Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá tính bền vững của sự phát triển là một công việc không những yêu cầu nhiều nỗ lực mà còn kinh nghiệm của những người chuyên làm về công tác đánh giá.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.32 KB, 8 trang )

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 2/2017

VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI

MỘT VÀI TRAO ĐỔI VỀ ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
SOME ISSUES ABOUT ASSESSING SUSTAINABLE DEVELOPMENT
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1
Ngày nhận bài: 12/10/2016; Ngày phản biện thông qua: 24/02/2017, Ngày duyệt đăng: 15/6/2017

TÓM TẮT
Đánh giá tính bền vững của sự phát triển là một công việc không những yêu cầu nhiều nỗ lực mà còn kinh
nghiệm của những người chuyên làm về công tác đánh giá. Đến nay, đã có rất nhiều bộ chỉ số/chỉ thị được đề
xuất nhằm đánh giá phát triển bền vững. Thông qua các tài liệu tham khảo, bài viết trình bày một vài phương
thức/cách tiếp cận (approach) và các chủ đề (themes) trong việc xây dựng bộ chỉ thị nhằm đánh giá tiến trình
phát triển ở cấp quốc gia và địa phương. Đánh giá sự phát triển bền vững đòi hỏi tính khách quan, bảo đảm
sự tích hợp bắt đầu từ việc tiếp cận, lựa chọn bộ chỉ số và các chỉ thị cũng như thiết kế hệ thống đánh giá đối
với tiến trình phát triển.
Từ khóa: Đánh giá phát triển bền vững, tiếp cận và lựa chọn các chỉ thị
ABSTRACT
Development sustainability assessement is a task that requires not only efforts but also experience of
professionals in the field of assessement. Presently, there are many indices/indicators proposed in the the
assessment of sustainable development which includes researching literature in the field. The paper presents
some approaches and themes of indicator setting to assess development process at both national and local
levels. Development assessement requires objectivity to ensure intergration starting at approaching, selecting
indices and indicators as well as designing rating system for development process
Keywords: Sustainable development assesement, Approach and Indicators selection
I. MỞ ĐẦU
Ngày nay thuật ngữ “Phát triển bền vững”
đã trở nên quen thuộc với những người làm


công tác nghiên cứu khoa học nói chung.“Phát
triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng
nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ tương lai”.
Đối với Việt Nam, theo Mục 4, Điều 3, Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014, phát triển bền
vững được định nghĩa: “Phát triển bền vững
là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng

1

đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường” [5].
Về mặt tổng thể, phát triển bền vững được
thống nhất phải thể hiện sự giao thoa và kết
hợp giữa 3 khía cạnh, đó là có thể gánh chịu
được (bearable) về mặt môi trường, công bằng
(equitable) về mặt xã hội và có thể đem lại hiệu
quả (viable) về mặt kinh tế. Sự kết hợp và giao
thoa này thể hiện tính chất bền vững của quá
trình phát triển.

Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 127



Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 2/2017

Vì lý do này, phát triển bền vững và đánh
giá sự phát triển đã được Chương trình nghị sự
21 (Agenda 21) của Liên hiệp quốc khởi xướng
từ 1992 [14] với sự tham gia của các quốc gia,
tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ. Đến
nay đã có nhiều công bố liên quan đến việc đề
xuất và thảo luận các giải pháp nhằm đánh giá
hoặc đo lường tính bền vững trong quá trình
phát triển cả ở cấp địa phương lẫn quốc gia.
Thông qua các tài liệu tham khảo, bài viết này
trình bày một số quan điểm về phương thức/
cách tiếp cận (approach), các chủ đề (themes)
và việc xây dựng bộ chỉ thị trong đánh giá quá
trình phát triển ở cấp quốc gia và địa phương.
II. NỘI DUNG
1. Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá phát triển
bền vững
Điểm khác biệt giữa các bộ chỉ thị đánh
giá sự phát triển trước hết là phương pháp
luận và sau đó là việc lựa chọn cũng như cách
tính giá trị chỉ thị. Do phát triển bền vững liên
quan đến mọi lĩnh vực xã hội nên bộ chỉ thị
đánh giá thông thường được xây dựng bởi các
nhóm chuyên gia ở các lĩnh vực bao gồm cả
những chuyên gia về đánh giá tiến trình phát

triển. Theo định nghĩa của sự phát triển bền
vững, quá trình phát triển đòi hỏi sự đánh giá

kết hợp (integrated assessment) bao gồm cả 3
khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Theo
Hak và cộng sự (2007), việc sử dụng các chỉ
thị trong việc đánh giá kết hợp phải giải quyết
nhiều thách thức tương tự như những áp
dụng khác của chỉ thị; đó là lựa chọn chỉ thị
phù hợp, tính sẵn có của dữ liệu, các so sánh
giữa những chủ đề riêng biệt và cách thức đo
lường, trọng số và số lượng tổng thể các chỉ thị
được chọn. Để giải quyết vấn đề này, một cách
tiếp cận là thông qua các mô hình tính toán để
đưa đến giá trị cuối cùng. Điều đó cho phép
các hệ thống đánh giá tính vừa có tính chặt
chẽ vừa có tính linh hoạt [11].
Bản phát thảo ban đầu của Ủy ban phát
triển bền vững (CSD) bao gồm 134 chỉ thị
giảm dần xuống còn 58 chỉ thị vào năm 2001
và 50 chỉ thị cốt lõi vào năm 2005 sau nhiều
lần xem xét [14]. Phương pháp luận của các
chỉ thị thường xuyên được cập nhật trên “trang
mạng” (website) của “Phân ban phát triển bền
vững” (Division of Sustainable development
- DSD) của Liên hiệp quốc. Tập hợp chỉ thị
bao hàm khung chủ đề/chủ đề phụ (thematic/
sub-thematic framework) được thông qua năm
2001. Tuy nhiên, có thể thấy rằng vấn đề này
cần phải được rà soát tùy theo tình hình cụ thể

đối với mỗi quốc gia, mỗi khu vực.

Bảng 1. Các chủ đề của chỉ thị theo Ủy ban phát triển bền vững Liên Hiệp Quốc (CDS)
Tai biến thiên nhiên
(Natural hazards)

Nghèo đói

Quản trị (Governance)

Khí quyển

Sức khỏe

Đất đai (Land)

Giáo dục

Đại dương, biển và bờ biển

Nhân khẩu (Demographics)

Nước ngọt

Phát triển kinh tế

Quan hệ đối tác kinh tế toàn
cầu
Các mô hình tiêu thụ và sản
xuất


Đa dạng sinh học
Nguồn: [14]

Việc tập trung và làm rõ điều cần đo
lường, điều được mong đợi từ việc đo lường
và những loại chỉ thị cần vận dụng được thể
hiện qua các “khung hoạt động” (framework)
mang tính khái niệm đối với những chỉ thị
(United Nations, 2007). Đã có sự phát triển
và áp dụng nhiều “khung hoạt động” khác

128 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

nhau mà những khác biệt giữa chúng là
các phương thức theo đó những người xây
dựng (“khung hoạt động”) đã khái quát hóa
các phương hướng chủ yếu của sự phát
triển bền vững, những liên hệ qua lại giữa
các phương hướng này, và cũng là phương
thức mà những người xây dựng tổ hợp các


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
vấn đề cần được đo lường, và các khái niệm
mà theo đó những người xây dựng biện
minh cho việc lựa chọn và tích hợp các chỉ
thị. Theo đó, đã có các “khung hoạt động”
như là “khung hoạt động dựa theo lực dẫn
động – trạng thái – đáp ứng” (Driving forcestate-response frameworks), “khung hoạt

động dựa trên vấn đề (hoặc chủ đề)” (Issueor theme-based frameworks), “khung nguồn
lực” (Capital frameworks), “khung kế toán”

Số 2/2017
(Accounting frameworks); đồng thời với việc
áp dụng chỉ số tích hợp như là dấu chân sinh
thái (Ecological Footprint), chỉ số bền vững
về môi trường (Environmental Sustainability
Index - ESI) và chỉ số năng lực môi trường
(Environmental Performance Index - EPI),
hoặc những tiếp cận chỉ báo khác (nằm
ngoài khung hoạt động chính thống) (United
Nations, 2007). Một ví dụ khung hoạt động
được minh họa dưới đây:

Hình 1. Khung hoạt động theo Áp lực – Tình trạng/trạng thái – Đáp ứng
Nguồn: ODEC, 1998; dẫn theo Singh và cộng sự, 2012

Theo nguyên tắc, mỗi chủ đề bao gồm
bao gồm nhiều chủ đề phụ được thể hiện bởi
các chỉ thị cốt lõi và cả những chỉ thị mở rộng
khác. Điều cần lưu ý là bản chất đa chiều và
tính kết hợp của sự phát triển bền vững nên
việc phân nhóm các chủ đề/chủ đề phụ luôn
phải được cân nhắc để đo lường tiến trình
hướng đến phát triển bền vững qua hàng loạt
chủ đề được thể hiện bởi những chỉ số. Ví dụ
chủ đề “đại dương, biển và bờ biển” thể hiện
theo 3 chủ đề phụ là “vùng ven bờ, nghề cá
và môi trường biển”, được cụ thể hóa bởi các

chỉ thị cốt lõi là phần trăm dân số sống ở các
khu vực ven bờ đối với chủ đề phụ “vùng ven
bờ”, tỷ lệ trữ lượng cá trong phạm vi giới hạn
an toàn về mặt sinh học đối với chủ đề phụ
“nghề cá” và tỷ lệ diện tích đại dương được
bảo vệ đối với chủ đề phụ “môi trường biển”.
Tuy nhiên, chủ đề này hiển nhiên sẽ được thay
đổi (hoặc loại trừ) đối với các quốc gia không
có biển. Theo cách tiếp cận như vậy, các chỉ số
như là “Chỉ số hành tinh sống” (Living Planet

Index - LPI), Dấu chân sinh thái (Ecological
Footprint - EF), Chỉ số phát triển đô thị (City
Development Index - CDI), Chỉ số phát triển
con người (Human Development Index - HDI),
Chỉ số bền vững về môi trường (Environmental
Sustainability Index - ESI), Chỉ số năng lực môi
trường (Environmental Performance Index EPI), Chỉ số khả năng tổn thương môi trường
(Environmental Vulnerability Index - EVI),
“Chỉ số phúc lợi xã hội bền vững” (Index of
Sustainable Economic Welfare - ISEW), “Chỉ
số đời sống tốt” (Well Being Index - WI), “Chỉ số
lợi nhuận thật” (Genuine Savings Index - GS)
hay “Tổng sản phẩm quốc nội thích ứng môi
trường” (Environmental Adjusted Domestic
Product - EDP),… cũng được lựa chọn áp
dụng trong nhiều trường hợp đánh giá thực
tế [9].
Tương tự như Bộ chỉ thị của Hội đồng
phát triển bền vững Liên Hiệp Quốc (CSD),

Bộ chỉ số thịnh vượng hay Thước đo độ bền
vững BS (Barometer of sustainability hay
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 129


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
BSI - Barometer of Sustainability Index) do
Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và
Tài nguyên Thiên nhiên (International Union
for Conservation of Nature and Natural
Resources – IUCN) đề xuất năm 1994 nhằm
mục đích so sánh các địa phương, vùng [2]
hoặc quốc gia [7]. Thước đo này bao gồm
88 chỉ thị, được kết hợp lại thành 2 nhóm là
những chỉ thị thịnh vượng nhân văn và các
chỉ thỉ phúc lợi sinh thái. Chỉ số thịnh vượng

Số 2/2017
nhân văn bao gồm một tập hợp các đo lường
về sức khoẻ và dân số, sự giàu có, kiến thức
và văn hoá, cộng đồng và sự bình đẳng. Chỉ
số phúc lợi sinh thái gồm một tập hợp các
đo lường về đất đai, nguồn nước, không khí,
đa dạng sinh học và việc sử dụng nguồn lợi
sinh vật.
Tổ hợp các chỉ thị đơn để hình thành chỉ thị
tổng hợp thể hiện theo thứ bậc từ trên xuống
như sau:

Hình 2. Sơ đồ liên hệ thứ bậc giữa các chỉ thị đơn và chỉ thị tổng hợp

Nguồn: [3]

Bảng 2. Các yếu tố phúc lợi sinh thái và xã hội - nhân văn
Phúc lợi sinh thái

Tỷ trọng

Phúc lợi xã hội – nhân văn

Tỷ trọng

Đất

20

Sức khỏe cộng đồng

20

Nước

20

Việc làm/thu nhập

20

Không khí

20


Học vấn

20

Đa dạng sinh học

20

Trật tự an toàn xã hội

20

Sử dụng hợp lý tài nguyên

20

Bình đẳng xã hội

20

Tổng tỷ trọng

100

Tổng tỷ trọng

100

Nguồn: [2]


Trong trường hợp hiệu quả tốt nhất, mức

(CSD) đối với các quốc gia, có nhiều tiêu chí

lựa chọn các chỉ thị được xác định bởi kết quả
của tập hợp chỉ thị và mục tiêu bao quát của
các chỉ thị (theo CSD) phải thể hiện chính sách
ở cấp quốc gia, phù hợp với chiến lược phát
triển bền vững cấp quốc gia. Do vậy, cần điều
chỉnh các chỉ thị phát triển bền vững của CSD
nhằm thích ứng với bối cảnh của quốc gia.
Việc điều chỉnh này dựa trên cơ sở một ma
trận 2 chiều đơn giản với sự có sẵn và tương

để lựa chọn các chỉ thị. Gợi ý ban đầu là việc

thích của dữ liệu (Hình 3).

đạt được của mỗi yếu tố là 20. Tác động môi
trường xấu sẽ làm giảm tỷ trọng các tham số
môi trường cho đến 0.
2. Thực tiễn áp dụng
Trong việc áp dụng những chỉ thị phát triển
bền vững của Ủy ban phát triển bền vững

130 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 2/2017

Sự có sẵn của dữ liệu

Tính tương thích của dữ liệu
Tương thích

Chỉ thị liên
quan tương
thích

Tương thích
nhưng không
có sẵn

Không tương
thích

Có sẵn

(được sử
dụng)

(phải điều
chỉnh)

(phải đồng
nhất)


(phải loại bỏ)

Có sẵn mang tính
tiềm năng

(được sử
dụng)

(phải điều
chỉnh)

(phải đồng
nhất)

(phải loại bỏ)

Dữ liệu liên quan
có sẵn

(phải điều
chỉnh)

(phải điều
chỉnh)

(phải đồng
nhất)

(phải loại bỏ)


(phải loại bỏ)

(phải loại bỏ)

(phải loại bỏ)

(phải loại bỏ)

Không có sẵn

Hình 3. Ma trận điều chỉnh các chỉ số phát triển bền vững
Nguồn: [14]

Một vấn đề cần lưu ý rằng các chỉ thị phát
triển bền vững được xây dựng thông qua tiến
trình tương tác và đối thoại của rất nhiều các
bên liên quan (stakeholder) bao gồm những
đại biểu chính phủ, các chuyên gia kỹ thuật
và những đại diện quần chúng. Tiến trình này
cho phép những người tham dự xác định khả
năng bền vững theo quan điểm của mình,
cân nhắc các khía cạnh tương ứng mang tính
địa phương cũng như những hệ thống giá trị
của chính họ [14]. Trong thực tế, vấn đề này
thường không dễ dàng do nhận thức về những
khái niệm liên quan đến hệ thống chỉ thị - chỉ
số thường không thống nhất, đặc biệt trong

bối cảnh thiếu các nghiên cứu về thống kê
môi trường [4].

Theo Chế Đình Lý (2006), có thể hiểu chỉ
thị (indicator) “là một tham số (parameter) hay
“số đo” (metric) hay một giá trị kết xuất từ tham
số, dùng cung cấp thông tin, mô tả tình trạng
của một hiện tượng/môi trường/khu vực. Nó
là thông tin khoa học về tình trạng và chiều
hướng của các thông số liên quan môi trường”.
Các chỉ thị này kết xuất từ các biến số, dữ liệu
trong khi chỉ số (index) là “một tập hợp của các
tham số hay chỉ thị được tích hợp hay nhân với
trọng số” [4].

Hình 4. Minh họa các mức thông tin trong hệ thống chỉ thị - chỉ số đánh giá phát triển

Nguồn: Phỏng theo [4]
(1) Dữ liệu thô (các phép đo – Measurements) - (2) Số đo (độ đo – Metric) - (3) Chỉ thị (Indicator) - (4) Chỉ số (Index)

Những trình bày trên đây cho thấy một vấn
đề quan trọng khác trong việc đánh giá tính
tính bền vững của sự phát triển là xây dựng
các chi thị đơn. Nguyên tắc xây dựng chỉ thị

đơn (Indicator) cần bảo đảm chỉ thị đơn là một
phép đo khách quan và phải được lượng hóa.
Đồng thời với sự phản ánh bản chất cốt lõi của
một thành phần trong hệ thống, việc thu thập
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 131


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

số liệu để tính toán phải thuận tiện, dễ dàng,
nhanh chóng và ít tốn kém. Đối với Việt Nam,
Chiến lược Phát triển bền vững giai đoạn 2011
– 2020 đã xác định các chỉ tiêu tổng hợp bao
gồm GDP xanh (Green GDP), Chỉ số phát
triển con người (HDI – Human Development
Index), Chỉ số bền vững về môi trường (ESI –
Environmental Sustainability Index) [6]. Đi kèm
với các chỉ tiêu tổng hợp này là 10 chỉ tiêu về
kinh tế, 10 chỉ tiêu về xã hội và 7 chỉ tiêu về tài
nguyên và môi trường. Tuy nhiên, bản chiến
lược đã nêu không trình bày cơ sở để lựa chọn
các chỉ tiêu.
Tương tự bộ chỉ số thịnh vượng (BS) ([2];
dẫn theo Nath và Talay, 1998) đã đề xuất chỉ số
bền vững địa phương LSI (Local Sustainability
Index) với 5 chỉ thị có tỷ trọng số khác nhau
bao gồm: I1: Tỷ lệ trẻ vị thành niên không phạm
pháp, tỷ trọng C1=2; I2: Tỷ lệ trẻ sơ sinh không
tử vong, tỷ trọng C2=2; I3: Tỷ lệ số dân được
sử dụng nước sạch, tỷ trọng C3=4; I4: Tỷ lệ số
ngày không bị ô nhiễm không khí trong năm,
tỷ trọng C4=3; I5: Tỷ lệ diện tích đất không bị
ô nhiễm, tỷ trọng C5=1. Có thể thấy rằng chỉ
số LSI lồng ghép được các yếu tố phúc lợi –
kinh tế xã hội và phúc lợi sinh thái và cách tính
đơn giản, tuy nhiên Nguyễn Đình Hòe (2006)
đã chỉ ra nhiều nhược điểm của chỉ số này như
là việc khó thu nhập các chỉ thị I4và I5 đối với
những nước đang phát triển do thường không

có cơ sở dữ liệu về môi trường, đối với những
cộng đồng có mức phát triển cao thì chỉ thị I2
thường rất thấp, chỉ thị I1 có thể không nhạy
cảm đối với một số cộng đồng miền núi thuần
phát,… Trong trường hợp áp dụng thước đo độ
bền vững (BSI), có thể đánh giá mức đáp ứng
(thỏa mãn) về sinh thái và nhân văn. Dù vậy,
các phương án phát triển bền vững trong việc
áp dụng thước đo này cần được so sánh trên
cơ sở cân nhắc hiệu quả của từng phương án
về hiệu quả phúc lợi sinh thái và phúc lợi xã
hội – nhân văn [2].
Phùng Khánh Chuyên (2009) khi nghiên
cứu sự phát triển của phường Thọ Quang –
quận Sơn Trà – thành phố Đà Nẵng theo hai

132 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 2/2017
bộ chỉ số BSI và LSI đã cho thấy rằng cả hai
bộ chỉ số đều có thể áp dụng được cho các địa
phương. Tuy nhiên, chỉ số BSI thể hiện rõ sự
chênh lệch giữa hai nhóm phúc lợi sinh thái và
phúc lợi nhân văn với mức độ xem xét các thỉ
thị như nhau trong khi chỉ số LSI ưu tiên xem
xét một vài chỉ thị và không thể hiện được sự
chênh lệch giữa 2 nhóm phúc lợi [1].
Bên cạnh việc đánh giá theo đơn vị địa lý,
cách tiếp cận theo cộng đồng cũng thường
được áp dụng trong các nghiên cứu liên

quan đến phát triển. Chương trình phát triển
Liên hiệp quốc (United Nations Development
Programme – UNDP, 2010) đã đề xuất các chỉ
số đánh giá sự phát triển cộng đồng, ví dụ Chỉ
số phát triển con người (Human Development
Index – HDI),… hoặc đánh giá những khía cạnh
không thành công của việc phát triển như là
Chỉ số nghèo (Human Poverty Index – HPI),…
Tuy nhiên, phát triển cộng đồng là vấn đề đa giá
trị, phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp đánh
giá cũng như cách nhìn nhận của người đánh
giá (Nguyễn Đình Hòe, 2006). Bên cạnh đó,
dù đánh giá theo phương thức nào thì những
chỉ số trên đây cũng chỉ thiên về các phúc lợi
kinh tế và nhân văn mà thiếu những chỉ thị
phúc lợi sinh thái. Do vậy, Chỉ số tổn thương
sinh kế (Livelihood Vulnerability Index - LVI)
đã được đề xuất bởi Hahn và cộng sự (2009)
nhằm kết hợp cả 3 khía cạnh kinh tế, xã hội và
môi trường trong cách tiếp cận đánh giá theo
cộng đồng [10].
Trong khuôn khổ Chương trình Tây
Nguyên 3, áp dụng phương pháp chuyên gia
(phương pháp Delphi) bao gồm các nhà quản
lý ở trung ương và địa phương, những nhà
khoa học hàng đầu nghiên cứu về phát triển
bền vững tại Việt Nam, và những chuyên gia
đang làm việc cho các tổ chức quốc tế tại Việt
Nam (để mời tham vấn), đề tài “Nghiên cứu
xây dựng bộ chỉ tiêu phát triển bền vững về các

lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường các tỉnh
Tây Nguyên” đã xây dựng bộ chỉ tiêu phát triển
bền vững về các lĩnh vực kinh tế, xã hội và
môi trường các tỉnh Tây Nguyên [8]. Bộ chỉ tiêu


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
gồm 77 chỉ tiêu cho cấp vùng, 70 chỉ tiêu cấp
tỉnh và 49 chỉ tiêu cấp huyện nhằm đánh giá
tổng thể quá trình phát triển bền vững khu vực
Tây Nguyên một cách toàn diện với 13 chủ đề,
phù hợp với thông lệ quốc tế, quốc gia và đặc
thù của các tỉnh Tây Nguyên. Lĩnh vực kinh tế
gồm 3 chủ đề: phát triển kinh tế, quan hệ kinh
tế quốc tế, phương thức sản xuất và tiêu dùng.
Lĩnh vực xã hội gồm 5 chủ đề: mức sống, quản
trị, sức khoẻ, giáo dục, dân số. Lĩnh vực môi
trường gồm 5 chủ đề: thiên tai, khí quyển, đất
đai, tài nguyên nước ngọt, đa dạng sinh học.
Gần đây, đã có một sự chuyển dạng quan
trọng của Khung Các mục tiêu phát triển bền
vững (Sustainable Development Goals (SDGs)
framework), là phương thức mà theo đó nó kết
hợp các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường
của sự phát triển bền vững qua những mục
tiêu và mục đích (goals and targets) với các
kết nối qua lại quan trọng [12]. Dù vậy, việc tiếp
cận, xây dựng bộ chỉ số và lựa chọn các chỉ thị
cũng như thiết kế hệ thống đánh giá (cho điểm)
đối với quá trình phát triển rất dễ vi phạm tính

khách quan. Do đó, để đánh giá đúng quá trình

Số 2/2017
phát triển, việc bảo đảm tính khách quan, dựa
trên khoa học trong việc tiếp cận, lựa chọn bộ
chỉ số, các chỉ thị và thiết kế hệ thống đánh giá
trở nên cần thiết.
3. Nhu cầu nghiên cứu
Đánh giá phát triển bền vững là công tác
chuyên biệt đòi hỏi không chỉ nhiều nỗ lực mà
còn kinh nghiệm của những người chuyên làm
về công tác đánh giá. Yêu cầu là công tác này
luôn đòi hỏi tính khách quan trong việc tiếp cận,
lựa chọn bộ chỉ số và các chỉ thị cũng như thiết
kế hệ thống đánh giá nhằm phù hợp với điều
kiện cụ thể ở mỗi quy mô. Thực tế cho thấy
có không nhiều các nghiên cứu đánh giá riêng
cho từng ngành, đặc biệt trong điều kiện Việt
Nam, do vấn đề phát triển quá đa dạng, đòi hỏi
việc đánh giá độ bền vững cho từng ngành,
từng lĩnh vực phát triển cần phải được xây
dựng với phương pháp luận đặc trưng. Theo
đó, đồng thời với những nỗ lực phát triển, cần
có nhiều nghiên cứu về vấn đề đánh giá tính
bền vững, nhằm hỗ trợ việc ra quyết định và
hạn chế tối đa các tác động bất lợi về cả ba
khía cạnh: kinh tế – xã hội – sinh thái.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt

1.

Phùng Khánh Chuyên, 2009. Sử dụng phương pháp kiến tạo chỉ số BSI và LSI đánh giá mức độ bền vững của
sự phát triển ở phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tạp chí Khoa học Công nghệ, Số 2(31).
Đại học Đà Nẵng.

2.

Nguyễn Đình Hòe, 2006. Môi trường và phát triển bền vững. NXB Giáo dục.

3.

Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, 2007. Chương 3 - Công cụ tiếp cận hệ thống ứng dụng trong nghiên cứu môi
trường và phát triển. Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu môi trường và phát triển (trang 5). NXB Đại học quốc
gia Hà Nội.

4.

Chế Đình Lý, 2006. Hệ thống chỉ thị và chỉ số môi trường để đánh giá và so sánh hiện trạng môi trường giữa các
thành phố trên lưu vực sông. Science and Technology Development, Enviroment and Resources, Vol.9.

5.

Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Số: 55/2014/QH13), 2014. Luật Bảo vệ môi trường.

6.

Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 133



Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 2/2017

7.

Phạm Thị Hồng Vân, 2010. Giới thiệu một số bộ chỉ tiêu đánh giá bền vững. Bộ môn Nghiên cứu Chiến lược và
Chính sách – Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. (.
vn/dspr/news/newsdetail.asp?targetID=2497; truy cập 25/8/2016)

8.

Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2014. Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững các tỉnh Tây Nguyên
về kinh tế, xã hội và môi trường. ( truy cập 3/9/2016)
Tiếng Anh

9.

Christoph Böhringer and Patrick Jochem, 2006. Discussion Paper No. 06-073 - Measuring the Immeasurable:
A Survey of Sustainability Indices. Centre for European Economic Research.

10. Micah B. Hahn, Anne M. Riederer, Stanley O. Foster, 2009. The Livelihood Vulnerability Index: A pragmatic
approach to assessing risks from climate variability and change-A case study in Mozambique. Global Environ.
Change. (in press - doi:10.1016/j.gloenvcha.2008.11.002)
11. Tomas Hak, Bedrich Moldan, Arthur Lyon Dahl, 2007. Sustainability Indicators – A Scientific Assessment.
Island Press.
12. IUCN, 2015. IUCN recommendations regarding indicators for sustainable develpment goals.
13. Rajesh Kumar Singh, H. R. Murty, S. K. Gupta, A. K. Dikshit, 2012. An overview of sustainability assessment

methodologies. Ecological Indicators 15, 282.
14. United Nations, 2007. Indicators of sustainable development: Guidelines and Methodologies. Third Edition.

134 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



×