Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.08 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, có hai con đường để giải quyết tranh chấp thương mại: một là
trọng tài; hai là Tòa án. Cở sở pháp lý để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chính
là thỏa thuận trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài thì vụ tranh chấp
sẽ được đưa ra tòa án để giải quyết. Vậy thỏa thuận trong tài thương mại là gì?
Hình thức, nội dung, ý nghĩa của thỏa thuận ra sao? Để trả lời câu hỏi này em xin
chọn đề số 9: “Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng
tài thương mại”.

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thỏa thuận trọng tài thương mại
1. Khái niệm
Điều 3, Luật Trọng tài thương mại đã đưa ra định nghĩa về trọng tài thương mại
và thỏa thuận trọng tài thương mại như sau:
Theo quy định tại khoản 1 thì trọng tài thương mại là là phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này.
Theo quy định tại khoản 2 thì thỏa thuận trọng tài thương mại là thỏa thuận
giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã
phát sinh.
2. Đặc điểm
Thỏa thuận trọng tài có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, là sự thể hiện ý chí của các bên. Theo đó, các bên đã thống nhất với
nhau về việc tranh chấp sẽ được đưa ra trọng tài thương mại để giải quyết.


Thứ hai, thỏa thuận trọng tài có thể lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh.
Các bên có thể dự liệu trước các trường hợp có thể xảy ra và thỏa thuận về phương
thức giải quyết tranh chấp hoặc cũng có thể khi tranh chấp phát sinh các bên mới
thỏa thuận với nhau về phương thức giải quyết tranh chấp. Luật trọng tài thương
mại tôn trong ý chí của các bên trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp.


Thứ ba, thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Ý chí
của các bên phải được thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức văn bản để có thể làm
cơ sở pháp lý để đưa tranh chấp giải quyết bằng trọng tài thương mại.
Thứ tư, nội dung của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của thỏa thuận trọng tài
chính là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của
các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bât đồng phát sinh hay liên
quan đến hợp đồng chính
Thứ năm, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng dù cho thỏa
thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng.
3. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
Với những đặc điểm đã trình bày ở trên, có thể khẳng định thỏa thuận trọng tài
là yếu tố không thể thiếu trong tố tụng trọng tài thương mại, vai trò quan trọng này
của thỏa thuận trọng tài được thể hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác
lập trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Một khi đã xác lập
thỏa thuận trọng tài thì không bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh chấp
tại trọng tài. Qua đó, cũng giúp các bên nâng cao ý thức trong việc thực hiện những
nghĩa vụ đã cam kết, là một biện pháp tích cực để phòng ngừa các tranh chấp.


Thứ hai, thỏa thuận trọng tài là cơ sở pháp lý để đưa vụ tranh chấp ra giải quyết
bằng phương thức trọng tài. Vụ tranh chấp chỉ được giải quyết tại trọng tài thương
mại khi các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó không bị vô hiệu.
Vì vậy, muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì bắt buộc phải có thỏa thuận
trọng tài.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài là cơ sở pháp lý để công nhận và cho thi hành các
quyết định của trọng tài. Việc xác định thẩm quyền, phạm vi thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào các giới hạn đã đặt ra
trong thỏa thuận trọng tài. Như vậy, khi công nhận quyết định của trọng tài, Tòa án
sẽ căn cứ vào thỏa thuận trọng tài để xét xem trọng tài có giải quyết tranh chấp

đúng thẩm quyền, dúng ohamj vi được yêu cầu hay không.
II.

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại
1. Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Theo quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì:

“1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài
trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”.
2. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa
thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các
bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép
lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;


d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận
trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của
thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.”
Theo khoản 1 thì thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập theo hai cách đó là:
Thứ nhất, hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Hình thức này thường
được xác lập trong trường hợp các bên đã dự đoán trước được việc giải quyết tranh
chấp phát sinh trong tương lai. Hay nói cách khác là nó được xác lập trước khi có
tranh chấp phát sinh. Điều khoản này thường nằm cuối hợp đồng sau khi các bên
đã thỏa thuận xong các điều khoản chính. Điều khoản trọng tài chr mang tính dự

liệu nên thường ngắn gọn.
Thứ hai, hình thức thỏa thuận riêng. Hình thức này có thể được xác lập khi
tranh chấp đã phát sinh hoặc trước khi tranh chấp phát sinh tùy theo thỏa thuận của
các bên. Thỏa thuận này thường được biên soạn đầy đủ và có tính khả thi cao.
Việc quy định hai hình thức này là hợp lý vì nó đã đảm bảo cho các bên đương
sự được tự do thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngay từ khi tranh
chấp chưa phát sinh hoặc khi tranh chấp đã phát sinh.
Theo như quy định tại khoản 2 thì thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn
bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ xác
định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Ngoài ra, so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, việc Luật TTTM 2010
quy định liệt kê các hình thức được coi là văn bản cũng thuận tiện hơn cho các
đương sự cũng như trọng tài viên khi thỏa thuận trọng tài. Theo khoản 1 điều 9
Pháp lệnh Trọng tài 2003 quy định: “1.Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng
văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc


hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp
bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản”. Việc quy định “
hình thức văn bản khác” mà không hướng dẫn cụ thể hình thức văn bản khác là gì
đã gây khó khăn cho trọng tài viên và các bên khi xác định hình thức của thỏa
thuận trọng tài. Như vậy Luật TTTM 2010 bằng cách quy định liệt kê đã khắc phục
được sự không rõ ràng này.
2. Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Luật trọng tài thương mại không có điều khoản quy định cụ thể về điều kiện có
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên có quy định về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, như vậy một thỏa thuận trọng tài sẽ có hiệu lực pháp luật khi không thuộc các
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu quy định tại điều 18, cụ thể:
“ 1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài quy định tại Điều 2 của Luật này.

2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”


Như vậy, ta có thể hiểu rằng, thỏa thuận trọng tài sẽ có hiệu lực pháp luật khi
không thuộc các trường hợp nêu trên. Theo đó, thỏa thuận trọng tài phải đáp ứng
được các điều kiện về mặt hình thức, nội dung và chủ thể, cụ thể như sau:
2.1.

Về hình thức

Như đã trình bày ở phần 1về hình thức của thỏa thuận trọng tài, theo đó thỏa
thuận trọng tài phải được lập thành văn bản, có thể xác lập dưới dạng điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới dạng một văn bản thỏa thuận riêng.
Việc quy định hình thức là một trong các điều kiện để thỏa thuận trọng tài có
hiệu lực là hợp lý, bởi lẽ hình thức là cái thể hiện ra bên ngoài, là cái chứa đựng
nội dung, ý chí của các bên chủ thể về thỏa thuận trọng tài, là căn cứ để xác định
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là cơ sở để tòa án công nhận quyết định
của trọng tài, là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm trách nhiệm của các bên khi tranh
chấp phát sinh. Do đó, phải được xác lập dưới dạng văn bản để trở thành một
chứng cứ rõ ràng mà các bên không thể chối bỏ. Hậu quả pháp lý của việc vi phạm
quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài là một trong những nguyên nhân làm vô
hiệu hóa thỏa thuận trọng tài hoặc làm cho phán quyết trọng tài không được công

nhận thi hành.
2.2.

Về nội dung

Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết
của trọng tài thương mại.
Không phải trong trường hợp nào chỉ cần các bên thỏa thuận giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài là trọng tài đều có thẩm quyền giải quyết, mà thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại bị giới hạn trong một số trường hợp cụ
thể quy định tại điều 2 Luật TTTM như sau:


“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài.”
Việc quy định giới hạn phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
thương mại như vậy là hợp lý vì: một mặt là để nâng cao tính chuyên môn của
trọng tài, hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền. Mặt khác vẫn giữ vững vai trò của tòa
án trong việc xét xử, vạch rõ ranh giới thẩm quyền giữa trọng tài và tòa án.
Bên cạnh đó, việc quy định mở thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khác của
trọng tài mà được pháp luật có liên quan quy định cho phép cũng đã mở rộng hơn
thẩm quyền của trọng tài so với Pháp Lệnh trọng tài thương mại 2003. Theo Pháp
lệnh 2003 thì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh thuộc
hoạt động thương mại còn trong Luật TTTM 2010, tiêu chí hoạt động thương mại
thậm chí còn không được đặt ra, mà chỉ cần trong pháp luật chuyên ngành có quy
định tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài thương mại. Như vậy, với việc quy
định mở này cũng tạo điều kiện cho các bên có thể được giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài dù cho tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại nếu pháp
luật liên quan cho phép.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài không vi phạm điều cấm của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 123 BLDS 2015 thì “Điều cấm của luật là những quy
định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Như
vậy, trong thỏa thuận trọng tài, các bên không được thỏa thuận những nội dung mà
pháp luật không cho phép thực hiện. Cũng tại điều này đã quy định “Giao dịch dân
sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô


hiệu”, như vậy việc quy định thỏa thuận trọng tài không vi phạm điều cấm của
pháp luật là điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cũng là để phù hợp với
quy định của luật chung.
2.3.

Về chủ thể

Thứ nhất, người xác lập thỏa thuận trọng tài phải là người có thẩm quyền.
Theo đó thỏa thuận trọng tài phải do người có thẩm quyền xác lập, trường hợp
do người không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người
được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá
phạm vi được ủy quyền thì thỏa thuận đó sẽ bị vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận
trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập,
thực hiện hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận
trọng tài đã cháp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài
không vô hiệu.
Như vậy, quy định này của Luật TTTM 2010 đã thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo
đối với hoạt động tố tụng trong tài. Việc chủ thể có thẩm quyền cho biết ý kiến
bằng văn bản chấp nhận thỏa thuận trọng tài như một sự ủy quyền hợp pháp cho
chủ thể không có thẩm quyền ký kết, qua đó đảm bảo ý muốn giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài của chủ thể có thẩm quyền.
Thứ hai, người xác lập thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định tại khoản 3, điều 3, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật trọng tài thương mại 2010 thì người xác lập thỏa thuận trọng tài người không
có năng lực hành vi dân sự “là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này thì


Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài
không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày
tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa
án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự”
Việc quy định năng lực chủ thể là điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
là hợp lý, bởi lẽ bản chất của thỏa thuận trọng tài là một hợp đồng dân sự, là sự tự
do thỏa thuận của các bên về việc đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, nó là
sự thể hiện ý chí của các bên trên cơ sở tự nguyện. Chính vì vậy, chỉ có những chủ
thể có đủ năng lực hành vi dân sự mới thể hiện ý chí của mình cụ thể và chính xác
nhất.
Thứ ba, một trong các bên không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình
xác lập thỏa thuận.
Thỏa thuận trọng tài là hòn đá tảng của tố tụng trọng tài, là kết quả sự thống
nhất ý chí giữa các bên dựa trên nguyên tắc tự do, bình đẳng. Sự thống nhất ý chí
đó không thể bị ràng buộc, tác động hay áp đặt bởi pháp luật hay bất kỳ cá nhân, tổ
chức, cơ quan nào. Chính vì thế sự lừa dối, đe dọa, cưỡng ép giữa các bên tham gia
ký kết thỏa thuận trọng tài là nhũng hành động đi ngược lại với những nguyên tắc
tự do thỏa thuận và hệ quả tất yếu sẽ dẫn tới thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Như vậy, pháp luật quy định như trên là nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên khi bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong thỏa thuận trọng tài, đảm

bảo cho ý chí của các bên là hoàn toàn tự nguyện.

3. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được


Luật TTTM 2010 đã chỉ ra ba trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện
được tại khoản 3,4 và 5 điều 43 cụ thể:
“3. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung
tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà
không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trung
tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án
để giải quyết.
4. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên
trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh
chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu
không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
5. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức
trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh
chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ
thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình
thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của
nguyên đơn”.
Ngoài ra, theo quy định tại nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 3 năm
2014 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM 2010
cũng quy định ngoài hai trường hợp quy định tại khoản 3, 4 nêu trên thì còn bổ
sung thêm 3 trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được,cụ thể như
sau:
“3. Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài
vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được



chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên
không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
4. Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài
nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với
Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của
Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép
áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa
thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
5. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa
thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá,
dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật TTTM nhưng khi phát
sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh
chấp”.
Theo quy định tại điều 6 Luật TTTM 2010 thì khi thỏa thuận trọng tài không
thể thực hiện được thì tòa án sẽ được thụ lý giải quyết. Như vậy, việc quy định rõ
các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được là rất hợp lý, nó đã
chỉ rõ thẩm quyền của tòa án trong những trường hợp này, góp phần hạn chế những
tranh chấp về thẩm quyền giữa trọng tài và tòa án trong thực tế.
4. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận trọng tài vô hiệu và thỏa thuận trọng tài
không thể thực hiện được
Một thỏa thuận trọng tài khi không đáp ứng được đủ các điều kiện nêu trên hay
nói cách khác là nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại điều 18 Luật
TTTM 2010 nêu trên thì thỏa thuận đó sẽ vô hiệu. Tùy thuộc vào từng giai đoạn
của quá trình giải quyết tranh chấp mà hậu quả pháp lý của việc thỏa thuận trọng
tài vô hiệu như sau:


Thứ nhất, trường hợp Hội đồng trọng tài đã ra quyết định đình chỉ việc giải

quyết vụ việc thì các bên có quyền thỏa thuận, lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp.
Thứ hai, trường hợp vụ việc đang được Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết
khiếu nại của Tòa án, Hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ giải quyết
tranh chấp theo quy định tại khoản 6 Điều 44 Luật TTTM.
Thứ ba, trường hợp Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết trọng tài thì một hoặc
các bên có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục chung.
5. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
5.1. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Theo quy định tại điều 19 Luật TTTM 2010 thì: “Thoả thuận trọng tài hoàn
toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô
hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng
tài”.
Như đã trình bày ở trên, thỏa thuận trọng tài có thể là một điều khoản trọng tài
trong hợp đồng hoặc là một văn bản thỏa thuận riêng biệt, nhưng dù ở hình thức
nào thì thỏa thuận trọng tài cũng tồn tại độc lập với hợp đồng.
Sở dĩ ngay cả khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trong hợp đồng chính
thì nó cũng độc lập với hợp đồng chính vì thỏa thuận trọng tài có đối tượng pháp lý
là xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát
sinh, hoàn toàn khác so với đối tượng của hợp đồng chính. Do đó, việc pháp luật
trọng tài xác định hiệu lực độc lập của thỏa thuận trọng tài là hoàn toàn hợp lý, nó
biểu hiện nguyên tắc tôn trọng ý chí của các bên.


Tuy nhiên, nếu căn cứ làm hợp đồng vô hiệu cũng chính là căn cứ làm thỏa
thuận trọng tài vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài cũng sẽ vô hiệu. Ví dụ như, hợp
đồng được xác lập do người không có thẩm quyền xác lập, do người mất năng lực
hành vi dân sự xác lập, hay khi giao kết hợp đồng một trong các bên bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép thì khi đó hợp đồng sẽ bị vô hiệu và thỏa thuận trọng tài cũng vô

hiệu nhưng là vô hiệu theo quy định tại điều 18 Luật TTTM 2010 chứ không phải
vô hiệu vì hợp đồng vô hiệu.
5.2.

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong trường hợp có sự thay đổi của
một bên chủ thể

Theo quy định tại khoản 2, 3 điều 5 Luật TTTM 2010 thì: “2. Trường hợp một
bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả
thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo
pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt
hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi
hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận
quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”.
Như vậy, khi một bên chủ thể là cá nhân chết, mất NLHVDS, tổ chức bị chấm
dứt hoạt động…nếu không có thỏa thuận khác thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu
lực đối với người thừa kế, người đại diện theo pháp luật của cá nhân, tổ chức tiếp
nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó.
Quy định này đã tạo ra căn cứ pháp lý cụ thể để đảm bảo hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài, tránh trường hợp một trong số các bên trốn tránh trách nhiệm.
III.

Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài
thương mại và kiến nghị hoàn thiện, sửa đổi


Trong pháp luật về trọng tài thương mại, các quy định về thỏa thuận trọng tài cơ
bản đã được hoàn thiện, tuy nhiên bên cạnh đó, khi đưa vào thực thi trong thực tiễn
các quy định về thỏa thuận trọng tài vẫn còn xuất hiện một số điểm vướng mắc

sau:
Thứ nhất, luật TTTM 2010 mới chỉ đề cập đến ba khuyết tật trong sự ưng thuận
của của các chủ thể khi xác lập thỏa thuận trọng tài là lừa dối, đe doa, cưỡng ép mà
không hề đề cập đến trường hợp bị nhầm lẫn. Trên thực tế, thường xuyên xảy ra
tình trạng một trong các bên chủ thể bị nhầm lẫn trong quá trình xác lập thỏa thuận
trọng tài. Ví dụ, tại thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài, 2 bên chủ thể đã thống
nhất với nhau chọn ông A làm trọng tài viên, tuy nhiên cả hai bên đều không biết
rằng tại thời điểm đó, ông A đã không còn làm trọng tài nữa. Như vậy, trong trường
hợp này, nên cho phép 2 bên có quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô
hiệu. Bởi lẽ, bản chất của thỏa thuận trọng tài chính là một giao dịch dân sự mà
theo quy định tại điều 126 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu do nhầm
lẫn, như vậy để bảo đảm lợi ích của các bên cũng như để phù hợp với quy định của
Luật chung, Luật TTTM 2010 nên bổ sung thêm tiêu chí “nhầm lẫn” vào quy định
các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Thứ hai, tồn tại mâu thuẫn giữa khoản 1 điều 4 và khoản 6 điều 18 Luật TTTM
2010, cụ thể: Tại khoản 1 điều 4 quy định: “Trọng tài viên phải tôn trọng thoả
thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã
hội” như vậy chỉ những thỏa thuận trọng tài không vi phạm điều cấm và trái đạo
đức xã hội mới được trọng tài viên tôn trọng hay nói cách khác là thỏa thuận đó
mới có hiệu lực. Tuy nhiên tại khoản 6, điều 18 thì chỉ quy định thỏa thuận trọng
tài vô hiệu khi nó vi phạm điều cấm của pháp luật mà không đề cập đến việc trái
đạo đức xã hội. Như vậy, có thể hiểu những thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm


của pháp luật theo quy định tại điều 123 BLDS 2015 sẽ bị vô hiệu còn thỏa thuận
trái đạo đức xã hội phải chăng sẽ không bị vô hiệu.
Đây chính là điểm mâu thuẫn và là khe hở của pháp luật về thỏa thuận trọng tài,
vì vậy cần bổ sung thêm cụm từ “ trái đạo đức xã hội” vào khoản 6, điều 18 Luật
TTTM 2010 để khắc phục tình trạng trên.
Thứ ba, thời hiệu tuyên bố thỏa thuận trong tài vô hiệu không được đề cập đến

trong Luật TTTM 2010.Trước đây, khoản 6, điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương
mại năm 2003 quy định “thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là
6 tháng, kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng
trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp”. Tuy nhiên đến Luật
TTTM 2010 đã bỏ quy định về thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô
hiệu do một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Điều này đã làm phát sinh
câu hỏi là vấn đề thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong
trường hợp này sẽ được xác định như thế nào?

KẾT LUẬN
Như vậy, chúng ta có thể thấy pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại
nói riêng và pháp luật về trọng tài thương mại nói chung về cơ bản đã hoàn thiện
tuy nhiên vẫn còn một số điểm vẫn cần được bổ sung để có thể được hoàn thiện
hơn nữa. Góp phần đảm bảo lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật
về trọng tài thương mại.Trên đây là bài làm của em, do kiến thức còn hạn chế nên
bài làm còn nhiều thiếu xót, mong thầy cô góp ý để bài làm được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại tập II, Nguyễn
Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội 2018;
2. Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
3. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
quốc hội số 08/2003/PL-UBTHQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về Trọng
tài thương mại;
4. Bộ luật Dân sự 2015;
5. Saisamone Vora Vonggsa, Thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp
thương mại – so sánh pháp luật của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
với pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc

6.
7.

sĩ luật học, HN – 2017;
/> />w/articleid/26159/binh-luan-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam-hien-hanh-vethoa-thuan-trong-tai-thuong-mai



×