Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

luận văn ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) CÓ HIỆU LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.99 KB, 100 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP
ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
CÓ HIỆU LỰC

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh


2

HÀ THANH XUÂN

HÀ NỘI - 2017


3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Đổi mới cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước (Việt Nam)
trong điều kiện hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương


(TPP) có hiệu lực

Ngành: Kinh doanh
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh


4

Mã số: 60340102

Họ và tên học viên

: Hà Thanh Xuân

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS, TS TĂNG VĂN NGHĨA

HÀ NỘI - 2017


5

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn này xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu và tài liệu là trung thực. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này chưa
từng được công bố trong các công trình trước đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Tác giả


Hà Thanh Xuân


6


7

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tác giả đã hoàn thành luận
văn thạc sĩ kinh tế quản trị kinh doanh với đề tài: “Đổi mới cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước (Việt Nam) trong điều kiện hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) có hiệu lực”.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS, TS Tăng Văn Nghĩa,
người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã tận tình dạy bảo, giúp đỡ
và định hướng cho tác giả trong quá trình học tập, công tác và nghiên cứu khoa học.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các tập thể, cá nhân, bạn bè, đồng
nghiệp và người thân đã chỉ bảo, giúp đỡ, động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.


8

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Từ viết

tắt
ASEAN
CIEM
CPH
DATC
DNNN
DNNNN
EVN
FDI
FTA
GDP
IMF
ISO
OECD
SCIC
TCBC
TPP
VCCI
VDB
WB
WEF
WTO

Tiếng Anh
Association Of South East Asian
Nations
Central Institute For Economic
Managenment

Tiếng Việt


Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
Viện nghiên cứu Quản lý Kinh
tế Trung ương
Cổ phần hóa
Debt and Asset Trading
Công ty TNHH Mua bán nợ
Corporation
Việt Nam
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
Vietnam Electricity
Tập đoàn điện lực Việt Nam
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Foreign Trade Association
Hiệp định thương mại tự do
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
International Organization For Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc
Standardization
tế
Organization For Economic
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Cooperation And Development
Kinh tế
State Capital Investment

Tổng công ty đầu tư và kinh
Corporation
doanh vốn Nhà nước
Tài chính Bưu chính
Trans-Pacific Strategic Economic Hiệp định đối tác kinh tế chiến
Partnership Agreement
lược xuyên Thái Bình Dương
Vietnam Chamber Of Commerce Phòng Thương mại và Công
And Industry
nghiệp Việt Nam
The VietNam Development Bank Ngân hàng phát triển Việt
Nam
World Bank
Ngân hàng thế giới
The World Economic Forum
Diễn đàn Kinh tế Thế giới
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU


9


10
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Trong phần mở đầu, tác giả đã nêu ra tính cấp thiết của đề tài dẫn đến quyết
định lựa chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp của mình, cùng với đó tác giả cũng
tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trong những năm gần đây ở Việt
Nam, mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu luận văn.

Phần nội dung chính của luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận
về cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các quy định của TPP về doanh
nghiệp nhà nước ở chương 1; phân tích thực trạng cạnh tranh của DNNN Việt Nam
ở chương 2 và đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới cạnh tranh của DNNN khi Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực ở chương 3. Cụ thể:
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước và các
quy định của TPP về doanh nghiệp nhà nước.
Trong chương này, tác giả trình bày cơ sở lý luận chung về cạnh tranh, vai trò,
cách thức phân loại hành vi cạnh tranh cũng như các phương tiện cạnh tranh của
doanh nghiệp. Tác giả dẫn chứng các quan niệm về DNNN và nêu các đặc điểm của
DNNN nói chung. Luận văn giới thiệu về Hiệp định TPP, các vấn đề đặt ra đối với
doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện TPP có hiệu lực.
Trên cơ sở lý luận, luận văn hướng tới phân tích thực trạng trong chương 2.
Chương 2: Thực trạng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam
trên thị trường.
Trong chương 2, tác giả tiến hành phân tích thực trạng của các DNNN Việt
Nam. Hiện nay, sau 25 năm cải cách, sắp xếp thì số DNNN đã giảm đáng kể, tập
trung vào 19 ngành, lĩnh vực có quy mô vừa và lớn. Số lượng DNNN tuy chiếm tỷ
trọng rất nhỏ trong khu vực doanh nghiệp nhưng DNNN vẫn đóng góp vào GDP
khoảng 28,8%. Hiệu quả kinh doanh của các DNNN về cơ bản đã được nâng lên
nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa thực sự hiệu quả so với khu vực ngoài
quốc doanh. Trình độ công nghệ trong sản xuất kinh doanh của các DNNN còn lạc
hậu. Trình độ quản lý cũng đang tồn tại nhiều vấn đề, năng lực sản xuất của người
lao động còn nhiều hạn chế.


11
Sau những đánh giá chung về DNNN Việt Nam, luận văn tiến hành đánh giá
DNNN trên các phương tiện cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng hóa/dịch vụ, các
dịch vụ kèm theo và cuối cùng là truyền thông, quảng cáo. Theo nhận định chung

thì giá cả các hàng hóa/dịch vụ thuộc các DNNN còn khá cao so với các sản phẩm
cùng loại, chất lượng hàng hóa chưa được tốt, đa dạng; các dịch vụ đi kèm chưa
được quan tâm đúng mức. Đặc biệt là hoạt động truyền thông, quảng cáo của các
DNNN còn khá khiêm tốn.
Từ những phân tích thực trạng chung, luận văn tiến hành phân tích cụ thể tình
hình cạnh tranh tại hai DNNN tiêu biểu là Tổng công ty đường sắt Việt Nam và
Tổng công ty Bưu điện Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp đổi mới cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhà nước
Việt Nam khi Việt Nam gia nhập TPP.
Trong chương 3, luận văn nêu ra những cơ hội và thách thức đối với các
DNNN Việt Nam trước ngưỡng cửa gia nhập TPP. Từ đó, luận văn đã đề xuất
những giải pháp nhằm đổi mới cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhà nước. Sự đổi
mới được thể hiện ở việc các DNNN cần nhận thức rõ được các phương tiện cạnh
tranh hiệu quả như giá cả, chất lượng hàng hóa/dịch vụ, quảng cáo hay các dịch vụ
đi kèm. Các DNNN cần đổi mới chiến lược cạnh tranh, đổi mới cách thức quản trị
cũng như tăng cường minh bạch hóa thông tin cũng như tính tự chịu trách nhiệm
của mình. Nhà nước cần xây dựng chính sách cạnh tranh trung lập, xóa bỏ những
ưu đãi, hỗ trợ DNNN, giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là sơ lược về kết quả nghiên cứu của luận văn. Đề tài nghiên cứu là
vấn đề chuyên sâu và khá phức tạp, do trình độ cũng như thời gian có hạn nên luận
văn không tránh khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo


12
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo: Mở đường, dẫn dắt, hỗ
trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững,
cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhất là hàng hóa dịch vụ trong các ngành kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã và đang giữ
một vị trí then chốt trong nhiều lĩnh vực sản xuất hàng hóa như điện, nước, vận tải
đường sắt, v.v. Tuy nhiên, những năm qua, DNNN đã bộc lộ nhiều bất cập: cở sở
vật chất kỹ thuật lạc hậu, vốn thiếu, cơ chế quản lý có nhiều lúng túng, hoạt động
kém hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và làm
chưa tốt vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng vị thế độc quyền bằng các chính sách ủng
hộ của Nhà nước đã gây cản trở việc tự do hóa thương mại và bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, quá trình cổ phần
hóa DNNN ở Việt Nam được tiến hành từ 5/1990. Việc chuyển DNNN thành các
Công ty cổ phần đã làm thay đổi cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp
theo hướng tăng cường chức năng giám sát hoạt động bằng pháp luật và nội dung
điều lệ hoạt động của công ty cổ phần phù hợp với quy định của Nhà nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế và việc gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) là quá trình tất yếu khách quan, không một ngành nào có thể đứng
ngoài, không một doanh nghiệp nào có thể né tránh. Các DNNN Việt Nam cũng
vậy. Điều này tạo ra cơ hội giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định và bền
vững. Tuy nhiên, các DNNN cũng đứng trước những thử thách gay gắt. Hiệp định
TPP đưa ra những thay đổi trong cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với các
ngành này. Đứng trước những thay đổi đó, liệu DNNN có thể tự đổi mới và cạnh
tranh hiệu quả trên thị trường?
Để trả lời cho vấn đề nêu trên cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống và cụ
thể về các DNNN Việt Nam khi gia nhập Hiệp định TPP. Đó chính là lý do tôi chọn
đề tài luận văn:“Đổi mới cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước (Việt Nam) trong
điều kiện hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu về các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNN nói



13
riêng đã được thực hiện nhiều trong các đề tài nghiên cứu khoa học và các bài báo như:
Luận văn: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Luận văn đã hệ thống
hóa những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của DNNN ở Việt Nam, tập hợp các
nhân tố cấu thành và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNNN ở Việt Nam. Trên
cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNN ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của DNNN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong điều
kiện hội nhập WTO của Việt Nam. Tác giả: Vũ Thị Dậu, Đại học Kinh Tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013. Nghiên cứu đã làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về năng
lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và DNNN
nói riêng trong điều kiện gia nhập WTO. Luận văn đã phân tích, đánh giá năng lực
cạnh tranh của DNNN, phát hiện ra những bất cập và nguyên nhân của tình hình, đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN ở Việt Nam tới
năm 2020.
Luận án: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh du lịch sau cổ phần hóa trên địa bàn Hà Nội. Tác giả: Trần Thị Bích Hằng,
Đại học Thương mại, 2012. Luận án đã hệ thống hóa được các khái niệm về cạnh
tranh, năng lực cạnh tranh, vận dụng và phát triển các lý luận đó vào xác định năng lực
cạnh tranh của DNNN kinh doanh du lịch, các định được các yếu tố cơ bản cấu thành
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch. Phân tích thực trạng cạnh tranh của
DNNN kinh doanh du lịch giai đoạn 2005 – 2010. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những
nhận xét, đánh giá về những thành công và hạn chế, nguyên nhân và đề xuất những giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNN kinh doanh du lịch sau cổ phần hóa
trên địa bàn Hà Nội.



14
Luận văn: Đánh giá tác động của Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương tới sự phát triển thương mại Việt Nam. Tác giả: Mai Công Trà
Giang, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, 2010. Luận văn đề cập đến những cơ
hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia Hiệp định TPP.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những giải pháp để phát triển thương mại Việt Nam.
Sách: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP và vấn đề tham gia của
Việt Nam của tác giả Hoàng Văn Châu (NXB Bách khoa Hà Nội, 2014) có đề cập
đến những cơ hội và thách thức đối với DNNN và cũng có một phần nhất định đề
cập tới những giải pháp đổi mới các DNNN.
Sách: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP): Cơ hội nào cho Việt
Nam Tác giả: Phạm Duy Nghĩa, Nhà xuất bản Thời đại, 2013.
Tài liệu: Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia Hiệp định
thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tác giả: Hoàng Quỳnh Ngọc, 2011.
Tài liệu: Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế.
Tác giả: Phạm Tất Thắng, Tạp chí Cộng sản, Số 833-2012.
Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình này đã đề cập đến các vấn
đề đặt ra cho Việt Nam khi gia nhập TPP, các cơ hội, thách thức đối với các doanh
nghiệp nhưng đó là doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nhưng đó là doanh nghiệp Việt Nam nói chung, chưa có đề tài
nào nghiên cứu về đổi mới cạnh tranh của các DNNN (Việt Nam) trong bối cảnh
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và một số
nguyên tắc của TPP, một số tổng kết, đánh giá về thực trạng cạnh tranh của các
DNNN ở Việt Nam, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới cạnh tranh của
các DNNN Việt Nam trong điều kiện Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương có
hiệu lực.



15
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích để nghiên cứu tình hình thực
tế của doanh nghiệp. Đây là phương pháp phân tích các số liệu thực tế về tình hình
doanh nghiệp từ đó đưa ra những nhận xét đánh giá về thực trạng doanh nghiệp.
Phương pháp thống kê và phân tích thống kê: dựa trên các số liệu thống kê về
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm đưa ra những nhận xét
đánh giá và đưa ra các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cạnh tranh của DNNN trong điều kiện Việt
Nam tham gia hiệp định TPP.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn về các mặt nội dung, không gian và
thời gian như sau:
Về nội dung: Tập trung nghiên cứu thực trạng cạnh tranh của DNNN Việt
Nam, những cơ hội và thách thức của các DNNN khi Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương có hiệu lực.
Về không gian: Nghiên cứu chủ yếu hoạt động kinh doanh của các DNNN
(Việt Nam) khi tham gia đàm phán TPP. Dẫn chứng hai doanh nghiệp tiêu biểu là
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam. Hai doanh
nghiệp này đều thuộc trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TPP và trong thời
gian qua, hai doanh nghiệp này thể hiện khá rõ sự bất cập, kém cạnh tranh trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu hoạt động kinh doanh của các DNNN trong
khoảng thời gian từ 2011- 2030 trên cơ sở đề xuất giải pháp đổi mới cạnh tranh của
DNNN khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực. Lý do tác giả lựa

chọn khoảng thời gian này là từ năm 2011 – 2016 là khoảng thời gian đủ dài để
đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Theo Đại


16
hội Đảng thứ 12, chính phủ đã đưa ra nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ cổ
phần hóa hầu hết các DNNN.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá, bổ sung lý luận về cạnh tranh của DNNN, về TPP và DNNN
trong các quy định của TPP.
Phân tích, đánh giá thực trạng cạnh tranh của DNNN trước khi Việt Nam gia
nhập TPP.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới cạnh tranh của DNNN trong
điều kiện TPP có hiệu lực và tham gia các hiệp định FTAs khác.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo và mục lục, luận văn gồm 3 phần chính như sau:
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước và các quy
định của TPP về doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Thực trạng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam trên
thị trường.
Chương 3: Giải pháp đổi mới cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhà nước Việt
Nam trong điều kiện Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực.


17
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA TPP VỀ DNNN
1.1. Cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh

Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, một
hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Từ trước đến nay, đã có khá nhiều định nghĩa,
các quan niệm khác nhau về cạnh tranh.
Theo Whish cho rằng: “Cạnh tranh là sự đấu tranh, ganh đua để đạt được sự
nổi trội và trong thương mại có nghĩa là sự ganh đua để giành khách hàng và giao
dịch của các chủ thể trên thị trường”. Whish cũng viện dẫn thêm luận điểm của Ủy
ban Cạnh tranh Vương Quốc Anh (The UK Competition Commission) cho rằng:
“Cạnh tranh là một quá trình ganh đua giữa các hãng... nhằm giành lấy phần thắng
trong các giao dịch đối với khách hàng”. (Tăng Văn Nghĩa 2013, tr 15 - 16).
Theo Từ điển Bách Khoa của Việt Nam: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”. (Hội đồng quốc gia
1995, tr.357). Theo quan điểm này, cạnh tranh có thể diễn ra giữa nhiều chủ thể
khác nhau nhằm mục đích giành được lợi ích tốt nhất. Tuy nhiên, cạnh tranh chịu sự
tác động của mối quan hệ cung - cầu.
Theo Tôn Thất Nguyễn Thiêm thì cho rằng: “Cạnh tranh trong thương trường
không phải là diệt trừ đối thủ của mình mà chính là phải mang lại cho khách hàng
những giá trị tăng cao hoặc/ và mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không
lựa chọn đối thủ cạnh tranh của mình”. (Tôn Thất Nguyễn Thiêm 2004, tr.118).
Từ những định nghĩa trên, có thể tiếp nhận cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự. Cạnh tranh nâng cao vị thế của người này và
làm giảm vị thế của những người còn lại.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà
các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, một dự án). Một loạt điều


18
kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng, v.v.). Mục đích cuối cùng là kiếm được

lợi nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các
điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh.
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau như: cạnh tranh bằng đặc tính về chất lượng sản
phẩm, cạnh tranh bằng giá sản phẩm (chính sách định giá thấp, chính sách định giá
cao, chính sách định giá ổn định, định giá theo thị trường, chính sách giá phân biệt,
bán phá giá, cạnh tranh bằng nghệ thuật phân biệt sản phẩm, cạnh tranh nhờ dịch vụ
bán hàng tốt, cạnh tranh thông qua hình thức thanh toán, v.v...)
Với cách tiếp cận trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm cạnh
tranh có thể được hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể
kinh tế (quốc gia, ngành hay doanh nghiệp) ganh đua với nhau, tìm mọi biện pháp
để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy
khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối
cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với
người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng
và sự tiện lợi.
Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người trong
việc giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích
lợi nhuận và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh
doanh và uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những
người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và trong mối
quan hệ với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh khác nhau.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu
nhiều chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị xã hội, nó có quan hệ hữu cơ
với các quy luật kinh tế khác: như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy
luật cung cầu. Đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy luật cạnh
tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó làm



19
giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố
sản xuất, nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Từ thế kỷ thứ 18, Adam Smith - nhà khoa học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra
vai trò quan trọng của cạnh tranh trong tác phẩm: Của cải của các dân tộc (1776).
Ông cho rằng, sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của
mình một cách tốt nhất. Kết quả của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự
phân phối các yếu tố sản xuất một cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội (Adam
Smith 1776, tr.26). Cho tới nay, cạnh tranh được coi là phương thức hoạt động để
tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có cạnh tranh thì không thể có sự
tăng trưởng kinh tế.
Với tính cách là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện dưới những
tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất
hiện và tồn tại, không những thế nó còn tồn tại như một động lực phát triển nội tại
của nền kinh tế. Một số nhà kinh tế đã khẳng định cung cầu là cốt vật chất, giá cả là
diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận và bảo
hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi có tự do thương mại, cùng với nó là tự
do kinh doanh, tự do khế ước và quyền tự chủ của các cá nhân được hình thành và
đảm bảo. Cạnh tranh thực sự diễn ra khi không có những quy định và hành vi nào
cản trở sự nhập cuộc của các doanh nghiệp vào một thị trường cụ thể.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của cạnh tranh là, một mặt, tạo ra động
lực của sự phát triển kinh tế, mặt khác nó có vai trò như một phương tiện hữu hiệu
nhất để tối đa hóa lợi nhuận và lợi ích cho cả nhà cung cấp và người tiêu dùng hàng
hóa dịch vụ. Nếu không có cạnh tranh, một bộ phận nguồn lực của nền kinh tế
không được huy động vào sản xuất, gây nên sự lãng phí xét trên bình diện tổng thể
kinh tế xã hội.
Nhìn chung, cạnh tranh mang lại một số lợi ích sau: Cạnh tranh đảm bảo duy

trì tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế; Về phía doanh nghiệp, thông qua
quan hệ cung cầu, cạnh tranh giúp doanh nghiệp nhanh nhạy nắm bắt và đáp ứng


20
nhu cầu và thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp với mục tiêu hút
càng nhiều khách hàng về phía mình càng tốt. Như vậy, cạnh tranh giúp cho doanh
nghiệp phát huy hết khả năng của mình bằng cách chính bản thân nó khuyến khích
các doanh nghiệp phấn đấu đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng, dịch vụ và giá cả. Sức
ép cạnh tranh thúc giục các doanh nghiệp phải liên tục tạo ra những sản phẩm mới
đi kèm với việc áp dụng công nghệ mới, các phương pháp quản lý tiên tiến. Bởi
vậy, cũng có thể thấy, cạnh tranh cũng là nguồn gốc để phát triển khoa học kỹ thuật
và công nghệ cao cho nền kinh tế đất nước. Về phía người tiêu dùng, cạnh tranh
không những thỏa mãn nhu cầu của họ mà còn giúp người tiêu dùng có nhiều cơ hội
lựa chọn hàng hóa dịch vụ có chất lượng tốt và giá thành rẻ hơn.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì cạnh tranh cũng có một số hạn chế.
Do chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có ảnh hưởng tiêu cực, vừa là động lực tăng
trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh đào thải. Sự đào thải không khoan nhượng
những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả do cạnh tranh khốc liệt. Mặc dù
điều này phù hợp với quy luật kinh tế khách quan nhưng lại gây ra những hậu quả
kinh tế xã hội như thất nghiệp gia tăng, mất ổn định xã hội. Cạnh tranh là quá trình
kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó có cả những thủ đoạn cạnh
tranh không lành mạnh để giành ưu thế trên thương trường như gian lận, quảng cáo
lừa gạt khách hàng. Cuối cùng, cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho
thị trường phát triển theo chiều hướng không tốt.
Tuy nhiên, do cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động của
nền kinh tế thị trường nên chúng ta cần nhận thức được các vai trò tích cực và hạn
chế của cạnh tranh để vận dụng quy luật này sao cho hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân loại hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.3.1. Căn cứ vào tính chất cạnh tranh trên thị trường

a) Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh hoàn hảo là tình trạng thị trường trong đó số người mua và số
người bán một mặt hàng là rất nhiều, người tiêu dùng có đầy đủ thông tin về sản
phẩm, sức mạnh thị trường của người bán là không có và vì thế không ai có khả
năng ảnh hưởng đến giá cả thị trường, do vậy đối với mỗi doanh nghiệp, coi như giá


21
cả đã được định trước. Trong trạng thái thị trường này, loại sản phẩm là sản phẩm
đồng nhất, các doanh nghiệp được tự do gia nhập thị trường mà không có trở ngại
nào về mặt pháp lý. Trên thực tế, cạnh tranh hoàn hảo khó có cơ hội tồn tại vì bị
giới hạn bởi các điều kiện chủ quan và khách quan của các nền kinh tế như năng
lực, cơ hội.
b) Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng thị trường, trong đó có ít nhất một
người bán lớn với sức mạnh của mình có thể ảnh hưởng tới giá cả và lượng cung
ứng trên thị trường và trên thực tế.
-

Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có nhiều người
bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế cho nhau ở
một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất lượng, kiểu
dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín. Các doanh nghiệp cố gắng khác biệt hóa sản
phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong trường hợp này, bên
cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính sách đối với
khách hàng là các vấn đề mà mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo khả năng
cạnh tranh.

-


Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng lớn bán các
sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn bộ lượng
cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong tập đoàn
có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều ảnh
hưởng trực tiếp đến các hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy, họ
thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch.
1.1.3.2. Căn cứ vào hình thức

a)

Cạnh tranh tự do
Cạnh tranh tự do là cạnh tranh hoàn toàn không có sự điều tiết của Nhà nước.
Trên thế giới hiện nay, hiện tượng này không thể có do kinh tế thị trường hiện đại
luôn có nhu cầu được điều tiết.


22
b)

Cạnh tranh có sự điều tiết
Cạnh tranh có sự điều tiết, bản thân nó đã nói lên sự can thiệp của nhà nước
vào đời sống kinh tế nhưng ở các mức độ khác nhau bởi Nhà nước nào cũng có các
mục tiêu kinh tế của mình và bằng các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô hướng các
hoạt động kinh tế theo các mục tiêu đó.
1.1.3.3. Căn cứ vào tính chất và mục đích của các phương thức cạnh tranh

a)

Cạnh tranh lành mạnh
Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh theo qui định của pháp luật, theo đó các

doanh nghiệp được quyền tiến hành các hoạt động mà pháp luật không cấm, các
hoạt động phù hợp với tập quán thương mại nhằm thu hút khách hàng như: đăng ký
nhãn hiệu để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp; hạ giá bán hàng hóa trên cơ sở đổi
mới công nghệ; giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông; nâng cao chất lượng dịch
vụ; tổ chức mạng lưới bán hàng thuận tiện.

b)

Cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh là các hành vi bất hợp pháp, trái với thông lệ
kinh doanh hay còn gọi là luật bất thành văn, trái với đạo lý phong tục của dân tộc
nhằm giành giật khách hàng, thị phần kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, gây thiệt hại
cho đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Trên thế giới, cạnh tranh không lành
mạnh diễn ra ngày càng nhiều dưới nhiều hình thức đa dạng bằng nhiều thủ pháp
tinh vi phức tạp.
1.1.4. Phương tiện cạnh tranh
1.1.4.1. Giá cả
Giá cả là phương tiện cạnh tranh quan trọng và hữu hiệu nhất cho tất cả các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dựa trên quy luật giá trị của thị trường. Giá
cả là hình thức biểu hiện bằng tiền giá trị của hàng hóa. Nó thể hiện mối quan hệ
trực tiếp giữa người mua và người bán. Đối với doanh nghiệp, giá cả trực tiếp tạo ra
doanh thu và lợi nhuận thực tế. Còn đối với người mua, giá hàng hóa luôn được coi
là chỉ số đầu tiên để họ đánh giá phần “được” và chi phí phải bỏ ra để sở hữu và tiêu
dùng hàng hóa. Cạnh tranh thông qua giá cả của hàng hóa/dịch vụ thể hiện, nếu các
hàng hóa, dịch vụ tương đối đồng nhất và có chất lượng như nhau thì hàng hóa/dịch


23
vụ nào có giá cả thấp sẽ có năng lực cạnh tranh tốt hơn. Giá cả sẽ luôn được so sánh
trong mối tương quan và sự cân nhắc giữa mức giá của hàng hóa/dịch vụ của các

đối thủ cạnh tranh và sự hài lòng của khách hàng đối với hàng hóa/dịch vụ nào đó.
Việc sử dụng phương tiện cạnh tranh giá có vai trò và ý nghĩa trong mọi giai
đoạn thị trường của sản phẩm. Tuy nhiên, ở mỗi một giai đoạn thì giá lại mang ý
nghĩa khác nhau. Doanh nghiệp cần phải xác định rõ vòng đời của sản phẩm để đưa
ra được những chiến lược giá phù hợp. Ví dụ, ở giai đoạn thử nghiệm và tăng
trưởng thì giá có ý nghĩa rất lớn vì khi đưa ra một sản phẩm/dịch vụ mới đến khách
hàng với giá cả thấp thì mới có khả năng tác động vào tâm lý tiêu dùng của khách
hàng một cách tốt nhất. Ở giai đoạn chín muồi, tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ đã trở
thành nhu cầu và thói quen thì giá lại không còn là chiến lược để cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Hơn nữa, việc cạnh tranh bằng giá còn phụ thuộc vào loại sản phẩm,
mô hình thị trường và các rào cản gia nhập thị trường (Tăng Văn Nghĩa 2013, tr.19).
Tại môi trường cạnh tranh hoàn hảo thì phương tiện cạnh tranh bằng giá được sử
dụng hữu hiệu theo quan hệ cung cầu, quy luật giá trị quyết định, không có sự tồn
tại của bất cứ khả năng hay quyền lực nào có thể chi phối. Tại các thị trường không
hoàn hảo thì phương tiện cạnh tranh bằng giá theo cơ cấu giá nguồn cung không
đồng nhất. Mỗi thành viên của thị trường đều có một mức độ quyền lực nhất định
đủ để tác động đến giá sản phẩm. Tùy từng biểu hiện của hình thức cạnh tranh này
(cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm) mà cách thức tác động đến
giá cả sẽ là khác nhau.
Giá cả là phương tiện cạnh tranh của doanh nghiệp, tác động mạnh mẽ đến
tâm lý tiêu dùng của khách hàng. Tuy nhiên, cạnh tranh bằng giá còn nằm trong sự
tương quan với các phương tiện cạnh tranh khác như chất lượng hay dịch vụ kèm
theo. Các yếu tố này sẽ đẩy chi phí sản xuất hàng hóa lên cao hơn. Việc doanh
nghiệp tăng yếu tố chất lượng, dịch vụ đi kèm hay quảng cáo cho hàng hóa/dịch vụ
và vẫn giữ nguyên được giá thì cũng có ý nghĩa cạnh tranh bằng giá cả.
Giá là phương tiện hữu hiệu để cạnh tranh, tuy nhiên không phải lúc nào giá
cũng mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần có một chiến lược
giá linh hoạt cho từng thời kỳ, từng sản phẩm, từng thị trường. Ngoài việc cân bằng
được chi phí đầu vào đầu ra của sản phẩm, chính sách giá hợp lý sẽ giúp doanh



24
nghiệp mở rộng được thị phần và thu được lợi nhuận hợp lý.
1.1.4.2. Chất lượng
Chất lượng của hàng hóa/dịch vụ là phương tiện cạnh tranh cơ bản để tăng uy
tín của sản phẩm và qua đó tác động đến tâm lý lựa chọn sản phẩm của khách hàng.
Chất lượng hàng hóa/dịch vụ bao gồm tất cả các yếu tố thuộc về chất lượng của sản
phẩm như: phẩm chất, độ ổn định, kích thước, trang trí, hình dáng, giá trị sử dụng
của nó và cuối cùng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Việc sử dụng phương
tiện chất lượng để cạnh tranh sẽ giúp cho các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa, đồng
nhất. Khách hàng có thể có nhiều sự lựa chọn thay thế hơn. Cạnh tranh là một quá
trình đỏi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới. Doanh nghiệp nào có hàng
hóa/dịch vụ chất lượng tốt hơn ở mức giá như nhau thì sẽ có khả năng cạnh tranh tốt
hơn. Việc cạnh tranh bằng chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp tạo được uy tín và hình
ảnh trên thị trường. Đồng thời, chất lượng sản phẩm tạo nên sự trung thành của
khách hàng đối với các nhãn hiệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tạo thương
hiệu và phát triển một cách bền vững.
Phương tiện cạnh tranh chất lượng cũng có ý nghĩa sử dụng khác nhau đối với
loại sản phẩm hay mô hình thị trường khác nhau. Trong mô hình thị trường hoàn
hảo, tại cùng một mức giá, hàng hóa/dịch vụ nào có chất lượng tốt hơn sẽ được
khách hàng lựa chọn. Trong điều kiện thị trường không hoàn hảo (có độc quyền hay
độc quyền nhóm), cạnh tranh bằng chất lượng xảy ra ở cấp độ thấp hơn. Bởi bản
thân độc quyền không tạo ra áp lực buộc doanh nghiệp phải đổi mới để nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Chiến lược cạnh tranh bằng chất lượng cũng có mối quan hệ chặt chẽ với
chính sách giá của doanh nghiệp đối với sản phẩm. Điều này có nghĩa là, khi doanh
nghiệp tăng mức đầu tư vào chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng thì đồng
nghĩa doanh nghiệp sẽ phải gia tăng chi phí để đạt được chất lượng tương ứng. Đối
với những hàng hóa/dịch vụ đỏi hỏi tính an toàn, chất lượng cao, sự chắc chắn thì
việc tăng cường về chất lượng sẽ có ý nghĩa hơn là sử dụng phương tiện giá thành

(Tăng Văn Nghĩa 2013, tr.20 - 21).
Nhìn chung, cạnh tranh chất lượng thể hiện sự đầu tư, cam kết và tính sáng tạo


25
của doanh nghiệp trong việc đảm bảo chất lượng hàng hóa hay dịch vụ cung cấp,
cho nên khi chiếm được lòng tin của khách hàng thì cũng làm tăng giá trị thương
hiệu của doanh nghiệp.
1.1.4.3. Dịch vụ
Phương tiện cạnh tranh dịch vụ chính là các dịch vụ kèm theo khi nhà cung
cấp/hàng hóa dịch vụ cho khách hàng nhằm tăng độ hấp dẫn của sản phẩm và uy tín
của nhà cung cấp. Các dịch vụ kèm theo có thể là dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo hành,
dịch vụ hậu mãi, v.v. Phương tiện cạnh tranh dịch vụ được sử dụng khá phổ biến
trong việc cung cấp hàng hóa/dịch vụ phức tạp hoặc có ứng dụng công nghệ cao.
Dịch vụ là phương tiện cạnh tranh độc lập nhưng nó có mối quan hệ chặt chẽ
với chất lượng sản phẩm và sự hấp dẫn của sản phẩm. Dịch vụ ở đây hoàn toàn có
tính độc lập với việc cung cấp các sản phẩm/dịch vụ. Nếu không có các dịch vụ này
thì việc cung cấp sản phẩm/dịch vụ vẫn diễn ra bình thường nhưng sẽ ở tốc độ thấp
và phạm vi hẹp hơn. Dịch vụ sẽ làm tăng chất lượng cũng như hiệu suất của sản
phẩm. Cạnh tranh dịch vụ mang ý nghĩa là một đối tượng bổ sung làm tăng giá trị
của sản phẩm có liên quan của doanh nghiệp. Cùng với phương tiện giá cả, chất
lượng và quảng cáo, dịch vụ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Phương tiện cạnh tranh dịch vụ có mối quan hệ và ảnh hưởng tùy thuộc vào
chủng loại hàng hóa hay dịch vụ chính. Nó đóng vai trò quan trọng trong các sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao (ô tô, máy tính, thiết bị điện tử viễn thông, thiết
bị y tế, v.v.) hay cung cấp dịch vụ phức tạp, công nghệ và tính chuyên môn hóa cao
như ngân hàng, điện tử viễn thông. Phương tiện cạnh tranh dịch vụ có ý nghĩa trong
mọi giai đoạn của thị trường. Tuy nhiên, ở giai đoạn thoái trào, vai trò của dịch vụ
thể hiện rõ nét hơn vì nó có thể nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trước nguy
cơ bị thay thế bởi những hàng hoa/dịch vụ tiềm năng khác. Nó bổ sung cho cạnh

tranh chất lượng của sản phẩm và giúp sản phẩm mang một diện mạo mới (Tăng
Văn Nghĩa 2013, tr.22).
1.1.4.4. Quảng cáo
Quảng cáo là phương tiện cạnh tranh quan trọng để chuyển tải thông tin về
hàng hóa/dịch vụ đến khách hàng, biến khách hàng tiềm năng thành khách hàng


×