh, hiện thực của bản
thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung
quanh và đối với chính bản thân mình. Đặc trưng của hoạt động nhận thức là phản ánh
những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ của các sự vật hiện tượng trong hiện
thực khách quan.
Trong cuộc sống hàng ngày con người phải nhận thức, thể hiện thái độ, tình cảm
và hành động của mình với thế giới. Thơng qua nhận thức, con người phản ánh hiện
thực khách quan xung quanh mình, đó là tất cả những gì tồn tại ngồi ý thức của con
người độc lập với ý thức của con người và phát triển theo quy luật vận động tự nhiên
của nó và cả hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó bày tỏ quan điểm thái độ
tương ứng và những hành động cụ thể.
Nhận thức là một cơ chế tâm lý đi trước trong hành vi có ý thức, có mục đích của
mỗi người. Nó là cơ chế để lựa chọn các hình thức hành động hình thành tính tích cực,
thế giới quan, niềm tin của mỗi con người. Nhận thức giúp con người không chỉ thích

ứng với tự nhiên - xã hội mà cịn cải tạo xã hội, chinh phục thế giới tự nhiên và cải tạo
chính bản thân mình.
Từ khái niệm nhận thức và khái niệm XHTD trẻ em chúng tôi đưa ra khái niệm
nhận thức của sinh viên về hành vi XHTD trẻ em như sau: “Nhận thức của sinh viên
về hành vi XHTD trẻ em là những hiểu biết của sinh viên về biểu hiện của các hình
thức XHTD trẻ em, nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp phòng chống XHTD trẻ
em…”. Nhận thức đúng và đầy đủ về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em sẽ là cơ sở để
11


giúp sinh viên có những thái độ, hành động đúng đắn góp phần phịng, chống và đẩy
lùi vấn nạn này.
1.3. Một số vấn đề lý luận về xâm hại tình dục trẻ em và nhận thức của sinh viên
sư phạm về hành vi xâm hại tình dục trẻ em
1.3.1. Một số vấn đề lý luận về xâm hại tình dục trẻ em
1.3.1.1 Các hình thức biểu hiện của hành vi xâm hại tình dục trẻ em
Các hình thức biểu hiện của hành vi XHTD trẻ em rất đa dạng như: hiếp dâm,
giao cấu, cưỡng dâm, dâm ơ, dùng lời nói tục tĩu nhưng tựu chung lại có thể phân
loại XHTD trẻ em thành 2 hình thức cơ bản đó là: XHTD trẻ em bằng cách đụng
chạm (xâm hại về thể chất) và XHTD trẻ em bằng cách không đụng chạm (xâm hại
về tinh thần).
XHTD trẻ em bằng cách đụng chạm: đây là dạng XHTD phổ biến nhất và dễ
dàng nhận ra. Đó là những hành vi tác động trực tiếp lên cơ thể giữa trẻ và thủ phạm
như: sờ vào vùng kín của trẻ; ép buộc trẻ quan hệ tình dục hoặc lơi kéo trẻ vào các
hành vi tình dục với trẻ em khác hoặc với người lớn; hơn hít hay sờ mó vào những
vùng kín của trẻ hoặc bắt trẻ phải làm vậy với mình; ép trẻ thực hiện hành vi mại
dâm…
XHTD trẻ em bằng cách không đụng chạm: là những hành vi tác động vào nhận
thức, tinh thần, tâm lý tình cảm của nạn nhân. Hình thức XHTD này có thể bao gồm
các biểu hiện cụ thể như: dùng lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho trẻ sốc,

làm cho trẻ hưng phấn tình dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục; bắt trẻ đứng, ngồi
theo tư thế gợi dục để chụp ảnh; dụ dỗ, ép buộc trẻ xem những loại sách báo, phim ảnh
khiêu dâm; phơ bày bộ phận sinh dục của mình trước mặt trẻ; nhìn trộm trẻ trong khi
thay quần áo hoặc khi tắm…
1.3.1.2. Thủ phạm, địa điểm xâm hại tình dục trẻ em
* Thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em
Thủ phạm được xác định là người thực hiện một hành vi sai trái. Hành vi này
có thể là hành vi tiêu cực, vi phạm đạo đức, quy tắc xử sự, vi phạm pháp luật hoặc tội
phạm đã được xác định hoặc bằng một quyết định của cơ quan có thẩm quyền (thông
thường là cơ quan điều tra, thanh tra hay cơ quan tư pháp như cơng tố, kiểm sát, tịa
án). Theo luật pháp Anh, thủ phạm là một trong những người bị cáo buộc thực hiện
một tội phạm. Theo luật hình sự hiện đại, thuật ngữ ưa thích sử dụng hơn thuật ngữ thủ
12


phạm đó là bị đơn. Thủ phạm trong những vụ án mạng thường được gọi là hung thủ,
kẻ thủ ác và hay được gọi là kẻ giết người, tên sát nhân, kẻ chủ mưu...
Trên thực tế, người phạm tội XHTD trẻ em chưa chắc là người mắc loạn dục
với trẻ em trừ khi họ có một ham muốn tình dục mạnh mẽ ở trẻ em độ tuổi trước dậy
thì. Điều này đồng nghĩa với việc không phải ai mắc loạn dục với trẻ em cũng có hành
vi tình dục với trẻ em. Thủ phạm XHTD trẻ em có thể là người lạ như thanh niên mới
lớn, người nghiện ngập ma túy, rượu bia, những người bị bệnh tâm thần, mất ý thức về
việc mình đang làm… tuy nhiên thì đa phần thủ phạm gây ra hành vi XHTD là người
thân quen của trẻ. Những người thân quen đó có thể là thành viên trong gia đình, cộng
đồng hay ai đó mà trẻ tin cậy. Theo nghiên cứu của Hiệp Hội Quốc Gia Phịng Chống
Bạo Hành Trẻ Em (NSPCC) thì trong các vụ xâm hại tình dục trẻ em, nạn nhân thường
quen biết hoặc thậm chí là biết rõ về thủ phạm. Kẻ xâm hại có thể là người thân trong
gia đình các em như: bố dượng, bố đẻ, chú, bác… hoặc là hàng xóm, bạn bè của nạn
nhân và gia đình các em. Thủ phạm xâm hại tình dục thường dùng rất nhiều thủ đoạn
để tiếp cận và xâm hại trẻ em. Trên thực tế, chúng thường dành nhiều thời gian để xây

dựng mối quan hệ thân thiết với trẻ (đơi khi là với gia đình trẻ). Q trình này gọi là
“dụ dỗ” và có thể diễn ra theo một số bước sau: thứ nhất là nhắm đối tượng (thủ phạm
xác định trẻ em chúng muốn xâm hại, thường chúng sẽ nhắm đến những trẻ dễ bị tổn
thương), thứ hai là xây dựng niềm tin (thủ phạm tạo niềm tin ở trẻ bằng cách chia sẻ sở
thích, tặng quà và kết bạn với trẻ); thứ ba là tạo bí mật (thủ phạm bắt đầu tạo ra những
bí mật riêng với trẻ bằng cách hứa hẹn, đe dọa hay ép buộc để trẻ không tiết lộ với ai),
thứ tư là hành động leo thang (thủ phạm tiến tới việc giới tính hóa mối quan hệ với trẻ,
nội dung thường đề cập đến các vấn đề tình dục và chia sẻ với trẻ những tài liệu đồi
trụy, khiến trẻ trở nên “mất cảnh giác”), thứ năm là thực hiện xâm hại (thủ phạm thực
hiện hành vi xâm hại tình dục trẻ) [3].
Tuy nhiên, khơng phải tất cả thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em đều sử dụng
cùng một thủ đoạn dụ dỗ trẻ. Nếu thủ phạm là người lạ thì chúng có thể sử dụng một
số thủ đoạn khác như: tấn công bất ngờ, mua chuộc, lừa dối, khống chế, ép buộc trẻ
tham gia vào hoạt động tình dục… Sau khi thực hiện hành vi xâm hại, thủ phạm
thường xây dựng mối quan hệ thân thiết với nạn nhân và gia đình của các em để che
giấu hành vi xâm hại.

13


* Địa điểm xảy ra hành vi xâm hại tình dục trẻ em
Hành vi XHTD trẻ em có thể diễn ra ở những địa điểm khác nhau. Tuy nhiên,
tất cả các địa điểm xảy ra những vụ xâm hại đó đều quen thuộc, gần gũi và là nơi trẻ
thường lui tới như: xâm hại trẻ tại nhà của nạn nhân, nhà hàng xóm, trên đường đi học
về, nhà vệ sinh trường học, xung quanh trường học, công viên, nơi hẻo lánh (bãi đất
hoang, nhà kho, khu xây dựng…).
1.3.1.3. Nguyên nhân dẫn đến hành vi xâm hại tình dục trẻ em
XHTD trẻ em xảy ra với nhiều nguyên nhân khác nhau. Có rất nhiều quan
điểm về nguyên nhân của vấn đề này. Có quan điểm cho rằng đó là do những tệ nạn xã
hội gây ra, quan điểm khác lại cho rằng do do người lớn chưa nhận thức đúng đắn về

quyền trẻ em, hay trẻ em chưa có ý thức tự bảo vệ bản thân mình trước những nguy
hiểm, do đặc điểm sinh học của thủ phạm…Nhưng nhìn chung có thể chia thành hai
nhóm nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi XHTD trẻ em đó là: Nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan.
Về nguyên nhân chủ quan: Do chính bản thân trẻ chưa được cung cấp kiến
thức, kỹ năng sống bảo vệ chính mình hay là do trẻ thiếu nhận thức về các mối nguy
hiểm từ việc xâm hại tình dục; trẻ em khơng được trang bị một cách đầy đủ, hệ thống
các kỹ năng cơ bản để thích nghi với đời sống kinh tế xã hội có nhiều biến đổi. Những
kỹ năng sống cần trang bị cho các em để tránh bị XHTD đó là: kỹ năng phòng vệ, kỹ
năng tự nhận thức, kỹ năng xử lý tình huống… Bên cạnh đó một bộ phận trẻ em chưa
đủ trình độ nhận thức hoặc có học vấn thấp, khơng được gia đình chăm sóc, quản lý
chu đáo, khơng được uốn nắn những hành vi sai lệch một cách kịp thời nên dễ bị tiêm
nhiễm một lối sống buông thả, tạo cơ hội cho những kẻ bất lương dụ dỗ, mua chuộc,
lợi dụng.
Về nguyên nhân khách quan: Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy những
nguyên nhân khách quan dẫn đến trẻ bị XHTD có thể là do:
- Nhận thức về vai trị, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội
tại địa phương trong việc bảo vệ và giáo dục phòng tránh XHTD cho trẻ em chưa đầy
đủ, đúng đắn. Nhiều bậc cha mẹ còn chưa nhận thức được đầy đủ các biểu hiện của
hành vi XHTD trẻ em; thiếu sự hiểu biết về pháp luật nói chung và luật về trẻ em nói
riêng, về kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của cộng đồng và gia đình…
dẫn đến sự lỏng lẻo trong công tác phối hợp giữa các ban ngành, chưa có sự kết hợp
14


hài hịa giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức, hiểu biết cho trẻ biết tự bảo vệ mình trước hành vi XHTD. Trẻ bị xâm hại
tình dục ít được người lớn hướng dẫn, hỗ trợ để khắc phục hậu quả mà thường có xu
hướng giấu đi vì sợ xấu hổ với hàng xóm, người thân…
- Pháp luật chưa đủ mạnh để răn đe, còn nhiều kẽ hở: Nhà nước chưa làm tốt

nhiệm vụ trong công tác quản lý những văn hóa phẩm đồi trụy như phim ảnh, sách
báo, băng hình, các loại văn hóa phẩm khiêu dâm, các trang web gợi dục…. điều này
đã trở thành một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến hành vi XHTD trẻ em. Bên
cạnh đó, việc đánh giá, xử lý những vụ XHTD trẻ em tại một số địa phương chưa triệt
để, thường bị xem nhẹ vì cho rằng đó là vấn đề cá nhân, là điều xấu hổ của gia đình,
địa phương nên cần phải che giấu.
- Mơi trường xã hội cịn rất nhiều những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến hành vi
XHTD trẻ em như: Cha mẹ bị cuốn vào các tệ nạn xã hội, cha mẹ mâu thuẫn, ly hôn
hay cha mẹ có lối sống ích kỷ… bỏ bê con trẻ, sống thiếu trách nhiệm với con cái. Sự
lan truyền của văn hóa phẩm đồi trụy, những video tình dục, khiêu dâm… tràn lan tại
một số kênh trên internet tác động trực tiếp tới tư tưởng, đạo đức, lối sống và nhân
cách của con người dẫn đến hành vi XHTD diễn ra ngày càng nhiều mà nạn nhân chủ
yếu là trẻ em.
- Nguyên nhân về kinh tế: gia đình nghèo, kinh tế khó khăn cũng là nguy cơ
dẫn đến XHTD trẻ em vì kinh tế khó khăn sẽ gây ra nhiều áp lực, căng thẳng cho bố
mẹ. Bố mẹ quan tâm đến việc làm kinh tế nên khơng có thời gian quan tâm chăm sóc
đến trẻ hoặc do nghèo đói nên một số trẻ nhỏ phải tự đi kiếm sống và dễ trở thành nạn
nhân của hành vi XHTD.
- Ngoài ra cịn có một số ngun nhân từ kẻ phạm tội như một số kẻ bệnh hoạn,
có tư tưởng giao cấu với trẻ em còn trinh sẽ gặp vận may hoặc trút bỏ được vận đen,
đồng thời giảm nguy cơ bị nhiễm HIV/AIDS. Bọn chủ chứa, môi giới nắm được tâm
lý này nên đã chủ động săn lùng, tìm kiếm, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của các em. Một
bộ phận người thân của các em do nhận thức kém, vơ đạo đức, mất nhân tính dẫn tới
hành vi xâm phạm tình dục trẻ em như loạn luân, đẩy các em vào con đường mại dâm
hoặc bị buôn bán vì mục đích mại dâm [8].

15


1.3.1.4. Hậu quả của hành vi xâm hại tình dục trẻ em

XHTD trẻ em gây ra những hậu quả nghiêm trọng không chỉ đối với nạn nhân
bị xâm hại (cả về thể chất lẫn tinh thần) mà còn gây ra những tác hại đối với gia đình
và cộng đồng.
Đối với trẻ em bị XHTD: trẻ em là những người đang trong độ tuổi phát triển,
chưa hoàn thiện về mặt thể chất và tâm sinh lý. Vì vậy khi trẻ bị XHTD sẽ dẫn đến
những tổn thương không chỉ về thể chất mà nó cịn ảnh hưởng lâu dài đến tinh thần
của trẻ. Những hậu quả này biểu hiện từ nhẹ đến những rối loạn rất nặng. Những rối
loạn này không chỉ liên quan đến sức khỏe sinh sản mà còn liên quan đến khả năng
học tập, khả năng hòa nhập cũng như đối với sức khỏe tâm thần của trẻ.
Về thể chất, những hậu quả có thể thấy được ngay ở trẻ em nhỏ như chảy máu
nặng do rách âm đạo - trực tràng, các tổn thương ở bộ phận sinh dục, nhiễm các bệnh
lây truyền qua đường tình dục (như HIV, giang mai, viêm gan....). Với trẻ lớn hơn,
nguy cơ có thai được phát hiện muộn khơng phải là hiếm gặp [8].
Về sức khỏe tinh thần, trẻ bị XHTD sẽ ảnh hưởng tâm lý đến suốt cuộc đời.
Nhiều trẻ sau khi bị xâm hại tình dục có sự hoảng loạn, xuất hiện các ảo giác bệnh lý
như: ln có cảm giác bất an, giật mình, tưởng tượng ra hình ảnh kẻ xâm hại hay tiếng
nói của kẻ xâm hại, rối loạn giấc ngủ, chán ăn, xấu hổ, mặc cảm tội lỗi, cảnh giác với
mọi người xung quanh, co mình lại khơng tham gia các hoạt động đồn thể…
Tùy thuộc vào mức độ của lạm dụng tình dục mà trẻ có thể biểu hiện sợ hãi và
lo lắng trước người khác giới hoặc trước những vấn đề liên quan đến tình dục và có thể
biểu hiện những hành vi tình dục khơng đúng mực [8]. Trẻ có những hành vi lệch
chuẩn như chán học, trốn học, không vâng lời cha mẹ, chống đối, có hành vi gây
hấn… Nghiêm trọng hơn, sau khi bị XHTD trẻ có nguy cơ bị sang chấn tâm lý như
trầm cảm, tự ti về bản thân mình, suy giảm năng lực trí tuệ… hoặc có thể tìm đến cái
chết do bị sốc về mặt tinh thần. Các em rơi vào trạng thái hoảng sợ và cảm thấy khơng
có lối thốt. Một phần do xấu hổ, một phần khác do bị kẻ lạm dụng đe dọa nên các em
khơng dám thổ lộ cùng ai. Xâm hại tình dục cịn có khả năng gây ra những lệch lạc
giới tính cho các em. Khi các em nam bị xâm hại tình dục thì các em sẽ khơng phát
triển tự nhiên về mặt sinh lý mà có nguy cơ bị lệch lạc về tình dục.
Những ám ảnh về việc bị lạm dụng, đặc biệt là hành vi tình dục đồng giới sẽ là

một trong những nguyên nhân khiến các em trở thành người đồng tính luyến ái. Ngồi
16


ra, những lệch lạc giới tính về sau này khi trưởng thành có thể dẫn đến việc quan hệ
tình dục bừa bãi với nhiều người. Hơn thế, trẻ bị xâm hại tình dục có thể tiếp tục bị
người khác xâm hại trong suốt qng đời cịn lại. Vì với những trải nghiệm bị xâm hại
khi còn là một đứa trẻ, các em có thể lớn lên và tin rằng tình dục là cách duy nhất để
thể hiện cảm xúc và sự an tồn.
Đối với gia đình: hành vi XHTD trẻ em không chỉ gây ra hậu quả nghiêm trọng
đối với riêng bản thân trẻ mà còn ảnh hưởng tới gia đình của nạn nhân. Khi trẻ bị xâm
hại, gia đình có thể sống trong sự sợ hãi, lo lắng rằng trẻ sẽ tiếp tục trở thành nạn nhân,
một số gia đình cịn có thái độ mặc cảm, xấu hổ với hàng xóm họ hàng… điều này gây
ra bầu khơng khí tâm lý căng thẳng, ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của các thành
viên trong gia đình. Bên cạnh đó, XHTD trẻ em còn gây ra những tổn thất về kinh tế
cho gia đình nạn nhân trong việc khám chữa và phục hồi sức khỏe thể chất, tinh thần.
Đối với xã hội: XHTD trẻ em có tác động lớn đến đạo đức xã hội, đến truyền
thống văn hóa nhân văn lâu đời của người Việt Nam, làm suy thoái đạo đức xã hội, đi
ngược lại với những giá trị văn hóa đời sống con người. Hành vi XHTD trẻ em gây rối
trật tự an ninh xã hội, làm gia tăng tệ nạn xã hội và làm ảnh hưởng đến tâm lý của các
cá nhân trong cộng đồng, xã hội. Bên cạnh đó XHTD cịn để lại gánh nặng cho cộng
đồng và xã hội về vật chất và tinh thần đối với việc phục hồi sức khỏe và tâm lý của
nạn nhân trẻ em, cùng với những chi phí điều tra, xử lý và đền bù do các vụ án XHTD
trẻ em gây ra.
XHTD trẻ em ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển lâu bền của đất nước. Trẻ em
bị XHTD sẽ khó có đủ điều kiện sức khỏe và học tập tốt để sau này tham gia lao động,
đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghiêm trọng hơn
XHTD có thể để lại hậu quả lâu dài cho trẻ về mặt tâm lý. Nạn nhân xâm hại tình dục
nếu khơng được hỗ trợ tham vấn, trị liệu kịp thời từng giai đoạn cho đến khi trưởng
thành cũng có thể là một trong những mầm mống trở thành tội phạm sau này, gây băng

hoại đời sống đạo đức xã hội. Hành vi XHTD trẻ em dục có thể trở thành một trong
những vấn nạn xã hội tăng lên theo cơ chế lây lan, tập nhiễm hành vi xấu của những
đối tượng có trình độ nhận thức kém trong xã hội, khiến cho họ trở thành những kẻ
xâm hại, kẻ phạm tội mà khơng ý thức rõ ràng về hành vi của mình.

17


1.3.2. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên sư phạm
Thuật ngữ: “Sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Latinh, “Student” có nghĩa là
người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm và khai thác tri thức. Nó được dùng
nghĩa tương đương với “Student” trong tiếng Anh, dùng để chỉ những người theo học
ở bậc Đại học và được phân biệt với trẻ em đang học ở trường phổ thông.
Sinh viên là nguồn tri thức trẻ của xã hội, là đại biểu của một nhóm xã hội đặc
biệt đang chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã
hội đặc biệt này bổ sung cho đội ngũ tri thức hoạt động học tập được đào tạo cho lao
động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào các hoạt động đa dạng, có ích
cho xã hội.
Sinh viên là người thuộc mọi lứa tuổi nhất định và là một nhân cách nên có thể
xác định về ba phương diện: Sinh lý, Tâm lý và xã hội. Theo quy định của trường Đại
học thì lứa tuổi của sinh viên hiện tại là từ 18 đến 23 tuổi nghĩa là nó thuộc giai đoạn
thứ hai của tuổi thanh niên [15].
Theo cuốn Tâm lý học sư phạm đại học của tác giả Nguyễn Thạc, Phạm Thành
Nghị thì ở lứa tuổi này sinh viên có thể đạt tới sự hồn chỉnh về cấu trúc và sự phối
hợp giữa các chức năng, hoạt động thần kinh cấp cao đạt đến sự trưởng thành. Nhân
cách đang dần hoàn thiện để chuẩn bị chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên theo
sự phân công của xã hội. Họ đã xác cho mình một hướng đi tương lai, đồng thời tích
cực trang bị cho mình vốn kiến thức cần thiết và bắt đầu thể hiện bản thân trong quá
trình thực hành nghề và trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội [15].
Sinh viên sư phạm mang đầy đủ những đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh

viên nói chung, gắn với định hướng giá trị nghề dạy học. Cụ thể:
Về sự phát triển nhận thức: Nhận thức của sinh viên diễn ra từ mức độ thấp là
cảm giác đến mức độ cao là tư duy. Nét đặc trưng trong hoạt động nhận thức của sinh
viên là họ có khả năng tập trung trí tuệ, có thể tiến hành hoạt động tư duy với sự phối
hợp của nhiều thao tác: phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa…
Bản chất hoạt động nhận thức của sinh viên trong các trường Cao đẳng, Đại học sư
phạm là đi tìm hiểu những mơn học, những chun ngành khoa học một cách cụ thể và
chuyên sâu để nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật của các khoa
học đó với mục đích trở thành người giáo viên và nhà giáo dục trong tương lai. Hoạt
động nhận thức của sinh viên một mặt phải kế thừa một cách có hệ thống những kiến
18


×