Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.83 KB, 14 trang )

27




28

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội





Thái quang trung



Tình hình ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp thừa thiên huế nửa đầu thế kỷ xix



Chuyên ngành:
lịch sử việt nam cổ đại và trung đại
Mã số: 62.22.54.01






Tóm tắt luận án tiến sĩ lịch sử





Hà Nội 2008



25


Công trình đợc hoàn thành tại Bộ môn Lịch sử Việt Nam - Khoa
Lịch sử Trờng Đại học s phạm Hà nội.

* Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Cảnh Minh

*Phản biện 1:
* Phản biện 2:
* Phản biện 3:

Luận án sẽ đợc bảo vệ trớc hội đồng chấm luận án cấp
Nhà nớc họp tại trờng Đại học s phạm Hà Nội.
Vào hồi giờ ngày tháng năm 200


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Th viện quốc gia Hà Nội

- Th viện trờng ĐHSP Hà Nội



26

Các công trình đ công bố có liên quan đến đề tài luận án

1. Thái Quang Trung (1995), "Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) với
việc phát triển kinh tế nông nghiệp xứ Thuận Hóa". Thông báo khoa học và
giáo dục, Trờng Đại học S phạm - Đại học Huế, số 10, (tr .73 - 87).
2. Thái Quang Trung (1996), "Địa bàn Thừa Thiên - Huế trong quá trình mở
rộng lãnh thổ quốc gia vào phía Nam dới thời các chúa Nguyễn". Tạp chí
Huế Xa và nay, số đặc biệt 1306 - 1996, (tr. 44 - 48).
3. Thái Quang Trung(1998) "Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỉ XIX",Đề tài NCKH cấp
Trờng, Mã số T98.XH.07.
4. Thái Quang Trung (1999), "Vài nét về tình hình kinh tế các tỉnh Quảng
bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế trớc 1858 qua một số th tịch cổ". Thông
báo khoa học, Trờng đại học S phạm - Đại học Huế, số 2 (33), (tr. 99 - 105).
5. Thái Quang Trung (1999), "Công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế
nửa đầu thế kỉ XIX". Thông báo khoa học, Trờng Đại học S phạm Vinh,
số 22, (tr. 33 - 38).
6. Thái Quang Trung(2000), "Công cuộc khẩn hoang dới thời Nguyễn
(1558-1858)", Đề tài NCKH cấp Trờng, Mã số T2000.XH.14.
7. Thái Quang Trung (2001), "Mấy ý kiến về tình hình ruộng đất công ở
Thừa Thiên - Huế nửa đầu thế kỷ XIX", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
số 1(314), (tr.62 - 67).
8. Thái Quang Trung (2001), "Một số biện pháp nhằm phát triển kinh tế nông
nghiệp ở Thừa Thiên Huế dới vơng triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX", Thông

báo khoa học, trờng Đại học S phạm - Đại học Huế, số 3(39), tr. (49 - 54)
9. Thái Quang Trung (2003), "Tìm hiểu chính sách khẩn hoang Nam Bộ
dới vơng triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX", Đề tài NCKH cấp Bộ, Mã số
B2003.09.05.
10. Thái Quang Trung (2005), "Chính sách khẩn hoang triều Nguyễn nhìn từ góc độ
quân sự", Thông báo khoa học, Trờng đại học S phạm - Đại học Huế, số 1 (50).
11.Thái Quang Trung(2005), "Vài nét về chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn
nửa đầu thế kỉ XIX", Sách Một số vấn đề lịch sử, T1, NXB Thuận Hóa Huế.
12. Thái Quang Trung (2005), "Công cuộc khai hoang xứ Thuận Hóa dới thời
các chúa Nguyễn", Sách Cố đô Huế xa và nay, NXB Thuận Hóa, Huế
13. Thái Quang Trung (2006), "Tình hình ruộng đất Thừa Thiên Huế qua
các thời kì và những vấn đề đặt ra hiện nay", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học 700
Thuận Hóa Huế.
14.Thái Quang Trung (2007), "Thuận Hóa- Phú Xuân nửa sau thế kỉ XVIII với
phong trào Tây Sơn", Tạp chí Khoa học, Đại Học Huế. Số 2(36) 4-2007, tr 149-
153
1

Mở đầu
1. lí do chọn đề tài
Đề tài: "Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế
nửa đầu thế kỉ XIX" mong muốn bằng những t liệu cụ thể của địa phơng,
góp phần minh họa thêm trong việc nghiên cứu lịch sử làng xã nói riêng,
lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam dới vơng triều Nguyễn nói chung.
Làm sáng tỏ nhiều vấn đề đang đợc đặt ra đối với khoa học Lịch sử.
Chọn địa bàn Thừa Thiên Huế nghiên cứu vì những lí do sau:
1.1. Thừa Thiên Huế trong nửa đầu thế kỷ XIX có vị trí rất quan trọng
đối với dân tộc, nơi đó có kinh đô của nớc ta dới vơng triều Nguyễn, là
vùng đất có những đặc điểm lịch sử, xã hội hết sức đặc biệt. Nó gắn liền với
quá trình dựng nghiệp của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn từ giữa thế kỷ

XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
1.2. Quá trình khẩn hoang lập làng của c dân ngời Việt và các cộng
đồng c dân khác trên đất Thừa Thiên Huế diễn ra trong bối cảnh rất đặc
biệt. Đặc điểm làng xã ở Thừa Thiên Huế vừa mang nét truyến thống của
làng xã Việt Nam, vừa tiếp nhận đặc trng của văn hóa c dân bản địa.
Trong quá trình cộng c đó đã có sự đan xen, hòa nhập của hai nền văn hóa
ngời Việt cổ và Chăm cổ. Luận án góp phần nghiên cứu mối quan hệ giữa
các thành phần c dân trong đời sống và sản xuất, nhất là quan hệ giữa hai
tộc ngời Việt và Chăm.
1.3. Thừa Thiên Huế có địa hình rất phức tạp: 9/10 là đồi núi; đồng
bằng hẹp, dốc, manh mún, bị cắt xẻ nhiều bởi hệ thống sông ngòi dày đặc.
Đặc điểm đó chi phối rất lớn đến tình hình ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp. Tuy nhiên, là vùng đất đóng kinh đô, nhiều chính sách của triều
đình trong quản lí ruộng đất công và khuyến khích sản xuất nông nghiệp có
hiệu lực cao hơn. Mối quan hệ giữa nhà nớc và làng xã khá chặt chẽ.
1.4. Trên cơ sở phân tích đặc điểm, tình hình ruộng đất và kinh tế
nông nghiệp ở Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX, để thấy rõ tính chất
đặc thù của vùng đất này so với những địa phơng khác trên cả nớc. Qua
đó để góp phần đánh giá triều Nguyễn trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
2. lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Đối với địa bàn chung của cả nớc: Sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công, vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp đợc các nhà
nghiên cứu quan tâm. Đặc biệt sau khi hoà bình lập lại (1954), việc nghiên
cứu về ruộng đất - kinh tế nông nghiệp trở thành đề tài hấp dẫn. Một số nhà
lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc đã viết một số công trình có tính chất định
2

hớng. Các nhà nghiên, đã công bố nhiều tác phẩm "Chế độ ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ" của Phan Huy Lê. Đến cuối những năm 70,
đầu 80 đã có một số công trình nghiên cứu về ruộng đất Việt Nam trong các

thế kỉ X đến XIX. Tác giả Vũ Huy Phúc với công trình "Tìm hiểu chế độ
ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX", tác giả Trơng Hữu Quýnh đã
hoàn thành hai tập sách có giá trị, đó là "Chế độ ruộng đất ở Việt Nam".
Gần đây, nhiều công trình lần lợt công bố, trong đó đáng chú ý là "Tình
hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nhân dân dới thời Nguyễn " của
tập thể tác giả, do Trơng Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ. Tác giả Nguyễn
Đình Đầu với "Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang ở Nam
kì Lục tỉnh" Ngoài ra, còn có nhiều chuyên khảo về vấn đề ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp hoặc những khía cạnh có liên quan đã đợc công bố:
"Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam dới thời các vua Nguyễn" của
Nguyễn Thế Anh; "Phong trào nông dân khởi nghĩa nửa đầu thế kỉ XIX"
của Nguyễn Phan Quang nhiều luận án PTS,TS Lịch sử đã đợc bảo vệ
nh: "Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp nớc ta nửa đầu thế kỉ XIX"
của Vũ Văn Quân; "Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam bộ nửa
đầu thế kỉ XIX" của Trần Thu Lơng; "Tình hình ruộng đất và kinh tế
nông nghiệp Yên Hng (Quảng Ninh) đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ
XX" của Bùi Việt Hùng.
Đặc biệt, trong hơn 5 thập kỉ qua, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử và các
tạp chí khác nh Dân tộc học, Nghiên cứu kinh tế đã liên tục đăng tải
những bài viết có giá trị cả về mặt khoa học và t liệu có liên quan đến đề
tài luận án, nh của Nguyễn Khắc Đạm, Nguyễn Lơng Bích, Nguyễn
Hồng Phong, Nguyễn Đức Nghinh, Trơng Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn,
Vũ Huy Phúc, Nguyễn Cảnh Minh, Bùi Quý Lộ, Đào Tố Uyên, Vũ Văn
Quân, Nguyễn Quang Ngọc, Huỳnh Lứa Có thể nói đây là nguồn tài liệu
tham khảo rất phong phú khi nghiên cứu về ruộng đất - kinh tế nông nghiệp.
2.2. Đối với địa bàn Thừa Thiên Huế:
Có thể nói từ trớc Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, cha có một
công trình hoàn chỉnh nào về kinh tế nông nghiệp và ruộng đất đợc công
bố. Những công trình nghiên cứu về Thừa Thiên Huế chỉ tập trung vào một
số lĩnh vực nhất định nh: kiến trúc, văn hoá, văn học, nghệ thuật, điêu

khắc, tôn giáo, tín ngỡng, lễ hội Gần đây, việc nghiên cứu Thừa Thiên
Huế đang đợc các nhà Huế học, các nhà sử học trong và ngoài nớc quan
tâm nh: Lê Văn Thuyên, Huỳnh Đình Kết, Lê Nguyễn Lu, Nguyễn Đình
Đầu, Trần Đại Vinh, Bùi Thị Tân, Nguyễn Thế, Lê Đình Phúc, Nguyễn
Hữu Thông, Đỗ Bang Có thể nói, cho đến nay cha có một công trình nào
nghiên cứu về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế
nửa đầu thế kỷ XIX một cách hoàn chỉnh và hệ thống.
3

3.mục đích, đối tợng, phạm vi và nội dung
nghiên cứu
Hệ thống hoá các nguồn t liệu và các kết quả nghiên cứu về tình
hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở Thừa Thiên Huế nửa đầu
thế kỉ XIX.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bớc đầu phân tích và đa ra một số
nhận xét về tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở Thừa Thiên
Huế trong thời điểm trên.
Đối tợng và phạm vi khảo sát chính là địa bàn 3 huyện (Hơng Trà,
Quảng Điền, Phú Vang) thời Gia Long và chia làm 6 huyện (Hơng Trà,
Hơng Thuỷ, Quảng Điền, Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc) thời Minh
Mạng, cho đến cuối thế kỉ XIX.
Giới hạn về mặt thời gian: bao gồm nửa đầu thế kỉ XIX, cụ thể là từ
năm 1802 (Gia Long lên ngôi) cho đến 1858 (thực dân Pháp nổ súng xâm
lợc). Tuy nhiên, luận án cũng sử dụng nguồn t liệu trớc và sau thời gian
trên để tiện việc đối chiếu, so sánh.
Tuy nhiên, luận án cũng sử dụng số liệu và kết quả nghiên cứu của
một số địa phơng trên cả nớc để tiện việc so sánh, rút ra những đặc điểm
cơ bản của địa bàn nghiên cứu.
4. nguồn t liệu của luận án
Luận án khai thác triệt để nguồn sử sách và địa chí cổ nh: "Đại Việt

sử ký toàn th", "Đại Nam nhất thống chí","Khâm định Đại Nam Hội điển
sự lệ","Quốc triều chính biên", "Minh Mệnh chính yếu", "Khâm định Việt
sử thông giám cơng mục", Đại Nam thực lục (tiền biên)", chính biên, "Ô
châu cận lục", "Phủ biên tạp lục", "D địa chí", "Trịnh - Nguyễn diễn chí",
"Việt Nam khai quốc chí truyện","Hoàng Việt d địa chí"
Luận án còn sử dụng nguồn t liệu lu trử ở các Trung tâm: Gồm tài
liệu lu trữ tại Trung tâm lu trữ Quốc gia I, Bảo tàng thành phố Huế, Sở
Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, Th viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, Trung tâm lu trữ Quốc gia II thành phố Hồ Chí Minh, Th viện
trờng ĐHSP, Th viện tỉnh Thừa Thiên - Huế:
Luận án đã tập trung khai thác, sử dụng một khối lợng lớn nguồn t
liệu điền dã thu nhập từ các làng xã gồm: Gia phả, tộc phả, Các bản kê khai
ruộng đất của làng xã, Bản kê khai dân số, đinh bạ, Bản đề nghị phân chia
ruộng đất, một số hơng ớc, khoán ớc, một số văn bản về mua bán,
chuyển nhợng ruộng đất và một số bản thừa nhận mốc giới giữa các làng.

4

5. phơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phơng pháp luận sử học mác xít và t tởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ Nam trong suốt quá trình nghiên cứu và trình bày luận
án. Phơng pháp lịch sử và phơng pháp lôgic đợc vận dụng triệt để để
xem xét, đánh giá các hiện tợng trong chế độ ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp của địa bàn nghiên cứu.
Phơng pháp chủ đạo đợc sử dụng trong luận án là phơng pháp sử
học để xem xét chế độ sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của địa bàn
đợc nghiên cứu.
Luận án còn sử dụng phơng pháp nghiên cứu dân tộc học. Trong đó,
điền dã dân tộc học đợc xem là phơng pháp quan trọng vừa để su tầm
thêm các tài liệu làng xã, vừa để thẩm định lại các hiện tợng và dữ liệu mà

các tài liệu lu trữ đã phản ánh, qua đó để thấy đợc tính chính xác, hay
tính chân thực của các tài liệu đó.
Luận án còn sử dụng phơng pháp so sánh lịch đại và đồng đại, liên
ngành, kết hợp với phơng pháp thống kê, phân loại, nhằm rút ra sự tơng
đồng hay khác biệt về sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của địa bàn
nghiên cứu qua các thời điểm, cũng nh giữa địa bàn với các nớc khác.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phơng pháp hệ thống đặt mối quan hệ
giữa sở hữu ruộng đất, kinh tế nông nghiệp với các yếu tố môi trờng tự
nhiên, điều kiện lịch sử xã hội của địa bàn nghiên cứu.
6. đóng góp của luận án
Là công trình đầu tiên tập hợp một cách có hệ thống các nguồn t liệu
và các kết quả nghiên cứu về tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX.
Là công trình đầu tiên phân tích có hệ thống dựa trên cơ sở nguồn t
liệu đáng tin cậy và đa ra một số nhận xét về đặc điểm của tình hình sở
hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở Thừa Thiên Huế. Qua đó để thấy
nét đặc thù của vùng đất nơi có kinh đô kinh đô Phú Xuân.
Luận án phân tích làm rõ vị trí, tác động của tình hình ruộng đất đến
kinh tế xã hội và khởi nghĩa nông dân ở Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỉ XIX.
Bổ sung thêm nguồn tài liệu vào việc nghiên cứu vấn đề ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp ở thừa Thiên Huế nói riêng và trong cả nớc nói chung.
7. bố cục của luận án
Luận án bao gồm 184 trang, ngoài phần mở đầu 13 trang, kết luận 4
trang, tài liệu tham khảo 20 trang; phần nội dung bao gồm ba chơng:

5

Chơng 1: Khái quát về Thừa Thiên Huế trớc thế kỷ XIX
Chơng 2: Tình hình ruộng đất Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX
Chơng 3: Tình hình kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế nửa đầu

thế kỷ XIX
Ngoài ra, luận án còn có các bảng các chữ viết tắt, bảng thống kê các
biểu bảng, danh mục các bài báo đã công bố có liên quan đến đề tài luận án
và phần phụ lục.
Chơng 1
Khái quát về thừa thiên huế trớc thế kỷ xix
Trong chơng 1, luận án tập trung trình bày những nội dung sau:
1.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên:
Thừa Thiên Huế là một tỉnh phía Nam vùng duyên hải Bắc Trung bộ,
có diện tích tự nhiên khoảng 500.920 ha. Phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Tây
giáp nớc Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, phía Nam giáp thành phố Đà
Nẵng, phía Đông giáp biển, với đờng bờ biển dài 120km.
Thừa Thiên Huế có địa hình rất phức tạp, toàn bộ lãnh thổ kéo dài
theo phơng Tây Bắc- Đông Nam, cả những dãy núi và đồng bằng đều chạy
song song với đờng bờ biển và trùng với phơng kéo dài của tỉnh. Các kiến
trúc tân kiến tạo, nhân tố quyết định hình thái Thừa Thiên Huế, thay đổi đáng
kể theo chiều Tây sang Đông. Thừa Thiên Huế là một bộ phận của địa máng
Việt Lào, có một quá trình phát triển lịch sử địa chất lâu dài, qua các thời kỳ
kiến tạo khác nhau, do vậy kiến tạo địa chất bao gồm các thành vật chất nh:
đá vôi, granít, đá điorít, đá mắcmaxit, phiến sét, bột kết, cát kết, cuội, sạn sỏi
Thừa Thiên Huế nằm gọn trong vĩ độ nhiệt đới với nguồn nhiệt, ẩm
dồi dào. Ngoài những đặc điểm chung của miền khí hậu nhiệt đới gió mùa,
thì ở đây do ảnh hởng của một số yếu tố nh: vị trí, địa hình nên đã tạo ra
khí hậu có những đặc trng mang tính chất địa phơng.
Về chế độ ma: Đây là vùng có lợng ma lớn, với lợng ma trung
bình hàng năm từ 2000-3000mm. Do tác động của địa hình và hoàn lu khí
quyển, nên hình thành hai vùng ma lớn : Vùng ma lớn thứ nhất là vùng
núi thuộc thợng nguồn của lu vực các con sông, lợng ma lớn, trung
bình hàng năm khoảng 3500-4000mm. Vùng ma lớn thứ hai là vùng đồng
bằng ven biển, lợng ma trung bình thấp hơn từ 2500-3000mm.

Hệ thống sông ngòi ở Thừa Thiên Huế đợc phân bố đều trên lãnh
thổ. Đại bộ phận sông suối chảy theo hớng Nam - Tây Nam đến Bắc -
Đông Bắc. Nguồn nớc trên lu vực các con sông đợc hình thành chủ yếu
từ lợng ma (lợng ma trung bình năm rất lớn 3000mm), trong mùa ma
6

lũ với lợng ma rất lớn, cụ thể đạt gần 600mm/ngày, đồng thời với khả
năng bốc hơi kém nên dòng nớc chảy mùa này rất lớn. Ngợc lại, vào mùa
cạn, do lợng ma thấp, bốc hơi cao, nên dòng chảy mùa này kém, dòng
chảy của sông phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ nớc ngầm.
Ngoài các đặc điểm trên, Thừa Thiên Huế còn có hệ thống đầm phá lớn
nhất nớc ta (chiếm 22000ha/ 28000ha trên cả nớc). Hầu hết sông ngòi đều
đổ vào đầm phá trớc khi đổ ra biển. Hệ thống đầm phá có tác dụng điều tiết
dòng chảy của các con sông, suối và thông ra biển Thuận an, T Hiền, Lăng
Cô, cho nên chế độ thuỷ văn của đầm phá chịu ảnh hởng trực tiếp của chế
độ thuỷ văn các con sông. Vùng cửa Thuận an và phá Tam Giang chịu chế
độ bán nhật triều đều, mỗi ngày nớc lên hai lần và xuống hai lần. Mực nớc
trong đầm phá biến động phức tạp theo không gian và thời gian, do sự chi
phối của mực nớc biển, nớc sông, đặc biển là lũ trên các sông.
1.2. Công cuộc khẩn hoang hình thành làng xã và tình hình dân
c Thừa Thiên Huế dới thời các chúa Nguyễn
Giữa thế kỷ XVI, Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận
Hoá, mở ra một thời kỳ mới cho sự khai thác vùng đất mới này. Tiên chúa
và các chúa kế vị đã tích cực xây dựng Thuận Hoá thành một địa bàn hết
sức quan trọng, chỗ dựa cho việc củng cố thế lực Đàng Trong. Cùng đi theo
Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá có gần 1000 nghĩa dũng quan quân và bà
con dòng họ ở quê hơng vùng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hoá, họ
đã ồ ạt vào khai phá làm ăn trên vùng đất này. Theo mô tả của một số nhà
viết sử đơng thời đã cho rằng "đây là một cuộc di dân thực sự", có thể nói
đây là đợt c dân ngời Việt vào Thuận Hoá đông đảo nhất. Bằng những

chính sách khôn khéo, linh hoạt, táo bạo của các chúa Nguyễn đã nhanh
chóng biến Thuận Hoá thành địa bàn hết sức quan trọng cho sự nghiệp mở
rộng lãnh thổ quốc gia vào phía Nam.
Trong hơn 2 thế kỷ trị vì, các chúa Nguyễn đã xây dựng Thuận Hoá trở
thành thủ phủ của một vơng triều, dinh phủ đợc chuyển dần từ Quảng Trị
vào Thừa Thiên Huế. Từ đấy, Thuận Hoá, Thừa Thiên Huế đợc xem nh là
"trạm trung chuyển" trên bớc đờng Nam tiến của dân tộc. Năm 1774, lợi
dụng sự suy yếu của họ Nguyễn, chúa Trịnh đa quân chiếm Phú Xuân. Năm
1786, Nguyễn Huệ đem quân đánh Phú Xuân, từ Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã
tiến quân về Thăng Long, giải phóng đất nớc thoát khỏi sự xâm lợc của
quân Thanh, đồng thời xoá bỏ những cản trở cho sự nghiệp thống nhất đất
nớc. Phú Xuân - Huế trở thành kinh đô của triều đại Quang Trung.
Từ cực Nam của đất nớc, Nguyễn ánh đã phục hồi lực lợng. Lợi
dụng những sơ hở của triều đại Tây Sơn, Nguyễn ánh dần chiếm lại những
vùng đất do Tây Sơn chiếm giữ. Đến 1801, Nguyễn ánh đã đến Phú Xuân
7

sau đó tiến ra Bắc Hà, triều đại Tây Sơn kết thúc. Nguyễn ánh lên ngôi,
chọn Phú Xuân - Huế làm kinh đô của đất nớc, bắt đầu đề ra nhiều chính
sách, biện pháp để nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội. Trong
đó đặc biệt chú ý các chính sách khẩn hoang, đo đạc ruộng đất, lập địa bạ,
xây dựng các công trình đê điều thuỷ lợi Thừa Thiên Huế ngoài chức năng
là vùng đất có thủ đô, còn là vùng đất dựng nghiệp của họ Nguyễn, chắc
chắn Gia Long và các vị vua tiếp theo đề ra những biện pháp mang tính
riêng biệt dành cho vùng đất này.
Nh vậy, đến năm 1834, Thừa Thiên Huế gồm 6 huyện, 31 tổng, 431
xã, thôn, phờng, ấp. Số lợng làng xã tăng lên so với năm 1810 thời Gia
Long là do việc tách huyện, một số làng xã cũng đợc tách ra thành lập làng
mới. Trong thời kì này vua Minh Mạng cũng tiến hành lập địa bạ, trong đó
số địa bạ Thừa Thiên Huế dới thời Minh Mạng chiếm tỷ lệ thấp, phần lớn

là sao y bản thời Gia Long và một số địa bạ của những làng mới thành lập.
Ngay từ thời tiền sử và sơ sử, địa bàn Thừa Thiên Huế đã từng hiện
hữu nhiều nền văn hoá khác nhau. Điều đó chứng tỏ đã có sự đan xen, giao
lu văn hoá của các tộc ngời từng sinh sống trên mảnh đất này cho đến
ngày nay, ở Thừa Thiên Huế vẫn tồn tại nhiều tộc ngời, tuy thời gian các
lớp c dân đó đến đây sớm muộn có khác nhau:
C dân Chăm: Trong gần 7 thế kỷ cai quản của vơng quốc Chăm,
do nhiều biến động về tình hình chính trị, quân sự, c dân Chăm vốn chiếm
đa số ở Thừa Thiên Huế, họ đã lần lợt rời khỏi đất này đi về phía Nam.
Tuy nhiên, cũng có một số ở lại sống cộng c với ngời Việt, thêm vào đó
có một số quan tớng Chăm do bất đồng chính kiến đã từ đất Chăm ra định
c ở Thừa Thiên Huế.
C dân Việt: Về thành phần c dân, qua khảo sát số làng xã ở Thừa
Thiên Huế, đa số trong họ là dân nghèo quê đất Bắc, tập trung ở Nghệ An,
Thanh Hoá, Hải Dơng, Bắc Ninh, Cao Bằng Một số đợt bổ sung dân c
ngời Việt vào Thuận Hoá rất lớn và rất quan trọng là lúc Đoan quận công
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận hoá (1558). Nhiều dòng họ lớn từ Thanh
Hoá và một số vùng khác đã vào lập nghiệp ở Thừa Thiên Huế, nh các họ
Nguyễn Hữu, Nguyễn Cửu quê Gia Miêu ngoại trang; Trơng Phúc quê
Hoàng Vân, Tống Phúc, Trơng Văn, Hồ quê tổng Thợng Bạn ; có một
số dòng họ khác nh Nguyễn Đình sau đổi Nguyễn Khoa quê làng Trạm
Bạc, Hải Dơng Đây là những dòng họ lớn, có vị trí ở Thừa Thiên Huế
thời các chúa Nguyễn và có thể đến ngày nay. Trong cuộc chiến tranh Trịnh
- Nguyễn kéo dài hàng thập kỷ, các chúa Nguyễn cũng nhiều lần đa quân
ra bắc đánh Hà Tĩnh - Nghệ An, họ Nguyễn đã bắt một số tù binh, dân
nghèo các vùng trên vào Nam làm ăn sinh sống, chẳng hạn qua các năm
1648, 1655
8

Ngoài lực lợng c dân Đàng Ngoài, giai đoạn cuối thế kỷ XVIII khi

phong trào nông dân Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân, một bộ phận c dân
các trấn miền Trung nh: Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam đã
theo Nguyễn Huệ để phò tá, họ đã chính thức c trú, nhập tịch vào các làng
xã ở Thừa Thiên Huế. Sau khi chiếm lại Phú Xuân, Gia Long cho xây dựng
kinh đô, một số quan chức và thuộc hạ ở Nam bộ đã theo nhà vua về Huế.
Cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, trên địa bàn Thừa Thiên Huế đã có nhiều đợt
di dân ngời Việt từ mọi miền về định c. Nhìn chung trong cơ cấu dân c
ở đây, ngời Việt chiếm u thế tuyệt đối.
Việc nhập c ngời Hoa: Địa bàn Thừa Thiên Huế cũng tiếp nhận
những tầng lớp c dân ngời Hoa đến sinh sống làm ăn. Đến cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX do nhiều biến động về tự nhiên và thị trờng buôn
bán, c dân ngời Hoa chuyển dần lên sinh sống gần kinh đô Phú Xuân, họ
chuyển lên Bao Vinh rồi chợ Dinh, bỏ rơi Thanh Hà.
Bên cạnh các lực lợng dân c trên, ở địa bàn Thừa Thiên Huế còn có
bộ phận sống ở miền núi phía Tây, đó là đồng bào dân tộc thiểu số Tà Ôi -
Pa Cô, Bru - Vân Kiều, Cơ Tu. Số dân ít, sống rãi rác trên các thung lũng
của dãy Trờng Sơn, cho đến đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn vẫn cha có
chính sách cụ thể trong việc quản lí tầng lớp dân c này.
Sự biến động về dân số ở Thừa Thiên Huế qua các thời kỳ lịch sử đã
cho thấy: có 2 lần gia tăng dân số ở đây vào các giai đoạn cuối thế kỷ XV
và nửa sau thế kỉ XVI. Điều này phản ánh đúng thực tiễn quá trình di dân
của ngời Việt từ Đàng Ngoài vào Nam, tạo thuận lợi cho công cuộc khẩn
hoang lập làng, phát triển kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế.
1.3. Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế
dới thời các chúa Nguyễn
1.3.1 Tình hình ruộng đất
Nghiên cứu ruộng đất Thừa Thiên Huế trớc thế kỷ XIX, chúng tôi
sử dụng những ghi chép của Lê Quí Đôn trong "Phủ biên tạp lục". Tuy
nhiên trong công trình trên, tác giả mới trình bày một cách khái quát về
ruộng đất các huyện bao gồm tổng diện tích công t, đất hoang hoá, gò đồi,

bãi cát, thổ mộ
Kết hợp t liệu th tịch, chúng tôi đã tiến hành khai thác t liệu điền
dã ở các địa phơng. Do t liệu ruộng đất còn lại rất ít, việc khôi phục diện
mạo ruộng đất trớc thế kỷ XIX rất khó khăn. Trong hơn hai thế kỷ tồn tại,
các chúa Nguyễn và Tây Sơn đã nhiều lần khám đạc ruộng đất cho lập địa
bạ. Trong số địa bạ su tầm đợc, số lợng nhiều nhất là năm Cảnh Trị VII
(1669), loại sớm nhất là năm Quang Hng IX (1586) (loại này duy nhất chỉ
khai thác đợc 1 địa bạ của xã An Lỗ, huyện Quảng Điền); một số địa bạ
9

các năm Quang Hng XIV (1591), Hoằng Định VI (1605), Thịnh Đức VI
(1658), Cảnh Trị VII (1669).
Các loại hình sở hữu ruộng đất: cho đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, ở Thừa Thiên Huế tồn tại 3 loại hình sở hữu ruộng đất.
+ Ruộng đất công làng xã: là loại ruộng đất tồn tại phổ biến, do làng
xã quản lý, loại đất này cũng thuộc quyền sở hữu tối cao của phủ chúa,
nhng vẫn duy trì ít nhiều tính chất công hữu của làng xã. Thực chất vấn đề
sở hữu và việc quản lí ruộng đất trong thời gian đầu của các chúa Nguyễn
không đợc chặt chẽ lắm, nhng càng ngày việc quản lí ruộng đất càng chặt
chẽ hơn do tình trạng bao chiếm ruộng đất của các quan lại địa phơng. Với
số ruộng đất thực có của làng xã, chúa Nguyễn đã đem chia cho dân làng xã
theo lệ quân điền nhà Lê. Ruộng đất công phần lớn tập trung chủ yếu ở
Thuận Hóa, càng vào phía Nam, ruộng đất công càng ít.
+ Ruộng đất t: vốn tồn tại từ trớc khi các chúa Nguyễn vào cát cứ,
nó đợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có xu hớng ngày càng
phát triển. Hình thức sở hữu t nhân về ruộng đất t Thừa Thiên Huế đợc
phát triển do chủ trơng của chúa Nguyễn Phúc Tần năm 1669, chúa sai văn
thần Hồ Quang Đại đo đạc lại ruộng đất thực canh và hạ lệnh "ai đem sức
mình ra khai phá những chỗ rừng rú, bỏ hoang thành ruộng thì cho làm bản
bức t điền".Tuy nhiên, tỷ lệ ruộng đất t hữu ở Thừa Thiên Huế thấp hơn

nhiều so với các địa phơng khác trong cả nớc.
+ Ruộng đất quan: bao gồm quan đồn điền và quan điền trang, do
nhà nớc quản lý, dùng cấp ngụ lộc và xây dựng công sở , loại ruộng đất
này về hình thức là ruộng đất công, nhng thực chất là thuộc quyền sở hữu
trực tiếp của phủ chúa, bởi vì hoa lợi thu đợc chỉ phục vụ cho sinh hoạt
trong vơng phủ. Ngoài quan đồn điền, quan điền trang còn có các loại
quốc gia công thổ khác nh ao hồ, sông ngòi, đồi núi, bạch sa thổ
Thống kê trong "Phủ biên tạp lục" do các tổng, xã kê khai, theo đó,
ruộng đất các loại ở Thừa Thiên Huế, đến năm 1776 là 86882.1.7.1, trong
đó diện tích thực canh 57895.9.5.1.9, tỷ lệ 66,6%;, diện tích không sử dụng
là 28986.8.1.9.1, tỷ lệ 33,4%. Số lợng theo từng huyện nh sau:
10

Bảng 1. Diện tích ruộng đất 3 huyện ở Thừa Thiên Huế thống kê 1776

Diện tích thực canh

D.tích không sử dụng

Huyện
Tổng
diện tích
Diện tích % Diện tích %
Hơng Trà
Quảng Điền
Phú Vang
33287.0.12.4
14020.4.4.1
39574.6.5.6
19442.1.3.6

10419.6.0.8
28034.2.0.7.9

58,4
74,3
70,8

13845.5.8.8
3600.8.3.3
11540.4.4.8.1

41,6
25,7
29,2
Toàn tỉnh 86882.1.7.1 57895.9.5.1.9

66,6

28986.8.1.9.1

33,4
Nguồn: Lê Quí Đôn, Phủ biên tạp lục
Trong số lợng tổng diện tích thống kê trên, không phân loại ruộng
đất công, t. Tuy nhiên, dựa vào một số t liệu địa phơng thời các chúa
Nguyễn có thể thấy tỷ lệ các loại hình sở hữu ruộng đất công chiếm đa số,
ruộng đất t chiếm tỷ lệ rất thấp, thậm chí có địa phơng không ghi số
lợng ruộng đất t trong địa bạ.
1.3.2 Kinh tế nông nghiệp
Cũng nh các địa phơng khác ở nớc ta, cho đến nửa đầu thế kỷ
XIX, Thừa Thiên Huế vẫn sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Điều kiện khí

hậu thời tiết ở Thừa Thiên Huế rất khắc nghiệt, thiên tai, hạn hán xảy ra
thờng xuyên, đe doạ sản xuất nông nghiệp,năng suất lúa cao nhng bấp
bênh. So với các địa phơng khác trong nớc, Thừa Thiên Huế không phải
là vùng trọng điểm nông nghiệp, cho nên nhiều ngành nghề hỗ trợ cho nông
nghiệp rất đa dạng, trong đó đáng chú ý là các nghề thủ công.
Để phục vụ sản xuất nông nghiệp, các chúa Nguyễn đã tập trung xây
dựng nhiều công trình trị thủy, thủy lợi. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình
nên ở Thừa Thiên Huế không có những công trình thủy lợi lớn, phần nhiều
là các công trình nhỏ và vừa do nông dân các làng xã đảm nhiệm
Chơng 2:
Tình hình ruộng đất Thừa thiên huế
nửa đầu thế kỷ xix
2.1. Tình hình ruộng đất ở Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỉ XIX
qua su tập địa bạ:
Trong toàn bộ su tập địa bạ triều Nguyễn ở Thừa Thiên Huế, đợc
học giả Nguyễn Đình Đầu công bố trong công trình của mình ,bao gồm 329
11

tập, của 210 làng xã (trên tổng số 354 làng xã thời điểm lập địa bạ), số địa
bạ này hiện đang lu giữ tại Trung tâm lu trữ Quốc gia I. Ngoài việc sử
dụng số liệu của Nguyễn Đình Đầu, tác giả luận án đã tiến hành công tác
thực tế điền dã đến các địa phơng và đã bổ sung thêm hàng chục địa bạ
đợc khai thác các làng xã. Xử lý thông tin trong địa bạ triều Nguyễn ở
Thừa Thiên Huế, chúng tôi có một số nhận xét:
- Thứ nhất, địa bạ ở Thừa Thiên Huế đợc lập trong một thời gian dài,
bắt đầu từ năm 1810 kéo dài đến cuối thời Minh Mạng mới xong. Tuy
nhiên, đa số địa bạ Thừa Thiên đợc lập thời vua Gia Long, nhiều nhất là
Gia Long 13, Gia Long 14.
- Thứ hai, các địa bạ ở Thừa Thiên đợc lập theo mẫu quy định đợc
ban hành năm 1810 (Gia Long 9). Qua địa bạ, có thể có đầy đủ các thông

tin về các loại ruộng đất công t, đẳng hạng, quan điền quan thổ các hạng,
hiện tợng xâm canh, loại ruộng đất không sử dụng Ngoài ra, địa bạ còn
ghi chép các loại: chiều dài sông, đờng thiên lí, quan lộ, xa lộ, thuỷ đạo,
đờng đê, tiểu cảng khê cừ (đơn vị, tầm, thớc), ao sen, đầm (đơn vị
sở) đây là thuận lợi cho nghiên cứu đặc điểm các loại ruộng đất và quá
trình chuyển biến của nó.
- Thứ ba, số lợng địa bạ trong su tập địa bạ triều Nguyễn ở Thừa
Thiên Huế có ở TTLTQGI có 329 tập của 210 làng xã. Số lợng theo địa
bàn từng huyện nh sau: huyện Hơng Trà còn 45 địa bạ trên 103 làng xã,
tỷ lệ 44,66%, huyện Phú Vang còn 117 địa bạ trên 162 làng xã, tỷ lệ 72,2%,
huyện Quảng Điền còn 55 địa bạ trên 89 làng xã, tỷ lệ 61,8%.
Qua số liệu thống kê trong su tập địa bạ triều Nguyễn, ruộng đất ở
Thừa Thiên Huế, bao gồm các loại hình và số lợng cụ thể nh sau:
Tổng diện tích các loại ruộng đất ở Thừa Thiên Huế là 87967.0.5.6.3
trong đó huyện Hơng Trà 6 tổng (An Hoà, An Ninh, Kế Thống, Kim
Long, Vi Dã, Phú Xuân) có 18216.5.11.8.1, huyện Phú Vang 6 tổng (Dã
Lê, Diêm Trờng, Dơng Nỗ, Đờng Hoa, Mậu Tài, S Lỗ) có
50684.5.6.3.1 huyện Quảng Điền 9 tổng (An Thành, Đông Lâm, Hạ Lang,
Hoa Lang, Khuông Phò, Phú ốc, Phù Lê, Phù Ninh, Phúc An (Yên)) với
19065.9.2.5.1. Trong tổng số diện tích các loại nêu trên bao gồm cả diện
tích sử dụng và diện tích không sử dụng: diện tích sử dụng toàn tỉnh
48705.0.2.6.7 tỷ lệ 55,3%, diện tích không sử dụng là 39262.0.2.9.6 tỷ lệ
44,7%. Đối với địa bàn từng huyện con số cụ thể nh sau:
12

Bảng 2. Diện tích ruộng đất Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX

Sở hữu công Sở hữu t Huyện Tổng diện tích

Diện tích % Diện tích %

Hơng Trà
Quảng Điền
Phú vang
18216.5.11.8.1
19065.9.2.5.1
50684.5.6.3.1
15397.6.2.6.7
16804.4.9.4.9
41212.1.6.8.4

84,2
88,4
81,3

2868.9.11.1.4
2175.3.4.3.8
9472.3.14.4.7

15,8
11,6
18,7

Toàn tỉnh 87967.5.0.6.3 73414.2.4.0.0

83,5

14516.8.3.0.9

16,5


Nguồn: Địa bạ Triều Nguyễn ở Thừa Thiên
Trong toàn bộ diện tích cả phủ Thừa Thiên, phân chia theo các loại
ruộng đất, số liệu nh sau: Công điền công thổ 28569.9.9.2.6 tỷ lệ 32,5%;
quan điền quan thổ 1550.0.4.2.4 tỷ lệ 1,76%, viên c thổ 1841.2.4.7.1 tỷ lệ
2,0%; quốc gia công thổ 41497.3.1.3.3 tỷ lệ 47,24%; t điền t thổ
14516.8.14.0.9 tỷ lệ 16,5%. Nếu diện tích "quốc gia công thổ" bao gồm đất
đình, chùa, miếu, từ đờng, chợ, đồn thành, rừng cấm, bờ đê, đất ngập nớc
(vũng, vịnh, ao, bàu), cát trắng, mộ địa vào công điền công thổ thì tỷ lệ
trên sẽ rất lớn.
2.2 Các loại hình sở hữu ruộng đất ở Thừa Thiên Huế nửa đầu
thế kỉ XIX
Quan điền, quan thổ: Là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu nhà nớc,
diện tích không nhiều lắm, nhà vua sử dụng ruộng đất này để ban thởng
cho các công thần, cho các chùa ở làng xã Thống kê trong địa bạ số diện
tích quan điền, quan thổ có 1550.0.4.2.4 chiếm 3,5% tổng diện tích ruộng
đất. Trong số đó quan điền các loại 967.5.0.6.4: gồm quan điền 551.2.12.1,
quan điền tam bảo 406.1.7.1.6, quan điền viên điền 69.5.2.7, quan đồn điền
6.1.7.5. Quan thổ các loại 582.5.3.6, gồm quan thổ 482.8.10.6.3, quan thổ
tam bảo 78.9.13.7.5, quan viên thổ 20.6.9.1.
Ruộng đất công làng x: Đây là loại ruộng đất rất quan trọng và
chiếm đa số, nó là cơ sở tồn tại của nhà nớc phong kiến, trên nguyên tắc
thuộc sở hữu nhà nớc. Tuy nhiên, thực chất loại ruộng này nhà nớc quản
lí gián tiếp, làng xã thực hiện phân chia cho nhân dân cày cấy nộp tô thuế.
Tại Thừa Thiên Huế tỷ lệ ruộng đất công chiếm đa số. Toàn diện tích Thừa
Thiên Huế 87967.0.5.6.3 trong đó sở hữu công là 73414.2.4.0.0, tỷ lệ
83,5%; sở hữu t 14516.8.3.0.9, tỷ lệ 16,5%; Ruộng đất công làng xã thuộc
quyền sở hữu tối cao của nhà nớc. Nhà nớc quản lí bộ phận ruộng đất này
thông qua bộ máy làng xã. Cho nên cộng đồng làng xã nắm quyền chiếm
13


hữu và ngời nông dân nắm quyền sử dụng ruộng đất bằng chế độ quân cấp
ruộng đất công. Đến đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long bắt tay xây dựng vơng
triều, đã có một số biện pháp thiết thực trong quản lí ruộng đất công. Việc
quản lý và phân chia là một trong những vấn đề quan trọng, liên quan đến
nhiều mặt của đời sống làng quê, cho nên, các làng xã đã quản lý ruộng đất
của làng mình rất chặt chẽ. Điều này thể hiện rất rõ nét qua các bản thừa
nhận ranh giới của các làng xã lân cận khi lập địa bạ. Triều đình nhà
Nguyễn đã đề ra nhiều biện pháp quy định cách thức phân chia ruộng công.
Việc thực hiện phân chia ruộng đất đều nằm trong thẩm quyền của bộ phận
quản trị xã thôn. Diện tích ruộng đất công các làng xã chiếm tỷ lệ lớn,
nhng do trích lại sử dụng việc công chiếm gần 50%, cho nên bình quân
ruộng đất ngời nông dân ở Thừa Thiên Huế thờng thấp.
Chính sách tô thuế nói chung, tô thuế ruộng đất công nói riêng ở
Thừa Thiên Huế cũng có những đặc điểm khác so với các địa phơng trên
cả nớc.
Năm 1803, vua Gia Long ban "Điền tô sai d thuế lệ", mức thuế
ruộng ở Thừa Thiên Huế vẫn giữ nguyên mức thuế thời các chúa Nguyễn.
Vua Minh Mạng thay đổi biểu thuế, sắp xếp lại khu vực đánh thuế,
nhng khu vực I, nơi có Thừa Thiên Huế biểu thuế giữ nguyên thời Gia
Long. Năm 1851, vua Tự Đức đã tách tỉnh Thừa Thiên thành 1 khu vực
đánh thuế riêng, thay đổi biểu thuế ruộng công ở Thừa Thiên. Thừa Thiên
Huế đã gắn liền với sự nghiệp của họ Nguyễn từ thế kỷ XVI, và là nơi đóng
kinh đô của triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX. Do đó, nhà Nguyễn đã có
những chính sách u ái nhằm giữ gìn vững chắc chỗ đứng chân, trong khi cả
nớc đầy rẫy khởi nghĩa nông dân.
Tóm lại, nghiên cứu tình hình ruộng đất công ở Thừa Thiên Huế nửa
đầu thế kỷ XIXcó thể rút ra một số nhận xét nh sau:
Việc tồn tại ruộng đất công chiếm số lợng lớn tỷ lệ trên 70%, Triều
Nguyễn mong muốn duy trì ruộng đất công, vì đây là chỗ dựa cho chính
quyền phong kiến, là cơ sở tồn tại của vơng triều.

Thứ hai là mọi chính sách quản lý ruộng đất của triều đình có hiệu
lực cao, nhng các làng xã ở Thừa Thiên Huế cũng thể hiện tính tự trị của
mình trong quản lý và phân chia ruộng đất. Việc quản lý của nhà nớc chỉ
trên mặt pháp lý.
Thứ ba, ruộng đất công tồn tại phổ biến và không ngừng đợc củng
cố, bổ sung bằng nhiều nguồn nh việc khai hoang do các làng xã tiến
hành, thành quả trở thành ruộng công.
Thứ t là việc duy trì, củng cố ruộng đất công ở Thừa Thiên Huế
trong nửa đầu thế kỷ XIX là không còn phù hợp với yêu cầu lịch sử, nó làm
14

hạn chế sự phát triển của nền kinh tế, buộc ngời nông dân vào những mảnh
ruộng công nghèo nàn, trung thành với nền kinh tế tự cung, tự túc lạc hậu,
đầy mâu thuẩn.
Ruộng đất t nhân: Thống kê số liệu qua su tập địa bạ triều
Nguyễn ở Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX, có con số cụ thể nh sau:
tổng diện tích của cả tỉnh là 87967.0.5.6.3, ruộng đất t chỉ có
14516.8.3.0.9 tỷ lệ 16,5%. Cũng nh ruộng đất công, sự phân bố ruộng đất
t giữa các huyện, các tổng và từng làng xã không giống nhau. Trong diện
tích ruộng đất t bao gồm nhiều bộ phận nh: Bổn thôn điền thổ, ruộng phe,
ruộng giáp, ruộng hậu, ruộng hơng hoả, ruộng chùa (tam bảo) Tất cả
diện. Do tính chất phức tạp, cho nên địa bạ triều Nguyễn ở Thừa Thiên ít
ghi một cách rạch ròi các hình thức sở hữu. Thờng các làng xã gộp chung
các loại này ghi thành từng khoản: thần từ, phật tự, tam bảo điền thổ

Bảng 3: Diện tích ruộng đất t ở Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX

Ruộng t Đất t Huyện Tổng diện
tích ruộng
đất t

Diện tích % Diện tích %
Hơng Trà
Phú Vang
Quảng Điền

2868.9.11.1.4
9472.3.11.4.7
2175.4.7.4.8
2573.0.6.2.5
8046.8.8.3.3
1342.8.11.9.1
89,7
85,0
61,7
295.5.4.8
1416.4.5.6
832.5.10.7.6

10,3
15,0
38,3
Tổng cộng
14516.8.3.0.9

11971.7.11.4.9

82,46

2533.9.6.9 17.54


Nguồn: Địa bạ Triều Nguyễn ở Thừa Thiên
Về qui mô sở hữu cá nhân: Số liệu ruộng đất t đợc thống kê qua
su tập địa bạ ở Thừa Thiên là 14516.8.3.0.9 chiếm tỷ lệ 17,54% tổng diện
tích của cả tỉnh. Tỷ lệ đó đối với phạm vi huyện không chênh lệch đáng kể.
Qua bảng thống kê diện tích ruộng đất t trên địa bàn huyện Phú
Vang cho thấy: tổng diện tích ruộng đất t toàn huyện là 9472.3.14.4.7,
trong đó t điền là 8046.8.8.3.3, t thổ 1416.4.6.5.4 (bao gồm cả diện tích
t điền t thổ xâm canh). Trong lúc đó số chủ sở hữu ruộng đất t của
Huyện ớc tính 10056 ngời, nếu tính bình quân 1 ngời cha đầy 1 mẫu.
Bình quân sở hữu một chủ trên 10 mẫu đất rất ít, chủ yếu tập trung ở tổng
Kế Thống huyện Hơng Trà, nơi có tỷ lệ t điền lớn so với diện tích thực
canh. Một số làng xã vên đô Phú Xuân, do có nhiều diện tích ruộng t
chuyển thành đất vờn, nhà, do vậy bình quân sở hữu cao.
Hầu hết các làng xã, bình quân sở hữu ruộng đất t rất thấp, từ 1 sào 5
thớc đến 1 mẫu 5 sào. Đây là một tỷ lệ rất khiêm tốn so với địa bàn các
tỉnh khác. Nếu áp dụng phơng pháp tính cơ học theo tỷ lệ, số ngời sở hữu
15

dới một mẫu ở Thừa Thiên Huế chiếm đa số, khoảng gần 80%, số ngời có
sở hữu trên 1 mẫu đến 5 mẫu khoảng 15%, từ 5 mẫu trở lên khoảng 5%, số
ngời sở hữu trên 50 mẫu không đáng kể.
Sự biến động về sở hữu ruộng đất ở Thừa Thiên Huế trong nửa đầu
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX không đáng kể. Tỷ lệ ngời có sở hữu dới 1
mẫu vẫn chiếm u thế 78%; từ 1 đến 5 mẫu chỉ có 17,2%; số ngời chiếm
hữu từ 5 mẫu trở lên không tăng bao nhiêu. Tuy nhiên, trên địa bàn cả tỉnh
có 11 ngời sở hữu trên 50 mẫu. Mặc dù so sánh hai giai đoạn nửa đầu thế
kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, cha thể đa ra một nhận xét chính xác, nhng
cũng có thể có cái nhìn khái về tỷ lệ sở hữu t nhân về ruộng đất trên vùng
đất Thừa Thiên Huế.
Về qui mô của thửa ruộng: Một điều dễ nhận thấy là mức độ tập

trung ruộng đất ở đây rất thấp. Khảo sát địa bàn Phú Vang, trong tổng số
diện tích ruộng đất t nhân là 9472.3.14.4.7, nằm trong tay 10056 chủ đất.
Số diện tích trên phân bổ trên 11844 thửa, bình quân 1 thửa là 0.80.1.
Số sở hữu chủ là nữ chiếm tỷ lệ thấp, thống kê các địa bạ có ruộng đất
t, số ngời sở hữu là nữ chiếm từ 10 đến 15%. Sở hữu chủ là các chức dịch
và quan lại: Qua khảo sát đại bạ một số làng xã ven đô nh Kim Long, Vi
Dã, Xuân Hoà một bộ phận ruộng trở thành đất t của các công hầu, quí
tộc, công chúa, hoàng tử Bộ phận chức dịch ở các làng xã sở hữu ruộng
đất không nhiều. Thống kê số chức dịch có sở hữu ruộng đất khoảng dới
60%, trên 30% không có ruộng đất t. Trong số chức dịch có ruộng đất t,
thờng là đất t nhiều hơn ruộng t, qui mô từ 5 sào đến 1 mẫu chiếm đa
số, trên 1 mẫu đến 3 mẫu ít hơn. Nh vậy, tại kinh đô Phú Xuân sự tập
trung quan lại rất đông, nhng hầu hết số quan lại này đã đợc nhận ruộng
khẩu phần ở địa phơng. Đến kinh đô họ không đợc cấp thêm ruộng đất.
Các chủ đất là chức sắc ở các làng xã.
Tình hình ruộng đất xâm canh: Thống kê 21 tổng trên địa bàn Thừa
Thiên Huế có đến 14 tổng có số lợng diện tích xâm canh tỷ lệ 66,6%. Có
thể coi đây là hiện tợng phổ biến, tuy nhiên mức độ nhiều ít khác nhau. Về
số chủ xâm canh tuỳ thuộc diện tích xâm canh từng làng xã, bình quân
ruộng đất xâm canh của các chủ xâm canh, tơng đơng với bình quân sở
hữu của dân bổn xã.
Chủ trơng chung của triều Nguyễn là "nghiêm cấm việc mua bán
chuyển nhợng ruộng đất công", tức là cấm "việc biến công vi t", tuy
nhiên, đối với các loại ruộng đất t vốn đã tồn tại trong sổ sách địa bạ nh
là một sản phẩm khách quan của lịch sử. Cũng nh ruộng đất công, triều
đình có một số chính sách đối với ruộng đất t, nh đền tiền đối với những
diện tích bị sở hữu vào việc công. Với chế độ tô thuế ruộng t cao hơn
16

ruộng công, rõ ràng đây cũng là một lí do vì sao ruộng t không đợc mở

rộng, phát triển ở Thừa Thiên Huế. Diện tích nhìn chung thấp, chiếm tỷ lệ
không quá 20%, ít có điều kiện mở rộng, điều này đợc lí giải bởi lý do
khách quan và chủ quan ở vùng đất kinh đô; tính cố kết cộng đồng trong
các làng xã rất chặt chẽ, họ duy trì và củng cố số lợng ruộng đất công rất
lâu dài, việc biến công vi t rất khó khăn; hiện tợng mua bán, chuyển
nhợng ruộng đất rất ít diễn ra, vì tô thuế ruộng đất công thấp hơn ruộng đất
t; tâm lý ngời dân trong làng xã cũng mong muốn duy trì ruộng đất công.
2.3 Các mối quan hệ x hội trong vấn đề ruộng đất
- Quan hệ giữa làng xã và nhà nớc: Việc quản lí ruộng đất của nhà
nớc thông qua bộ máy làng xã rất chặt chẽ, hiện tợng ẩn lậu ruộng đất
không diễn ra. Qua nghiên cứu của một số địa bạ ở một số làng xã kết hợp
với t liệu ghi chép về ruộng đất hiện đang lu giữ tại địa phơng số liệu
không thay đổi.
Biến động ruộng đất không đáng kể, thể hiện qua các lần lập địa bạ
trên một địa phơng nhất định. Các địa bạ đợc lập trong giai đoạn sau
thờng là bản tái lập, chỉ ghi thêm những biến đổi về diện mạo ruộng đất do
sạt lở, khai hoang thêm những diện tích đã đo đạc từ trớc, hiện ghi trong
địa bạ đang giữ tại Bộ Hộ, chiểu theo đóng triện của Phủ đờng và của Bộ ở
những chỗ sửa chữa. Một số diện tích ruộng đất của làng xã do nhà nớc sử
dụng vào việc công đều đợc đền bù bằng tiền hoặc miễn thuế. Tất cả
những vấn đề liên quan đến tranh kiện ruộng đất đều viết đơn gửi lên Bộ
Hộ,và đợc Bộ Hộ trực tiếp giải quyết. Điều này lí giải tại sao ở Thừa Thiên
Huế không thấy nêu hiện tợng ẩn lậu ruộng đất. Vai trò của nhà nớc đối
với các loại ruộng đất khá rõ nét, việc duy trì ruộng đất công khá chặt chẽ.
- Quan hệ giữa làng xã với làng xã: Quan hệ giữa làng xã với làng xã
xung quanh vấn đề ruộng đất trong suốt thời kỳ phong kiến nói chung là
xác định ranh giới giữa các làng xã. Điều đó phản ảnh qua địa bạ: hầu hết
các địa bạ, ngoài những thông tin chính của một địa bạ, có kèm theo các
bản thừa nhận ranh giới của các làng lân cận, có thể thấy rằng đây là đặc
trng của việc lập địa bạ ở Thừa Thiên. Có những làng xã, kèm theo 12 bản

thừa nhận ranh giới, để đi đến ký xác nhận ranh giới giữa hai làng, hàng
chức sắc của 2 làng đã họp xác định ranh giới, lập biên bản, hai bên đồng kí
tên, điểm chỉ và đóng ấn làm bằng. Việc lập các bản thừa nhận ranh giới
giữa các làng thể hiện quan hệ giữa làng xã với làng xã, đồng thời khẳng
định quyền chiếm hữu của từng làng xã đối với ruộng đất của mình .
Một trong những vấn đề nổi bật giữa quan hệ làng xã với làng xã thời
phong kiến là việc tranh chấp ruộng đất. Trên địa bàn Thừa Thiên Huế trong
nửa đầu thế kỷ XIX chắc chắn cũng diễn ra nhng ở mức độ không gay gắt.
17

Đặc điểm bao trùm trong quan hệ giữa làng xã với nhà nớc, giữa
làng xã và làng xã đó là hiện tợng ẩn lậu ruộng đất ít xảy ra. Chính sự ổn
định về tình hình ruộng đất có ý nghĩa quyết định trong việc giữ gìn ổn định
xã hội ở vùng kinh đô Phú Xuân trong nửa đầu thế kỷ XIX.
Chơng 3:
Tình hình kinh tế nông nghiệp Thừa thiên huế
nửa đầu thế kỷ xix
3.1. Tình hình canh tác nông nghiệp
Thừa Thiên Huế, nơi có địa hình khá đặc biệt so với các địa phơng
khác trong cả nớc. Nó nh hình ảnh cả nớc thu nhỏ: vừa có vùng ven
biển, có đồng bằng, có trung du và đồi núi. Đặc biệt, đây là tỉnh có diện tích
đầm phá lớn nhất nớc, chiếm 22000 ha, trên tổng số 28000 ha diện tích
đầm phá của cả nớc, chiếm tỷ lệ 4,4% diện tích tự nhiên của tỉnh.
Địa hình của tỉnh thấp dần từ Tây sang Đông, bởi dãy Trờng Sơn
Bắc đổ về đồng bằng duyên hải ra phía biển. Qua nghiên cứu địa hình và
phân loại chất đất theo địa hình, chúng ta thấy tính đa dạng của đồng ruộng
Thừa Thiên Huế. Cho nên việc phân loại độ cao ở đồng ruộng có tính chất
tơng đối và lệ thuộc nhiều các yếu tố điạ hình.
Kĩ thuật làm đất: Cho đến thế kỉ XIX, ngời nông dân Thừa Thiên
Huế đã khẳng định đợc thứ tự các khâu trong sản xuất nông nghiệp: nhất

nớc, nhì phân, tam cần, tứ giống
Trong sản xuất nông nghiệp, diện tích trồng lúa vẫn chiếm đa số. Tùy
theo độ cao, chất đất để gieo cấy các giống lúa thích hợp, sản xuất nông
nghiệp ở đây có hai vụ: vụ hè là vụ chính, vụ thu là vụ trái; ngoài ra còn có
vụ mời nhng diện tích không đáng kể, thu hoạch bấp bênh. Ngoài cây
lúa, những vùng cồn, trằm, đội (gần vùng núi) , soi, gò, bãi (bãi bồi ven
sông), ngay cả những xứ đồng thiếu nớcđợc dùng trồng các cây lơng
thực khác nh sắn, khoai, đỗ, ngôcây công nghiệp nh lạc, vừng (mè)
3.2. Công tác trị thủy - thủy lợi
Nhằm phục vụ cho công cuộc khai hoang mở rộng địa bàn trên đất
Thuận Hoá, ngay từ cuối thế kỷ XVI, XVII các chúa Nguyễn đã cho tiến
hành nhiều công trình đào kênh, đắp đập phục vụ đi lại và sản xuất nông
nghiệp. Sang đầu thế kỷ XIX, khi vua Gia Long lên cầm quyền, một mặt
đẩy mạnh công tác đê điều ở đồng bằng Bắc bộ, mặt khác tiến hành nhiều
công trình ở Thừa Thiên Huế, nơi có kinh đô Phú Xuân.
Từ khi Minh Mạng lên ngôi (1820), triều đình tập trung đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp. Đối với vùng đất Thừa Thiên Huế đợc sự quan tâm đặc
18

biệt. Hệ thống sông An Cựu đợc đào từ năm 1814, sau 7 năm hoạt động,
con sông đã đáp ứng đợc nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân huyện
Phú Vang, Hơng Thủy. Trên cánh đồng Thừa Thiên Huế, hệ thống những
con sông nhỏ nh sông Phú Xuyên là phổ biến. Do dòng chảy nhỏ, mực
nớc thấp so với độ cao đồng ruộng, muốn đa nớc vào ruộng phải đắp
đập ngăn sông giữ nớc, cho nên, các đập nhỏ đợc đắp rất nhiều Những
đập này thờng quy mô nhỏ và đắp hàng năm, dài từ 70- 100 trợng, cao 5
trợng, cửa sông rộng 1 trợng
Song song với hoạt động đào dắp các công trình phục vụ sản xuất
nông nghiệp và sinh hoạt, việc nạo vét các lòng sông đợc tiến hành thờng
xuyên. Từ năm 1840 về sau, dới triều vua Thiệu Trị, Tự Đức, công tác trị

thuỷ - thuỷ lợi vẫn đợc quan tâm, nhng do phần lớn các công trình đã
tơng đối hoàn chỉnh từ gần 4 thập kỷ trớc, nhất là giai đoạn 1820 - 1840.
Công tác trị thủy - thủy lợi ở Thừa Thiên Huế, ngoài chức năng phục
vụ sản xuất nông nghiệp còn đảm nhiệm vai trò bảo vệ kinh đô Phú Xuân.
Cho nên, công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế mang ý nghĩa chính
trị nhiều hơn là ý nghĩa kinh tế. Trong hệ thống các công trình trị thủy, thủy
lợi ở Thừa Thiên Huế, ngoài những công trình do nhà nớc điều động, các
công trình vừa và nhỏ do làng xã đề đạt và xin phép để thực hiện.
3.3. Tình hình ruộng đất hoang và công cuộc khai khẩn ruộng
đất hoang
Trong chính sách khai hoang dới vơng triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ
XIX, vùng Thừa Thiên Huế không phải là trọng điểm. Một số diện tích khai
hoang đợc thực hiện bởi vai trò của nhà nớc. Năm 1838, vua Minh Mạng
ban dụ đặt đồn điền ở Tả Hữu Trạch Nguyên. Do diện tích đất hoang có thể
canh tác đợc còn ít, triều đình còn kêu gọi ngời dân tận dụng những diện
tích ít ỏi còn bỏ hoang: ven bờ sông, chân đèo Hải Vân và ngay cả một số
diện tích trong kinh thành, có thể khai thác trồng cây hoa màu.
3.4. Nghề làm vờn
Ngay từ khi vào khai hoang lập làng ở Thuận Hóa, ngời dân đã biết
tận dụng đặc điểm địa hình ở đây, tạo thành cơ cấu kinh tế phổ biến là
"ruộng - vờn - rẫy". Do diện tích ruộng ít cho nên làm vờn trở thành một
nghề trong c dân làng xã. Hầu hết các hộ gia đình đều có một khu vờn
chung quanh ngôi nhà của mình. Chính sự manh mún trong phần ruộng đất
t hữu ghi trong địa bạ đã phản ánh tình hình trên.
Nguồn thu nhập từ vờn đóng góp một phần cho đời sống ngời nông
dân trong khi ruộng đất và sản lợng lúa không đủ cung cấp. Ngoài những
khu vờn của giới quý tộc, hầu hết diện tích còn lại ngời dân thờng trồng
19

nhiều loại cây khác nhau tuỳ theo chất đất, thời vụ và giống cây trồng, cho

nên vờn ở Thừa Thiên Huế rất đa dạng về giống cây trồng.
3.5 Hoạt động ng nghiệp của c dân sông nớc và đầm phá
Trong buổi đầu khai phá đất Thuận Hoá, c dân Đàng Ngoài chủ yếu
đi bằng đờng biển. Họ định c dọc theo bờ biển, ven đầm phá. Có thể nói
cùng với sản xuất nông nghiệp thì ng nghiệp ra đời sớm ở Thừa Thiên Huế.
Điều kiện tự nhiên ở Thừa Thiên Huế đã tạo cho ng nghiệp phát
triển. Hệ thống đầm phá nớc lợ chiếm tỷ lệ lớn nhất nớc ta, chiều dài
68km bắt đầu từ cửa sông Ô Lâu đến phá Tam Giang, thông qua các đầm
chuyển tiếp nh: An Truyền, Sam, Hà Trung, Thuỷ Tú rồi nối với đầm Cầu
Hai ở phía Nam. Giáp chân núi Vĩnh Phong, ngoài ra còn có đầm độc lập ở
cực nam là đầm Lăng Cô (đầm An C). Đầm phá chiếm 4,3% diện tích lãnh
thổ, 17,2% diện tích đồng bằng. Hệ thống đầm phá Thừa Thiên Huế nằm
trên địa phận 32 xã thuộc 5 huyện ven biển, giữ một vị trí quan trọng trong
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3.6 Chăn nuôi: Không phải là nghề quan trọng ở vùng đất này.
3.7 Một số ngành nghề hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
3.7.1 Một số ngành nghề thủ công
Nh phần trên đã trình bày, sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế
chính của Thừa Thiên Huế, nhng do bình quân ruộng đất đầu ngời thấp,
thời vụ bấp bênh, cho nên ngời dân Thừa Thiên Huế không chỉ sống chủ
yếu bằng nông nghiệp mà còn có một nghề khác hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp.
Đến cuối thế kỷ XVIII, Lê Quí Đôn đã thống kê ở Thừa Thiên Huế
(phủ Triệu Phong) có đến 43 làng nghề, trong đó phổ biến nhất là nghề dệt
nh Phú Cam, Sơn Điền, Dơng Xuân, Vạn Xuân, Phú Xuân, Đồng Di,
Quan Lễ, Dơng Nỗ, An Lu, Quảng Xuyên, Lạc Nô, Địa Linh, Mỹ Lợi,
Kim Long ; nghề luyện rèn sắt nh Phù Bài, Mậu Tài, Phờng Đúc, Võng
Trì, An Lu; các nghề chế biến thực phẩm, làm bánh có La Khê, Tri Lễ;
làm đờng nh Long Hồ, Tân Quán, Tân Mỹ; làm muối nh Diêm Trờng,
Phụng Chính, Hà Thanh
Đến đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đợc thành lập, vua Gia Long

chọn Phú Xuân làm kinh đô. Thừa Thiên Huế trở thành nơi qui tụ và phát
triển của tầng lớp quan lại, quí tộc thợng lu. Cho nên nhu cầu tiêu thụ sản
phẩm thủ công ngày càng tăng, Huế trở thành nơi tụ hội đợc những tinh
hoa và bớc đầu tiếp xúc đợc kỹ thuật tiên tiến. Các làng xã chung quanh
kinh đô Phú Xuân có điều kiện phát triển nghề thủ công truyền thống và
nhiều nghề mới nảy sinh. Thời kỳ này có hệ thống công xởng của nhà
nớc gọi là Tợng cục, với 62 ty thợ để tổ chức 62 nghề thủ công khác
20

nhau. Sản phẩm của các Tợng cục này chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt
trong hoàng cung và cho nhà nớc, nh: đóng tàu thuyền, đúc súng, đúc
tiền, may quần áo, mũ mão cho vua quan trong triều. Các thợ thủ cong làm
việc trong các Tợng cục này theo chế độ lao dịch, cỡng bức, cho nên ít
nhiều hạn chế khả năng sáng tạo của thợ thủ công.
3.7.2 Hoạt đông thơng nghiệp dân gian vùng nông thôn
Thừa Thiên Huế:
Từ thế kỷ XVIII, trên địa bàn Thừa Thiên Huế đã có hiện tợng một
số nông dân cho thuê ruộng, họ dùng tiền cho thuê để chuyển sang buôn
bán, nhất là buôn gạo từ Gia Định, Đồng Nai về Phú Xuân, ngợc lại mang
sản phẩm thủ công vào bán ở Đàng Trong. Những chuyến thuyền buôn
đờng dài nhanh chóng thu hút lợng nông dân, ngời giàu có bỏ nghề
nông chuyển sang nghề buôn.
Cùng với việc buôn đờng dài, buôn bán nội hạt cũng dần dần phát
triển. Chính vị trí địa lý của Thừa Thiên Huế, nơi hoạt động đờng sông,
đờng biển rất thuận lợi, đã tạo điều kiện cho khách buôn các nơi về đây
buôn bán. Hoạt động nhộn nhịp của thủ công nghiệp tại các làng xã đã tạo
ra nguồn hàng hoá thúc đẩy thơng nghiệp phát triển.
Từ thế kỷ XVI, Dơng Văn An ghi lại cả Thuận Hoá chỉ có 3 chợ,
đến thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã phản ảnh cảnh buôn bán tấp nập ở đất
Chính dinh, nhiều chợ lang hình thành và phát triển, tại nhiều địa phơng

còn lu giữ các hồ sơ xin lập chợ gửi lên triều đình và đợc triều đình phê
duyệt cho thành lập.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX "Đại Nam nhất thống chí" đã ghi chép đầy
đủ hệ thống chợ ở đây bao gồm: 9 chợ vùng, chợ huyện, trong đó huyện
Hơng Trà có 4 chợ, các huyện còn lại 1 huyện 1 chợ và 34 chợ các xã thôn.
Có thể nói, đến thế kỷ XIX, hoạt động buôn bán ở Thừa Thiên Huế có
vai trò rất quan trọng đối với đời sống dân c, kết hợp nông nghiệp, thủ
công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và thơng nghiệp là mô hình kinh tế thích
hợp nhất ở kinh đô trớc đây cũng nh hiện nay.
3.8. đời sống nông dân Thừa Thiên Huế nửa đầu
thế kỷ XIX
Do không phải là vùng trọng điểm nông nghiệp, sản xuất bấp bênh,
thu nhập bình quân đầu ngời thấp, cho nên ngời dân Thừa Thiên Huế dựa
vào nguồn lơng thực từ Đồng Nai - Gia Định. Một bộ phận nông dân đã
chuyển sang đi buôn từ Nam bộ về Phú Xuân; một bộ phận khác tranh thủ
nông nhàn chuyển sang làm nghề thủ công và các nghề phụ khác, nhìn
chung đời sống tơng đối ổn định.
21

Điều kiện tự nhiên, địa hình phức tạp, Thừa Thiên Huế đã gặp phải
nhiều trận lụt lớn gây h hại đê đập, ngập ruộng đồng, ảnh hởng đến đời
sống ngời dân. Bên cạnh những chính sách u ái của triều đình dành cho
vùng đất có kinh đô, nhân dân Thừ Thiên Huế lại chịu nhiều thiệt thòi hơn
những địa phơng khác trong cả nớc, chẳng hạn chế độ binh dịch, bên
cạnh đó, triều đình đã huy động số dân phu phục vụ xây dựng công trình
kinh đô Phú Xuân và các lăng tẩm kéo dài hàng chục năm, có lúc lên đến
hàng chục ngàn ngời, trong đó một bộ phận lớn là dân Thừa Thiên Huế.
Trong nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào nông dân khởi nghĩa chống
triều Nguyễn diễn ra với quy mô lớn trong phạm vi cả nớc. Riêng địa bàn
Thừa Thiên Huế theo thống kê trong "Đại Nam thực lục" chỉ có 2 cuộc khỏi

nghĩa nhỏ nổ ra

Kết luận
1. Điều kiện tự nhiên nh vị trí địa lí, địa hình, thổ nhỡng, khí hậu,
sông ngòi, đã ảnh hởng khá rõ nét và toàn diện đến tình hình ruộng đất,
kinh tế nông nghiệp cũng nh đời sống c dân Thừa Thiên Huế. Với điều
kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, diện tích đồng ruộng rất hạn hẹp, nằm
giữa hai khu vực đồi núi và đầm phá ven biển, ít có điều kiện để mở rộng,
mặt khác, sự đa dạng của địa hình, sự phức tạp của khí hậu, thổ nhỡng
cũng ảnh hởng không nhỏ đến phong tục canh tác, mô hình sản xuất và cơ
cấu cây trồng Chính vì vậy, Thừa Thiên Huế đã trở thành nơi tập trung
nhiều đặc điểm mang tính đặc trng trên mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp.
Với vị trí chiến lợc hết sức quan trọng không chỉ trong hiện tại mà
cả trong quá khứ, Thừa Thiên Huế đã nhanh chóng trở thành các điểm tụ c
của các nhóm tộc ngời đầu tiên, đến giữa thế kỉ XVI là vùng đất dựng
nghiệp của họ Nguyễn và là trung tâm của Đàng Trong. Đến đầu thế kỉ
XVIII, Thuận Hóa trở thành tâm điểm tranh giành giữa hai dòng họ Trịnh
và Nguyễn và cuối cùng là triều đại Tây Sơn đã chọn làm nơi đóng kinh đô.
Từ đầu thế kỉ XIX, Nguyễn ánh thành lập vơng triều Nguyễn, Thừa Thiên
Huế lúc bấy giờ là doanh Quảng Đức đợc họ Nguyễn tiếp tục chọn làm
kinh đô của cả nớc. Thừa Thiên Huế là khu vực hấp dẫn, thu hút các tầng
lớp c dân từ mọi miền đất nớc đến định c lập nghiệp. Triều đình nhà
Nguyễn đã thi hành chính sách u ái vùng đất dựng nghiệp của dòng họ.
Đặc điểm lịch sử xã hội đó đã góp phần ổn định đời sống c dân nông
nghiệp, mặc dù sản lợng bấp bênh và còn lệ thuộc nhiều vào yếu tố tự
nhiên. Do không thể dựa vào sản lợng nông nghiệp, thì sự đa dạng của địa
hình lại tạo cho Thừa Thiên Huế phát triển các ngành kinh tế ngoài nông
22


nghiệp trồng lúa nh làm vờn, làm rẫy, đánh bắt thuỷ hải sản Bên cạnh
đó, lực lợng c dân đông đảo đã mang đến đất kinh đô nhiều nghề thủ
công truyền thống, hình thành những làng nghề nổi tiếng. Sản phẩm của họ
vừa phục vụ cho sinh hoạt ở cung đình, vừa phục vụ cho đại đa số đời sống
c dân làng xã; góp phần giúp ngời dân Thừa Thiên Huế tận dụng thời
gian nông nhàn làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập.
2. Nằm trong tiến trình phát triển chung của lịch sử dân tộc nửa đầu
thế kỉ XIX, nhng tình hình ruộng đất nửa đầu thế kỷ XIX ở Thừa Thiên
Huế có những đặc điểm đáng chú ý sau:
Trớc hết là sự đa dạng về loại hình sở hữu, ngoài những loại hình sở
hữu chính: Sở hữu trực tiếp của nhà nớc nh quan điền, quan thổ; sở hữu
gián tiếp nh công điền, công thổ; sở hữu t nhân nh t điền t thổ; sở hữu
của làng xã nh bổn thôn điền thổ; ở đây còn tồn tại loại: quan điền tam
bảo, quan thổ tam bảo của nhà chùa, ruộng đất thờ cúng, tịch điền
Thứ hai, trong tỷ lệ sở hữu ruộng đất, bộ phận ruộng đất công chiếm
u thế với 70 đến 80% tổng số diện tích ruộng đất. Bộ phận ruộng đất công
này ra đời từ rất sớm cùng với quá trình khẩn hoang lập làng diễn ra từ thời
các chúa Nguyễn. Tình trạng kiêm tính ruộng đất cũng đã diễn ra khá gay
gắt, tuy nhiên do tính cố kết cộng đồng làng xã tồn tại lâu dài đã góp phần
duy trì, củng cố và mở rộng loại ruộng đất công này. Từ thời các chúa
Nguyễn đến các vua triều Nguyễn tiếp tục đề ra nhiều biện pháp nhằm cũng
cố công điền, nghiêm cấm tình trạng mua bán, xâm lấn ruộng đất công làng xã.
Sự tồn tại đa số công điền trong bối cảnh chung của đất nớc là t
điền chiếm đa số, là một đặc điểm nổi bật trong tình hình ruộng đất ở Thừa
Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX. Đặc điểm này sẽ là cơ sở quan trọng để
nhìn nhận, đánh giá một cách khoa học tính chất của chế độ phong kiến mà
nhà Nguyễn xây dựng và bảo vệ.
Thứ ba, sự chuyển biến trong sở hữu ruộng đất không đáng kể, nhà
nớc quản lí ruộng đất rất chặt chẽ. Sở hữu ruộng đất công vẫn đợc duy trì
và củng cố trong một thời gian dài, điều này giúp triều đình ổn định vùng

đất kinh đô, trong khi cả nớc phong trào nông dân khởi nghĩa đang trở
thành mối đe dọa lớn đối với triều đình nhà Nguyễn.
Thứ t, sở hữu t nhân không lớn, thờng nhỏ và phân tán, địa chủ
nắm trên 50 mẫu không có, phổ biến là sở hữu nhỏ và ít biến động. Một chủ
đất có trong tay từ vài mẫu cho đến vài chục mẫu, nhng bao gồm nhiều
thửa đất và phân tán nhiều khu vực khác nhau. Điều này đợc lí giải bởi
nhiều lí do, có thể do điều kiện tự nhiên chi phối và cũng có thể do yếu tố
xã hội tác động.
23

Thứ năm, hiện tợng biến công vi t, ẩn lậu ruộng đất ở Thừa Thiên
Huế diễn ra không phổ biến, tình trạng tranh chấp ruộng đất giữa các làng
xã ít xảy ra. Nếu có việc tranh kiện ruộng đất thì lập tức đợc triều đình cử
quan lại về trực tiếp giải quyết. Hơn nữa với chính sách tô thuế của triều
đình nhà Nguyễn đối với vùng đất Thừa Thiên Huế cũng góp phần hạn chế
sự phát triển t điền. Nhiều diện tích viên c thổ đều đợc đánh thuế theo
hạng ruộng công hoặc ruộng vụ thu.
3. Do điều kiện tự nhiên nêu trên cho thấy tác động của nó đối với
kinh tế nông nghiệp ở Thừa Thiên Huế:
- Công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế đợc đặc biệt quan
tâm. Ngoài chức năng tới ruộng, tiêu úng đảm bảo nguồn nớc cho sản
xuất nông nghiệp, nó còn góp phần ngăn chặn nớc mặn từ biển và đầm phá
tràn vào đồng ruộng và hiện tợng di chuyển của cát biển lấp hết diện tích
canh tác. Đặc biệt, công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế còn có vai
trò phòng chống lũ lụt, bảo vệ an toàn cho hoàng cung, và là hệ thống giao
thông quan trọng nối liền kinh đô với các huyện lân cận qua hệ thống sông đào.
Ngoài những ý nghĩa trên, công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên
Huế, nhất là hệ thống đê ngăn mặn ven đầm phá để góp phần mở rộng diện
tích canh tác, biến vùng đất ngập mặn thành đồng ruộng. Thành quả công
cuộc khẩn hoang này đều do tập thể làng xã tiến hành, ruộng đất đã trở

thành ruộng đất công làng xã. Qua công tác trị thủy, thủy lợi, tính cố kết
cộng đồng càng đợc củng cố, ruộng đất công làng xã tiếp tục đợc duy trì
và phát triển.
Công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế, ngoài ý nghĩa kinh tế
nó còn mang ý nghĩa chính trị khá sâu sắc. Các hệ thống sông đào ở đây đã
góp phần chia lũ trên sông Hơng để bảo vệ hoàng cung và dẫn nớc vào
hệ thống thủy đạo chung quanh kinh thành
- Kinh tế nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ đạo của hầu hết c
dân. Tuy nhiên, do những điều kiện tự nhiên nh địa hình, đất đai, khí hậu
của một vùng đất mà đồng bằng chỉ chiếm 1/10 diện tích, lại bị cắt xẻ
nhiều, đất có độ dốc và hay ngập mặn ở vùng ven đầm phá cho nên năng
suất lao động bấp bênh, sản phẩm nông nghiệp không cung cấp đầy đủ nhu
cầu lơng thực của c dân. Ngời dân Thừa Thiên Huế đã tiến hành nhiều
biện pháp để phát triển sản xuất nông nghiệp nh: sử dụng nhiều giống cây
trồng trên nhiều loại chất đất khác nhau, tận dụng tối đa về điều kiện địa
hình để có lịch thời vụ thích hợp.
- Tuy nhiên, Thừa Thiên Huế không phải là vùng trọng điểm nông
nghiệp và vì thế không thể phát triển kinh tế nông nghiệp, nguồn lơng thực
ở đây hoàn toàn lệ thuộc vùng Gia Định, Đồng Nai. Để góp phần ổn định
24

đời sống của c dân, triều đình và cả các làng xã đã tiến hành nhiều biện
pháp nh khai hoang, phục hóa, tận dụng những vùng đất ít ỏi còn lại để
trồng thêm hoa màu hoặc phát triển nghề làm vờn. Có thể nói, nghề vờn
là một nét đặc trng của vùng đất Thừa Thiên Huế.
- Song song với nghề trồng lúa và hoa màu, triều đình và các địa
phơng còn chú ý phát triển các ngành nghề phụ nh: thủ công nghiệp,
phát huy truyền thống các nghề thủ công đã có mặt tại vùng đất này từ thời
các chúa Nguyễn, triều Nguyễn tiếp tục thành lập các tợng cục của nhà
nớc, ở các địa phơng vẫn duy trì phát triển những nghề thủ công. Một số

nghề đã có tính chuyên môn hóa cao, nhiều mặt hàng thủ công nổi tiếng,
đặc trng cho mỗi vùng miền. Tuy nhiên, hoạt động thủ công ở Thừa Thiên
Huế vẫn chỉ là nghề phụ, các làng nghề vẫn duy trì một bộ phận ruộng đất
công và vẫn sản xuất nông nghiệp là chính.
- Với đặc điểm là vùng đất có diện tích đầm phá lớn, một bộ phận c
dân đã di c theo đờng biển vào định c và phát triển hoạt động nh
nghiệp trên vùng đầm phá Tam Giang, hình thành các vạn chài. Tuy nhiên,
các làng xã ven đầm phá vẫn thành lập địa bạ, và phải đóng thuế cho triều đình.
4. Từ việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỉ XIX, thông qua các mối quan hệ xã hội
xung quanh vấn đề ruộng đất, nhất là mối quan hệ giữa các làng xã với triều
đình phong kiến, giữa làng xã với làng xã, có thể kết luận: đặc điểm của
tình hình ruộng đất ở Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỉ XIX đã tác động đến
đặc điểm khởi nghĩa nông dân. Từ chỗ khẳng định chính ruộng đất là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nỗ của phong trào nông dân trong lịch
sử Việt Nam, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng và suy vong của chế độ
phong kiến, qua thực tế địa bàn Thừa Thiên Huế, có thể thấy trên vùng đất
này chỉ xuất hiện 2 cuộc khởi nghĩa của tầng lớp nông dân chống lại triều
Nguyễn, trong khi cả nớc có đến hành trăm cuộc.
Việc duy trì, củng cố ruộng đất công ở Thừa Thiên Huế trong nửa đầu
thế kỷ XIX là một giải pháp của triều Nguyễn nhằm ổn định vùng đất kinh
đô trớc tình hình hết sức phức tạp của cả nớc.
Từ việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa
Thiên Huế nửa đầu thế kỉ XIX, có thể giúp cho địa phơng hiện nay rút ra
những bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định sự phát triển kinh tế tỉnh
nhà, xứng đáng với vùng đất vốn là kinh đô của cả nớc kéo dài hơn 2 thế kỉ.




×