Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện yên thế (tỉnh bắc giang) thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.11 MB, 146 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG HỒNG SƠN

SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
HUYỆN YÊN THẾ (TỈNH BẮC GIANG) THẾ KỈ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG HỒNG SƠN

SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
HUYỆN YÊN THẾ (TỈNH BẮC GIANG) THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS . ĐÀM THỊ UYÊN

THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



/>

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nghiên cứu là của riêng tôi.
Các số liệu kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả

Đặng Hồng Sơn

Xác nhận

Xác nhận

của khoa chuyên môn

của Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

1

/>

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Đàm

Thị Uyên đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa
học để hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong ban chủ nhiệm khoa Sử, khoa
Sau Đại học - trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng các thầy cô đã nhiệt tình
giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn luôn động
viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả
Đặng Hồng Sơn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .............................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................ v
DANH MỤC CÁC HÌNH............................................................................................. vi
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài............................4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ...............................................................4
5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................... 5
6.
Cấu
trúc
đề
............................................................................................................5


tài

Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN THẾ - TỈNH BẮC GIANG................ 6
1.1.

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ........................................................................ 6

1.2. Dựng đặt và diên cách .......................................................................................... 13
1.3. Đặc điểm dân cư và các dân tộc ........................................................................... 15
1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội và văn hóa ................................................. 23
1.4.1. Tình hình chính trị - xã hội ................................................................................ 23
1.4.2. Tình hình văn hóa .............................................................................................. 24
1.5. Khởi nghĩa Yên Thế.............................................................................................. 36
Chương 2 SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT HUYỆN YÊN THẾ THỀ KỈ XIX................. 46
2.1. Yên Thế qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805) .....................................................46
2.1.1. Vài nét về tình hình ruộng đất huyện Yên Thế trước thế kỉ XIX ......................47
2.1.2. Tình hình ruộng đất huyện Yên Thế theo tư liệu địa bạ Gia Long 4
(1805)..........48
2.2. Tô thuế .................................................................................................................. 69
Chương 3: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN YÊN THẾ THẾ KỈ XIX ......... 74
3.1. Trồng trọt .............................................................................................................. 74


3.2. Chăn nuôi .............................................................................................................. 90


3.3. Kinh tế tự nhiên .................................................................................................... 92
3.4. Tín ngưỡng nông nghiệp....................................................................................... 95
KẾT LUẬN............................................................................................................... 108

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iv

/>

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

HN

: Hà Nội

KHXH

: Khoa học xã hội

M.s.th.t.p

: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Thí dụ: 30 mẫu 6 sào 2 thước 2 tấc 2 phân sẽ được viết tắt là 30.6.2.2.2
Nxb

: Nhà xuất bản

PTS


: Phó tiến sĩ

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TTLTQG I

: Trung tâm lưu trữ quốc gia I

UBND

: Ủy ban nhân dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

4

/>

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc của huyện Yên Thế.............................................. 15
Bảng 2.1. Thống kê địa bạ huyện Yên Thế năm Gia Long 4 (1805) ......................... 48
Bảng 2.2. Tình hình sở hữu ruộng tư ở huyện Yên Thế năm 1805 ............................ 50
Bảng 2.3. Quy mô sở hữu ruộng tư theo địa bạ .......................................................... 52
Bảng 2.4: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất tư của các huyện Yên Thế, Ngân
Sơn, Phú Bình............................................................................................ 52
Bảng 2.5. Bình quân sở hữu và bình quân thửa .......................................................... 53
Bảng 2.6. Phân bố chủ sở hữu tư điền theo địa bạ Gia Long (1805)......................... 55
Bảng 2.7. Tình hình giới tính trong sở hữu tư nhân năm 1805 .................................. 55

Bảng 2.8. Diện tích ruộng đất của các chức sắc năm (1805)...................................... 57
Bảng 2.9. Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
..... 58
Bảng 2.10. Quy mô sở hữu theo các nhóm họ năm 1805 ........................................... 61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

5

/>

DANH MỤC CÁC HÌNH
Biểu đồ 2.1: Tình hình sở hữu ruộng đất của Yên Thế năm 1805 .............................. 49
Biểu đồ 2.2: Sở hữu ruộng đất theo nhóm họ ............................................................. 62
Biểu đồ 2.3: Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ lớn .................................................. 63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN vi

/>

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta dưới chế độ phong kiến, nông nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế. Vấn đề ruộng đất cùng với các vấn đề khác như thủy lợi, tập quán sản
xuất… được coi là những yếu tố kinh tế cơ bản của quốc gia…, là thứ tài sản vô giá
của quốc gia, thiêng liêng và trường tồn cùng với thời gian. Các vương triều phong
kiến bằng cách trực tiếp hay gián tiếp đều cố gắng nắm lấy ruộng đất và thông qua
chính sách ruộng đất của các triều đại sẽ giúp chúng ta một bức tranh toàn cảnh về xã
hội Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp giúp chúng ta hiểu

biết chính sách về ruộng đất, thực trạng nông nghiệp của từng địa phương. Đồng thời,
giúp ta lý giải thêm những vấn đề liên quan đến sản xuất, tập quán sản xuất, sinh hoạt,
văn hóa, các mối quan hệ xã hội cũng như sự phân hóa giai cấp trong làng xã của xã
hội Việt Nam. Chính sách ruộng đất sẽ góp phần phản ánh tình hình kinh tế xã hội của
nước ta qua các triều đại khác nhau, từ đời sống nhân dân cũng như giai cấp địa chủ
phong kiến, cho đến tình hình văn hóa xã hội diễn ra và biến đổi thực tế như thế nào.
Thông qua chính sách ruộng đất dưới các triều đại sẽ là một minh chứng cụ thể, sắc nét
phản ánh tình hình của quốc gia, vai trò của nhà nước đối với kinh tế, xã hội. Đặc biệt
với giai cấp nông dân, đồng thời cũng cho thấy bản chất bóc lột mang tính triệt để của
giai cấp phong kiến và sự bần cùng hóa của nông dân dưới các triều đại.
Năm 1428, sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi đã lệnh cho các địa
phương tiến hành điều tra về tình hình sở hữu ruộng đất, kê khai số ruộng đất trong cả
nước trong một năm và việc này được tiếp tục qua các triều vua Lê Thánh Tông, Lê
Hiến Tông, cả thời Lê Mạt. Đến nhà Nguyễn, đặc biệt dưới thời Minh Mệnh về cơ
bản đã lập xong địa bạ toàn quốc.
Địa bạ là một nguồn tư liệu rất phong phú và quý giá để nghiên cứu nông thôn
và cả đô thị Việt Nam trên nhiều phương diện: Tình hình khai phá ruộng đất, đặc điểm
của nông nghiệp cổ truyền; chế độ sở hữu ruộng đất; tình trạng chiếm hữu ruộng đất
và sự phân hoá xã hội ở nông thôn, kết cấu xã hội và các giai tầng; thống kê các dòng
họ và sự phân bố theo các khu vực; bộ máy hành chính và quản lý từ cấp cơ sở...
Bước sang thế kỉ XIX, tình hình đất nước có những chuyển biến mạnh mẽ:
Nhà Nguyễn được thành lập (1802). Trong những bước thăng trầm của lịch sử dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

1

/>

tộc nói chung cũng như lịch sử của huyện Yên Thế (Bắc Giang) nói riêng có những
thay đổi trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nơi đây đã được các nhà

nghiên cứu về các lĩnh vực: quản lý nhà nước, địa lý, lịch sử, văn hóa, xã hội nghiên
cứu và tìm hiểu. Qua nghiên cứu bước đầu chúng tôi nhận thấy rằng, những vấn đề
như: Địa chính, địa bạ, kinh tế, phong tục, tập quán... chưa được nghiên cứu một cách
có hệ thống và toàn diện.
Xuất phát từ những nhận định trên, với mong muốn tìm hiểu quê hương góp
phần cụ thể cho bức tranh lịch sử dân tộc, đóng góp sức mình vào việc “đánh thức
quá khứ dậy” để phục vụ cho công cuộc xây dựng địa phương ngày nay, tôi quyết
định chọn đề tài “Sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiêp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc
Giang) thế kỉ XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc với các
chủ đề khác nhau từ việc tìm hiểu tiến trình lịch sử từ nguồn gốc đến nay, tình hình
phát triển kinh tế, phân bố dân cư cho đến những biến đổi văn hóa dân tộc ở các địa
phương. Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến từng
lĩnh vực hoặc một khía cạnh nào đó của lịch sử địa phương.
Tình hình ruộng đất hoặc kinh tế nông nghiệp từ lâu đã được các sử gia nghiên
cứu. Có thể kể tới các tác phẩm tiêu biểu đề cập tới vấn đề nông nghiệp và ruộng đất
như: Lịch triều hiến chương loại chí, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ, Đại Nam
nhất thống chí, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, Đồng Khánh dư địa chí….
Ngay từ thời phong kiến , một số nhà sư học đã nói tới xã hội , phong tục tập
quán của các dân tộc thiểu số , trong đó có các dân tộc đang sinh sống tại đia phương .
Trước hết, phải kể đến cuốn “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc Sư Quán triêu
Nguyễn, Nxb Thuận Hóa - Huế, xuất bản năm 1992, đề cập một vài nét vị trí địa lý ,
hình thế núi sông, phong tục tập quán của huyện [32].
Tác phẩm “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quy Đôn , Nxb Khoa học xã hội, xuất
bản năm 1977 [8]. Nội dung cuốn sách đê cập đến văn hóa của người Tày , Nùng, và
cung cấp cho chúng ta nhiều chi tiết về các trấn Hưng Hóa, Tuyên Quang…
Vũ Huy Phúc (1979), trong cuốn Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XIX, Nxb. Khoa học xã hội, đã hệ thống hóa những chính sách lớn về ruộng đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


2

/>

của nhà Nguyễn, thiết chế và kết cấu ruộng đất được hình thành từ chính sách đó,
cũng như tác động và hiệu quả của nó đối với yêu cầu phát triển của lịch sử [29].
Trương Hữu Quýnh trong công trình gồm 2 tập“Chế độ ruộng đất ở Việt Nam
thế kỉ XI - XVIII” (1982 và 1983), tác giả đã phác ra những nét chính về sự tiến triển
của chế độ ruộng đất ở nước ta từ thế kỉ XI đến thế kỉ XVIII, qua đó bước đầu vạch ra
xu thế phát triển chủ yếu cũng như tính chất kinh tế - xã hội của nó [38]. Bên cạnh
việc sử dụng những tư liệu trong chính sử, tác giả còn huy động một nguồn tư liệu địa
phương khá phong phú (bao gồm văn bia, gia phả hương ước…). Vì vậy, chuyên
khảo này còn có ý nghĩa trong việc cung cấp những tư liệu tham khảo có giá trị về
vấn đề sở hữu ruộng đất dưới thời phong kiến.
Tác phẩm “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều
Nguyễn” (1997), do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên đã nghiên cứu một
cách cụ thể về tình hình ruộng đất chủ yếu thông qua tài liệu địa bạ [39]. Bên cạch đó
tác phẩm còn nêu được các chính sách về nông nghiệp đặc biệt là các chính sách liên
quan đến ruộng đất của triều Nguyễn.
Nghiên cứu các chính sách về nông nghiệp, đặc biệt là chính sách về ruộng đất
còn có nhiều cuốn sách, luận án, bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Có thể kể
đến: Vũ Văn Quân: “Chế độ ruộng đất - kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XIX” (1991), Luận án PTS Sử học, Hà Nội [30]; Vũ Văn Quân: “Khái quát về tình
hình ruộng đất và giải quyết vấn đề ruộng đất của Nhà nước nửa đầu thế kỷ XIX”
(1993), Nghiên cứu kinh tế, số 194 [31]; Vũ Minh Giang: “Sự phát triển của các hình
thức sở hữu ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” (1998), Tạp chí
khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 3 [11].
Ngoài ra, trong phạm vi nghiên cứu địa phương đã có một số công trình xuất
bản thành sách, có đề cập tới vấn đề đang được nghiên cứu như: Lịch sử Đảng bộ

huyện Yên Thế, xuất bản năm 1996 do ban chấp hành Đảng bộ huyện Yên Thế xuất
bản. Hay di sản văn hóa Yên Thế lễ hội dân gian, xuất bản năm 2009… Đây là những
tác phẩm nghiên cứu trực tiếp về huyện Yên Thế, là nguồn tư liệu để nghiên cứu kết
hợp làm nổi bật vấn đề.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu tìm hiểu “Sở hữu
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) thế kỉ XIX”. Do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

3

/>

vậy, vẫn còn nhiều vấn đề sử học còn bỏ ngỏ như về chế độ sở hữu ruộng đất, thành
phần dân tộc, tình hình kinh tế nông nghiệp... Đề tài của tác giả sẽ giải quyết các
nhiệm vụ đó. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn xem thành quả của nhà nghiên cứu đi trước
là những ý kiến gợi mở quý báu giúp chúng tôi có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên
cứu của mình.
3. Mục đích, đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Trước hết bản thân là một người dân địa phương có mong muốn
tìm hiểu về quê hương trong lịch sử và nhằm góp thêm cơ sở khoa học về cư dân
miền núi nói chung và phía Bắc nói riêng lâu nay còn ít người quan tâm. Đồng thời,
việc tìm hiểu nghiên cứu này mong muốn góp phần nêu lên một cách chân thực, khoa
học về một thời kì lịch sử trong quá khứ của mảnh đất cũng như con người Yên Thế.
Ngoài ra, còn có thể bổ sung thêm nguồn tư liệu góp phần lí giải một số vấn đề lịch
sử Việt Nam trung đại: Lịch sử đấu tranh và bảo vệ biên cương, bảo vệ chính quyền
quốc gia dân tộc, mối quan hệ giữa các dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển
của đất nước, góp phần lí giải về cơ sở xuất phát cho những chính sách của Đảng và
nhà nước ta....
- Đối tượng: Ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Thế (Bắc Giang)
thế kỉ XIX.

- Nhiệm vụ: Bước đầu nghiên cứu tương đối toàn diện và đầy đủ về các mặt:
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện Yên Thế nửa đầu thế kỉ XIX để qua đó
phục dựng lại một cách có hệ thống về sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Yên Thế.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Trên cơ sở 37 tư liệu địa bạ được lập vào năm Gia Long 4
(1805), tác giả đã cố gắng phục dựng lại một cách khoa học về sở hữu ruộng đất về
kinh tế nông nghiệp của huyện Yên Thế thế kỉ XIX.
Phạm vi không gian: Huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) hồi thế kỉ XIX.
Phạm vi thời gian: Thế kỉ XIX.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu:
+ Tài liệu chung: Các cuốn sách cổ có đề cập đến nội dung nghiên cứu như:
Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

4

/>

Đồng Khánh dư địa chí, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

5

/>

Bên cạnh đó là các tài liệu nghiên cứu về ruộng đất như: Chế độ ruộng đất ở
Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt

Nam của Vũ Huy Phúc, Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và P.Brocheux, Nghiên
cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu ... Và một số tác phẩm có đề cập đến
địa bàn nghiên cứu như: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX, lịch sử Đảng bộ huyện
Yên Thế tỉnh Bắc Giang và địa chí Bắc Giang, trong các cuốn này có ghi rất chi tiết
về điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán... của huyện Yên Thế.
+ Nguồn tư liệu địa bạ: 37 địa bạ của huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) có niên
đại
Gia Long 4 (1805) hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I Hà Nội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp hồi cố, điền dã, phương pháp lịch sử và phương
pháp lôgíc để nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp, phân loại. Đặc biệt, khâu giám định, xử lý số liệu, so sánh, đối chiếu
với các nguồn tư liệu khác có liên quan cũng được chúng tôi sử dụng nhằm mục đích
làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài là sự tổng hợp các tài liệu có đề cập đến huyện Yên Thế về: Điều kiện
tự nhiên, đặc điểm dân cư và quá trình tộc người, đặc điểm kinh tế…
- Dịch 37 tập địa bạ huyện Yên Thế viết bằng chữ Hán góp phần làm rõ tình
hình ruộng đất của huyện nửa đầu thế kỉ XIX. Trên cơ sở phân tích địa bạ, đề tài tìm
hiểu phong tục, tập quán liên quan đến ruộng đất và nông nghiệp của đồng bào các
dân tộc huyện Yên Thế thế kỉ XIX
- Học hỏi kinh nghiệm của cha ông trong việc quản lý và khai thác đất đai qua
đó cung cấp thêm tư liệu giúp địa phương phát triển kinh tế nông nghiệp có hiệu quả
nhất, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới.
6. Cấu trúc đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung được chia làm ba
chương. Chương 1: Khái quát huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang).
Chương 2: Sở hữu ruộng đất huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) thế kỉ XIX.
Chương 3: Kinh tế nông nghiệp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) thế kỉ XIX.
Ngoài ra, còn có tài liệu tham khảo, phần phụ lục và bản đồ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

6

/>

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN THẾ - TỈNH BẮC GIANG
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Yên Thế là một huyện vùng núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc Giang. Địa
giới của huyện vào nửa đầu thế kỉ XIX đã được sách Đại Nam nhất thống chí chép lại
như sau: “Đông tây cách nhau 32 dặm, nam bắc cách nhau 42 dặm, phía đông đến
giang phận huyện Bảo Lộc 8 dặm, phía tây đên địa giới huyện Hiệp Hòa phủ Thiên
Phúc 24 dặm, phía nam đến địa giới huyện Yên Dũng 9 dặm, phía bắc đến địa giới
huyện Hữu Lũng 33 dặm” [32, tr.74].
Trải qua những biến động về lịch sử hành chính, địa giới của huyện cũng có
những thay đổi. Ngày nay, Yên Thế nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang, giáp giới
với hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn. Phía Đông Nam huyện Yên Thế giáp
huyện Lạng Giang, ranh giới tự nhiên là con sông Thương một sông lớn trong hệ
thống sông Thái Bình, phía Nam và Tây Nam giáp huyện Tân Yên, đều của tỉnh Bắc
Giang. Phía Tây và phía Bắc Yên Thế giáp các huyện của tỉnh Thái Nguyên, kể từ
Tây lên Bắc lần lượt là: Phú Bình, Đồng Hỷ, Võ Nhai. Toàn bộ phía Đông Yên Thế
giáp với huyện Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Chảy qua giữa huyện, theo hướng
Đông Nam là con sông Sói, một nhánh nhỏ đầu nguồn của sông Thương.
Với vị trí địa lý này, Yên Thế luôn giữ vai trò là vùng đất hiểm yếu của tỉnh Bắc
Giang tạo điều kiện thuận lợi thu hút cư dân tới đây sinh sống và lập nghiệp. Đồng
thời, đây là yếu tố thuận lợi cho sự tiếp xúc, giao thoa văn hóa giữa đồng bằng và
miền núi.

- Điều kiện tự nhiên
Yên Thế có địa hình đồi núi trung du, thuộc vùng Đông Bắc (Việt Nam), nằm ở
phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang, giáp giới với hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn. Địa
hình thấp dần theo hướng Đông Nam, phía Bắc là vùng núi thấp dưới chân dãy núi
Bắc Sơn, mà dãy núi này hay được biết đến hơn với cái tên cánh cung Bắc Sơn chạy
từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên (một trong năm dãy núi hình vòng cung tạo nên nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

7

/>

đặc trưng của địa hình vùng Đông Bắc). Một số đồi, núi tiêu biểu có thể kể tới như:
núi Ông, núi Bà, núi Chỏm Vung, núi Linh, núi Rồng, đồi Lánh, đồi Hồng… Trong
sách Đại Nam nhất thống chí có nhắc tới “núi Chung Sơn”, một ngọn núi cao ở xã
Bảo Sơn, thuộc địa giới huyện Yên Thế.
Địa hình ảnh hưởng đến đất đai chủ yếu thông qua tác động phân phối lại các
yếu tố địa hóa trong lớp vỏ phong hóa và điểu kiện nhiệt ẩm theo các yếu tố địa hình
và độ cao. Huyện Yên Thế mang đặc trưng của địa hình vùng núi phía Bắc Việt Nam
với các dạng địa hình trung du và miền núi chiếm ưu thế, địa hình đồng bằng chiếm
phần nhỏ. Vùng miền núi chiếm ưu thế, hơn 80% tổng diện tích đất tự nhiên. Địa
hình Yên Thế cũng giống các huyện khác trong tỉnh “đều là rừng rú, thung lũng, đất
sỏi khác hẳn các huyện ở miền dưới” [44, tr.128]. Địa hình nơi đây có đặc trưng là
chia cắt mạnh, phức tạp, chênh lệnh về độ cao, thấp. Dạng đồi núi thấp co độ cao từ
170- 500 m, xuất hiện ở phía bắc của huyện. Nhiều vùng đất đai còn tốt, đặc biệt là
khu vực có rừng tự nhiên. Những đồi thấp trồng cây ăn quả như vải thiều, hồng, bưởi,
cam, chanh… cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhưng có những vùng
thảm thực vật bị tàn phá, đất đai xói mòn, kém màu mỡ. Yên Thế giống như một vệt
lõm ăn sâu vào hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn rồi tỏa xuống các huyện trong tỉnh
là Lạng Giang và Việt Yên theo hướng chảy của sông Sỏi, suối Si để cùng bị chặn lại

bởi dòng sông Thương sâu rộng hơn - đóng vai trò của vành đai bao bọc ở mạn đông
- nam của khu vực. Mức tương phản của địa hình Yên Thế tuy chưa bộc lộ những nét
đột biến dữ dội nhưng cũng đủ tạo ra sự đối lập. Núi rừng Yên Thế vốn nổi tiếng rậm
rạp cùng các thung lũng đầy cây cối chạy uốn lượn liên tiếp theo các triền núi đồi hợp
với các vành đai tre nứa chạy dồn dập tạo cảm giác trùng điệp, hiểm trở khó đi lại.
Núi ở Yên Thế không cao, là đoạn tiếp của vòng cung Bắc Sơn nên vẫn khá đồ sộ.
Càng đi xuống, núi càng thấp dần chỉ còn các chân đồi thoai thoải, lô xô với các lớp
phù sa cổ uốn lượn chạy dọc theo sông Sỏi từ Bố Hạ xuống Cầu Gồ rồi tràn xuống
tận trung tâm Hiệp Hòa để bắt đầu từ đó, các cánh đồng màu mỡ hiện ra. Đây chính
là sự đối lập mà bằng mắt thường ta cũng nhận biết Yên Thế vốn có hai vùng thượng
- tức là huyện Yên Thế ngày nay và hạ tức là huyện Tân Yên [5, tr.750].
Yên Thế thượng có dạng địa mạo của vùng núi thấp có độ cao từ 170 - 500 m
được bao phủ bằng loại rừng có hai, ba tầng cây to thường xanh ở tầng thứ nhất. Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

8

/>

Thế hạ là vùng đồng bằng phù sa cổ có hai bậc thềm lượn sóng mà những dải này bị
chia cắt thành các dải nhỏ do xâm thực cho nên các ngọn đồi đều thấp, từ 18 - 20 m,
có đỉnh tròn dốc thoải, nhiều sỏi cuộn. Trong khi điểm chóp của Yên Thế thượng là
chân của điểm cuối của đồi núi thuộc bộ phận Thái Nguyên đã thoải dần về phía Nam
thì điểm cuối của Yên Thế hạ chỉ cách thành phố Bắc Giang một đoạn đường ngắn.
Cái vạch nối từ Bố Hạ sang Nhã Nam - Lạn Giới chính là sự phân giới tương đối của
hai vùng đã từng tổn hại trên thực địa từ nhiều ngàn năm nay. Từ cuối thế kỉ XIX,
người Pháp đã nhận xét: Sát ngưỡng cửa của thành nội Bắc Ninh và chạy rộng ra theo
theo hướng Bắc, bắt đầu một miền dân cư đông đúc, đất đai màu mỡ nhất… Đó là
miền Yên Thế [14]. Phần phía nam của Yên Thế hoặc Yên Thế hạ chủ yếu bao gồm
nhiều cánh đồng rộng lớn phì nhiêu, có khí hậu trong lành và trồng trọt rất tốt. Đó là

một góc của đồng bằng xứ Bắc Kỳ với những đồng ruộng mênh mông kéo dài như
những tấm thảm xanh rì. Điều làm cho miền Yên Thế hạ đặc biệt ưa nhìn, đó là một
vài gò đất, không cao lắm cho bề mặt bớt bằng phẳng, nó được trải cỏ hoặc có cây cối
xum xuê bao phủ, những mỏm con con những dải đồi nhọn hoặc cồn cỏ bề cao từ 20 30 m và thung lũng nhỏ bé đầy bóng mát, tất cả nhô lên trên ruộng lúa như là vô số
hòn đảo nhỏ. Phía Bắc miền Yên Thế hoặc Yên Thế thượng có một hình ảnh trái
ngược hẳn, đó là một dãy liên tục gò đất nhô lên, lúc đầu còn thấp nhưng càng ngược
lên phía bắc càng cao dần.
Khu vực miền núi, thành phần thạch học chủ yếu là các loại phiên thạch sét,
phiến sét và biến chất. Sa thạch tạo nên các núi cao, đó là loại sa thạch hạ thô, màu
xám nhạt hoặc vàng thẫm, sau khi phong hóa tạo thành một thức chất có thành phần
cơ giới nhẹ, xốp, dễ thoát hơi nước, nghèo dinh dưỡng. Phiến thạch sét có diện tích
phân bổ rộng hơn sa thạch, chiếm gần toàn bộ các đồi núi thấp ở Yên Thế. Loại đá
này mềm có cấu trúc phiến mỏng, hạt nước màu xanh hoặc tím, dễ phong hóa và sau
khi phong hóa cho tầng đất dày với thành phần cơ giới thịt nặng, khó thấm nước,
nhưng giàu dinh dưỡng hơn đất sa thạch. Mẫu chất phù sa cổ cũng được tìm thấy ở
các vùng đồng bằng, trung du phía nam của huyện. Phù sa cổ được hình thành do các
sản phẩm của biển, cách đây khoảng 1 triệu năm, do chuyển động địa chất mà được
nâng cao lên so với phù sa mới dọc theo sông Thương. Phù sa cổ thường được phủ
trên nền phiến thạch sét. Những nơi gần núi, tầng đất mỏng, nhiều sỏi cuội. Ở rìa
đồng bằng, tầng đất này dày hơn, nhưng lại thường có kết vòm, đá ong.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

8

/>

Về khí hậu, trong Đại Nam nhất thống chí có nhắc tới: “Các huyện thượng du
(Yên Thế) lam chướng rất nặng, khí rét cũng sớm, ngoài ra thì nóng lạnh đều nhau.
Trong khoảng hạ sang thu, thường có mưa trận, nước sông lên to” [32, tr.77]. Yên
Thế chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa nhiệt đới vùng trung du và miền núi phía

bắc. Mùa đông từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Mùa hè từ tháng 4 đến tháng 9.
Nhiệt độ trung bình năm từ 23,7- 24,6°C. Tháng 1 có nhiệt độ thấp dưới trung bình
15,9°C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất khoảng 29-30°C. Số giờ nắng trung bình trong
năm khoảng từ 1.211-1.616 giờ/năm. Lượng mưa trung bình trung năm khoảng 15001700 mm/năm. Các tháng có lượng mưa thấp nhất là Tháng 1, 2, 11, 12. Các tháng có
lượng mưa cao nhất là tháng 6, 7, 8. Có nơi do mưa nhiều đất nên đất đồi núi bị xói
mòn, vùng trung du, đồng bằng đất bị rửa trôi, thoái hóa. Mùa ẩm là mùa mưa nhiều,
thường bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10, kéo dài 6-7 tháng. Tuy nhiên, do
tính chất không ổn định của gió mùa cho nên tùy theo từng năm mùa mưa có thể sớm,
muộn hay kết thúc sớm, muộn một tháng so với thời điểm trung bình. Thời điểm
trung bình đó là khoảng nửa cuối tháng 4 và nửa đầu tháng 10. Vào mùa khô thường
là mưa nhỏ, mưa phùn và có thể kéo dài nhiều ngày gây thời tiết âm u, ẩm ướt. Độ
ẩm trung bình từ 81,2 đến 83,4%. Thông thường ở khu vực có nhiều ao, hồ, sông,
suối, mặt nước trong lớp phủ thực vật phát triển thì có độ ẩm cao hơn so với các vùng
đồi núi trọc. Thời kì có độ ẩm cao nhất là thời kì mưa phùn, khu vực chịu ảnh hưởng
của khối không khí cực đới biến tính qua biển trong giai đoạn nửa cuối mùa lạnh.
Trong Đồng Khánh dư địa chí có ghi chép về thời tiết: “Khí trời mùa xuân mát mẻ,
mưa phùn dân trồng khoai, trồng đậu. Mùa hè nhiều nắng, nhiều mưa rào… Mùa thu
sau tiết sương giáng lúa bắt đầu chín, có khi gặp bão to đổ nhà” [43, tr.541]. Với
nhiệt độ cao, biên độ lớn, độ ẩm cao là những điều kiện thuận lợi cho sự phong hóa
đá thành đất, thúc đẩy các quá trình hình thành và phát triển của đất, nhưng mặt khác
mưa lớn và mưa tập trung làm cho đất bị xói mòn mạnh, khí hậu khô hanh bốc hơi
mạnh là nguyên nhân cơ bản hình thành kết vòm và đá ong làm cho đất bị thoái hóa.
Thủy văn ảnh hưởng tới đất đai, thổ dưỡng chủ yếu thông qua tác động của
nước chảy, nước ngầm và nước động. Tại tỉnh Bắc Giang có 3 con sông lớn: sông
Cầu, sông Thương và sông Lục Nam. Yên Thế có sông chính chảy gần như dọc
huyện, từ bắc xuống phía đông nam, sông chảy mang tên “sông Mỏ Trạng” hoặc còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

9


/>

được gọi là “sông Sỏi” để chỉ hai vùng thượng lưu và hạ lưu của con sông. Sông Sỏi
đã nhỏ hẹp lại ngắn, ít giúp ích xuống một vùng trũng được vây quanh bởi một hệ
thống gò đồi và cây cối trước khi đổ ra sông Thương. Sông Mỏ Trạng có một số con
suối nhỏ đổ vào hợp thành như suối Gồ, suối Cấy - Hồng Kỳ, suối Đá, suối Cầu Đen,
suối Thia, suối Đồng Đảng ở thượng lưu có suối Máng Lợn, suối Trám, suối Vàng…
Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” có chép sông Nhật Đức (sông Thương) ở cách
huyện Phượng Nhãn 20 dặm về phía bắc. Sông có 3 nguồn: một nguồn từ khe nhỏ ở
châu Ôn tỉnh Lạng Sơn, vào phía tây bắc huyện Hữu Lũng chảy 12 dặm làm sông
Hóa; lại chảy 32 dặm đến xã Chiêu Tuấn. Một nguồn từ khe núi ở huyện Vũ Nhai
tỉnh Thái Nguyên, qua các xã Hương Giao và Giao Hòa, vào phía Nam huyện Hữu
Lũng làm sông Hòa; lại chảy 54 dặm cũng đến xã Chiêu Tuấn, hai dòng hợp với nhau
chảy qua địa phận các huyện Bảo Lộc, Hữu Lũng, Yên Thế và Yên Dũng gồm 108
dặm làm sông Thọ Xương. Lại chảy 41 dặm đến sông Phượng Nhãn [32, tr.96]. Tổng
tập dư địa chí Việt Nam có viết: “Đến phủ Lạng Thương, sông Thương mới lớn dần,
thuyền bè đi lại được. Cách phủ Lạng Thương độ 7 - 8 km thì dòng sông gặp đầu dãy
núi “chín mươi chín ngọn” rồi chảy vào sông Lục Nam” [45, tr.220]. Theo truyền
thuyết gọi là sông Thương vì đây là con sông xưa kia các gia đình, bạn bè thường lấy
là giới hạn đưa tiễn người thân đi sứ sang Trung Quốc hoặc trấn ải miền biên thùy. Ở
thượng lưu sông chảy qua vùng núi đá rất hẹp, lòng sông có độ dốc lớn 30°. Từ Bố
Hạ chảy xuống Bắc Giang, sông chảy theo hướng bắc nam, lòng sông mở rộng và
sâu, độ dốc lòng sông bình quân còn 0,1%, nước trong xanh, suốt năm thuyền bè tàu
thủy có thể lưu thông được. Trong sách Đồng Khánh dư địa chí cũng có chép: Sông
Nhật Đức thượng nguồn từ Lạng Sơn chảy xuống xã Hòa Lạc thông đến xã Quế
Nham. Đoạn trên (từ xã Bố Hạ trở lên) rộng 5 trượng 3 thước; đoạn dưới (từ xã bố Hạ
trở xuống) rộng 8 trựơng, sâu 5 thước.
Thảm thực vật đã cải biến đá mẹ thành đất, qua tiểu tuần hoàn sinh vật diễn ra
trong một chu trình ngắn và với cường độ mạnh trong điều kiện khí hậu nóng ẩm. Vai
trò thảm thực vật còn có tác dụng chống xói mòn và giữ ẩm cho đất. Rừng ở Yên Thế

xưa có thảm thực vật khá phong phú, với nhiều loại gỗ quý như lim, lát, trò chỉ, sến,
táu, tre, nứa, mai, vầu - giàng, song, mây... cùng nhiều loại thổ mộc làm thuốc chữa
bệnh như sa nhân, ba kích, hà thủ ô, ba chạc, lạc tiên, nhân trần, củ mài. Ngoài ra, ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 10

/>

đỉnh núi Chung Sơn có khoảng hơn một sào đất rải rác có giống sâm tốt gọi là Chung
sâm, tương truyền người nào tìm được củ sâm này mà ăn thì khí vị rất tốt [43, tr.542].
Động vật nơi đây cũng rất phong phú như: Hổ, gấu, lợn rừng, hươu, nai, chồn, cáo,
lửng -vòi, cầy hương, tê tê, dúi, sóc, trăn, rắn... Ở nước ta từ lâu trong sử sách có ghi
chép nhiều loại động vật quí lạ. Trong nhiều thế kỷ, ở thời kỳ phong kiến, người ta
chỉ lưu ý đến khai thác nguồn lợi động vật rừng. Các quan lại địa phương ở các huyện
thường bắt nhân dân ăn lùng các loài hổ, gấu, nai, hoãng, kỳ đà, trăn... và các sản
phẩm từ động vật như mật gấu, da báo, da hổ, sừng tê giác, ngà voi, vẩy tê tê... để tiến
cống vua chúa và quan lại tỉnh. Vua và các quan lại dùng thịt động vật làm thức ăn
bồi bổ cơ thể, dùng các sản phẩm động vật làm thuốc, làm vật trang trí trong dinh thự.
Trước đây, Yên Thế là nơi có rừng già, rừng nguyên sinh ít bị tác động bởi con
người, là môi trường sinh sống của nhiều loài động vật hoang dã. Đời sống của chúng
rất đa dạng, có những loài sống trên cây, có những loài sống trên mặt đất, có những
loài sống trong hang hay kiếm ăn trên đồng ruộng. Nhìn chung, động thực vật ở Yên
Thế phong phú và đa dạng đó chính là nguồn cung cấp năng lượng cho con người cư
trú ở nơi đây từ ngàn đời nay.
Yên Thế có những cánh rừng khó lòng vào được và với địa dư đặc biệt thuận lợi
nằm trên cánh đồng giàu có của vùng đồng bằng với vùng núi non hiểm trở Cai Kinh
và Bảo Đài. Rừng ở đây thuộc loại rừng hiểm, dây leo hiểm trở chằng chịt, quấn ép
những thân cây to khiến cho bề sâu thăm thảm của rừng trở thành bất khả xâm phạm.
Rừng rậm đã ngốn hết các con đường cũ và chứa đầy sự im lặng. Diện tích rừng ở
Yên Thế chiếm tỷ lệ lớn, với trên 14600 ha đất nông nghiệp, chiếm gần 50% diện tích
đất tự nhiên của huyện, Yên Thế có tiềm năng phát triển rừng, đặc biệt là các loại gỗ

lớn, có giá trị kinh tế cao, bảo vệ môi trường và làm giàu dinh dưỡng cho đất. Hiện
nay, toàn huyện rừng gỗ lớn chiếm khoảng 33%, theo nghị quyết đến năm 2015,
huyện sẽ phát triển rừng gỗ lớn từ 35 - 40% diện tích đất lâm nghiệp và từng bước
hình thành vùng nguyên liệu gỗ bền vững. Xuất phát từ chủ trương đó của huyện,
việc chế biến gỗ cũng được huyện chú trọng, như công ty TNHH một thành viên lâm
nghiệp Yên Thế đã chú trong mở rộng, phát triển thêm nhiều diện tích rừng gỗ lớn,
nâng cao hiệu quả kinh tế rừng và khả năng bảo vệ nguồn thủy sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 11

/>

Để tiếp tục mở rộng diện tích khoảng 700 ha rừng cây gỗ lớn, hàng năm công
ty tiếp tục trồng mới nhiều diện tích theo tiêu chuẩn rừng gỗ lớn, chu kỳ 12 - 15 năm,
chủ yếu là loại cây keo tai tượng, bạch đàn vô tính, đặc biệt chọn lọc đưa vào trồng
những cây giống mới, cho chất lượng và hiệu quả cao. Do áp dụng những tiến bộ
khoa học vào kỹ thuật trồng và chăm sóc nên nhiều cánh rừng mới bước sang năm
thứ hai nhưng chiều cao và đường kính thân cây tương đương với những cây trồng
trước đó 3- 4 năm.
Về kinh tế, đối với rừng gỗ lớn sau khi trồng khoảng 15 năm cho thu hoạch từ
250 - 300 m3 gỗ/1ha, cao gấp 2 -3 lần rừng trồng hiện nay. Trong khi đó điều kiện để
phát triển rừng cây gỗ lớn của huyện Yên Thế là rất cao. Huyện Yên Thế có nhiều
điều kiện để canh tác và thâm canh rừng gỗ lớn, thứ nhất: nhiều nơi có tầng đất dày,
đất còn khá tốt; thứ hai địa hình ở đây chủ yếu là đồi núi thấp; thứ ba việc trồng rừng
gỗ lớn có vai trò quan trọng đối với bảo vệ môi trường sinh thái. Yên Thế còn một số
hồ, đập không chỉ cung cấp nước tưới cho nhân dân trong huyện mà còn cho một số
huyện lân cận như Tân Yên, Hiệp Hòa, Lạng Giang… nên phải phát triển rừng nhằm
bảo vệ nguồn nước, giữ nước trong các hồ, đạp chứa. Hiệu quả về cải tạo đất, bảo vệ
môi trường và tạo nguồn sinh thủy cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn trồng rừng
gỗ lớn. Tuy nhiên, việc trồng gỗ lớn còn nhiều khó khăn như: thời gian trồng rừng
dài, vốn đầu tư lớn, kỹ thuật trồng, chăm sóc cây gỗ còn nhiều hạn chế, do đó chưa

thu hút được nhiều hộ trồng rừng tham gia. Vì thế, để nhân rộng diện tích trồng rừng
cây gỗ lớn, phát huy tiền năng thế mạnh của địa phương, rất cần có sự quan tâm, đầu
tư đúng mức trong định hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp lâu dài. Nhờ tăng cường
công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng nên từ đầu năm đến nay, diện tích rừng
trồng mới trên địa bàn huyện đã hoàn thành kế hoạch đề ra phần lớn các vụ vi phạm
đều được phát hiện sớm, xử lý kịp thời. Các cơ sở sản xuất con giống lâm nghiệp trên
địa bàn huyện tổ chức sản xuất trên 2,5 triệu cây giống để cung cấp cho các chủ rừng.
Toàn huyện cũng đã tiến hành trồng mới được 850 ha rừng tập trung và 146 nghìn
cây phân tán, đạt 100% kế hoạch đề ra của năm nay. Huyện cũng chú trọng hội nghị
tập huấn về trồng rừng, lồng ghép để tuyên truyền về công tác quản lý bảo vệ rừng,
phòng cháy chữa cháy rừng cho hàng trăm lượt người dân các xã có rừng. Công tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 12

/>

bảo vệ rừng tiếp tục được tăng cường, không có điểm nóng về chặt, phá, khai thác
rừng trái phép, phần lớn các vụ vi phạm đều được phát hiện sớm, xử lý kịp thời. Các
mô hình trồng rừng kinh tế cũng đã tiến hành 35300 m3 gỗ các loại và trên nghìn củi.
Không chỉ phát triển về diện tích, sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn huyện cũng đã
được nâng cao về chất lượng góp phần tăng thu nhập, ổn định đời sống nhân dân.
Về khoáng sản, ở Yên Thế có thể kể đến như than đá Bố Hạ, sắt, vàng, bạc sa
khoáng, đất sét. Đây là loại khoáng sản được con người khai thác từ xưa đến nay để
phục vụ cho đời sống dân sinh.
Tạo điều kiện cho việc giao lưu giữa các vùng trong huyện là hệ thống giao
thông từng bước được cải thiện. Trong Đại Nam nhất thống chí có nhắc đến “cầu Kim
Chàng” phục vụ cho nhân dân địa phương đi lại sang các huyện khác. Cống Nhật
Đức, đê sông Nhật Đức dài 3052 trượng 1 thước, đê sông tư tại huyện Yên Thế dài
1368 trượng 7 thước vừa đảm bảo đi lại cho người dân, vừa ngăn chặn thiên tai lụt lội
phá hoại mùa màng cho bà con. Ngoài ra, trong huyện còn có nhiều con đường bộ
liên thôn, liên tỉnh: Một đường nhỏ từ phủ thành cũ đi về phái tây nam đến xã Kim

Chàng, dì 4 dặm, rộng 3 thước. Một đường nhỏ ừ phủ thành cũ đi về phía đông nam
đến xã Hoàng Hà, dài 3 dặm, rộng 2 thước [43, tr.542]. Việc đi lại của Yên Thế trước
đây chủ yếu dựa vào hệ thống đường mòn men theo các triền đồi. Từ thành phố Bắc
Giang lên Phủ Mộc (Cao thượng) hoặc Tỉnh Đạo (Nhã Nam), theo đường bộ phải
vượt qua đèo Lai qua Tĩnh Lộc - Phủ Mọc rồi Đình Nẻo - Tỉnh Đạo. Dân trong vùng
gọi đây là những đường chuột chạy, trong mùa mưa, đoạn Tĩnh Lộc - Kim Chàng
thường xuyên bị ngập úng nên thông thường người ta đi thuyền theo sông Thương
đứng lại ở Bến Tuần hoặc Bố Hạ để sang Tỉnh Đạo - nơi án ngữ con đường lên Thái
Nguyên và Lạng Sơn.
Tóm lại, nhìn chung vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của huyện Yên Thế rất
thuận lợi cho sự phát triển các ngành nông, lâm nghiệp… Tuy vậy, hiện nay nhìn
chung mức sống của người dân nơi đây còn khá thấp, chất lượng cuộc sống còn nhiều
khó khăn.
1.2. Dựng đặt và diên cách
Trong lịch sử phát triển, vùng đất Yên Thế luôn gắn với quá trình vận động
của lịch sử Bắc Giang qua các thời đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 13

/>

Đời Hùng Vương, huyện Yên Thế thuộc bộ Vũ Ninh, thời Tần thuộc Tượng
Quận, đời Hán thuộc bộ Giao Chỉ, tức là đất 2 huyện Lu Lâu và Long Biên
Tên huyện Yên Thế có từ thời Trần về trước. Thời nhà Lý, Yên Thế thuộc đất
Lạng Giang. Đến đời Trần, Yên Thế có tên là Yên Viễn, thuộc lộ Như Nguyệt Giang.
Thời Hồ, Yên Viễn thuộc Phủ Lạng Giang. Thời thuộc Minh đổi thành huyện Thanh
Yên thuộc châu Lạng Giang. Năm Quang Thuận 7 (1466) lấy lại tên cũ là huyện Yên
Thế, đặt thuộc phủ Lạng Giang. Các triều sau đều theo thế [32, tr.74].
Năm Minh Mệnh 13 (1832), tách 3 huyện Yên Thế, Hữu Lũng, Yên Dũng lập
thành phân phủ Lạng Giang. Năm Thành Thái thứ 8 (1896) huyện Yên Thế là một bộ
phận của đạo Yên Thế. Năm 1897, tách phủ Lạng Giang đặt làm tỉnh Bắc Giang (gồm

đất Yên Thế tỉnh Bắc Giang). Đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) huyện Yên Thế
được đưa vào Đại Lý Nhã Nam. Thời vua Đồng Khánh (1886-1889), huyện Yên Thế
có 8 tổng, 44 xã, thôn: Tổng Mục Sơn (8 xã): Cao Thượng, Hòa Mục, Hữu Mục, Cựu
Phong, Dương Sơn, Quất Du; Tổng Vân Cầu (8 xã): Ngọc Cụ, Trị Cụ, Lam Quật, Sơn
Quả, Ngọc Thành, Thúy Cầu; Tổng Yên Lễ (6 xã): Yên Lễ, Ước Lễ, Khánh Giang,
Thế Lộc, Ngô Xã, Lăng Cao; Tổng Bảo Lộc Sơn (4 xã): Bảo Lộc Sơn, Chung Sơn,
Kim Chàng, Tưởng Sơn; Tổng Lạn Giới (4 xã): Lạn Giới, Giản Ngoạn, Đại Hóa, Lý
Quật; Tổng Nhã Nam (3 xã): Nhã Nam, Dương Lâm, Lục Giới; Tổng Quê Nham (5
xã): Quế Nham, Phú Khê, Lại Tranh, Liên Bộ, Hoàng Hà; Tổng Yên Thế (6 xã): Yên
Thế, Quỳnh Động, Phồn Xương, Bảo Tháp, Dinh Tháp, Nhạm Tháp [43, tr.540].
Theo nghị định số 532-TTg của thủ tướng Chính phủ chia huyện Yên Thế tỉnh
Bắc Giang làm hai huyện: Yên Thế và Tân Yên. Tháng 8 năm 1958, phần phía nam
của huyện Yên Thế còn gọi là Yên Thế Hạ, được tách ra thành lập một huyện mới có
tên là huyện Tân Yên. Phần phía bắc Yên Thế, còn gọi là Yên Thế Thượng, mang tên
là huyện Yên Thế. Tính từ đó cho đến nay (2015), huyện Yên Thế gồm 21 xã, thị
trấn: Bố Hạ, Đông Lạc, Hương Vĩ, Tân Sỏi, Đồng Tiến, Đồng Hưu, Đồng Kỳ, Hồng
Kỳ An Thượng, Tân Hiệp, Canh Lậu, Xuân Lương, Đông Xương, Phồn Xương, Tam
Hiệp, Tam Tiến, Đồng Vương, Tiến Thắng và 3 Thị Trấn: Bố Hạ, Nông Trường, Cầu
Gồ. Như vậy, phạm vi của huyện Yên Thế thế kỉ XIX tương ứng với địa giới hành
chính huyện Yên Thế và Tân Yên ngày nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 14

/>

×