Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nhượng quyền thương mại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.03 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Nhượng quyền thương mại - Franchising - đã ra đời và phát triển trong
hơn sáu thập kỷ qua tại nhiều nước Âu - Mỹ. Còn tại Việt Nam, dù đã
manh nha hình thành cách đây gần chục năm, nhưng hiện nay nhượng
quyền thương mại vẫn là phương thức kinh doanh hoàn toàn khá mới mẻ.
Với việc chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới thì vấn đề này
càng phải được quan tâm nhiều hơn, nó đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan
quản lý phải đưa ra được những quy định, chính sách để cho loại hình này
phát triển phù hợp với thông lệ của quốc tế và phù hợp với điều kiện phát
triển của Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi đó pháp luật Việt Nam đã
có một số quy định về vấn đề nhượng quyền thương mại, qua bài tập này
em xin đi sâu vào việc tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam
về vấn đề nhượng quyền thương mại.
1
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm
a) Một số khái niệm trên thế giới
· Khái niệm nhượng quyền của Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh
Quốc tế (The International Franchise Association):
Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International
Franchise Association) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới đã nêu ra
Khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:
"Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên
giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự
quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như:
bí quyết kinh doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động
dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên
giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư
đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình".



· Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu
EC (nay là liên minh Châu Âu EU):
EC Khái niệm quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở
hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền
tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc
cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền thương
mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được Khái niệm ở
trên.
2
· Khái niệm nhượng quyền thương mại của Mêhicô:
Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy
định:
"Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử
dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ
hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm,
hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative
methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được chủ
thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng
(prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới
thương hiệu đó."
· Khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga:
Chương 54, Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của
"sự nhượng quyền thương mại" như sau:
"Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền)
phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời
hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh
doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có
quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối

với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các
đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.."
Tất cả các Khái niệm về nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa
trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi nước. Tuy nhiên, có thể
thấy rằng các điểm chung trong tất cả những Khái niệm này là việc một
Bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ
dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ,
và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát triển và
3
sở hữu; để được phép làm việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp
nhận một số hạn chế do Bên giao quy định.
b) Theo pháp luật Việt Nam
Theo Điều 284 Luật Thương mại 2005
“ Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo
cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn
với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu
kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
2. Đặc điểm
Theo như định nghĩa ở trên thì nhượng quyền thương mại có những
đặc điểm sau:
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại do
thương nhân thực hiện, tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại
gồm có bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại.
Hai bên này đều phải là các thương nhân và có tư cách pháp lý hoàn toàn
độc lập với nhau. Sau khi nhận quyền thương mại, bên nhận quyền

thương mại được tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ trên cơ sở sự cho phép của bên nhượng quyền thương mại để khai thác
lợi ích cho chính mình.
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại có sự
chuyển giao “ quyền thương mại” gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ đó là
“ cách thức tổ chức kinh doanh… nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí
4
quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng
cáo” của bên nhượng quyền cho bên nhận quyền.
- Bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại
luôn tồn tại “ quyền kiểm soát và trợ giúp” rất gắn bó và mật thiết. Đây
được coi là một đặc điểm nổi bật của nhượng quyền thương mại so với
các hoạt động thương mại khác. Nhượng quyền thương mại thực chất là
việc mở rộng mô hình kinh doanh đã thành công trên thị trường bằng cách
chia sẻ quyền kinh doanh thương mại cho các thương nhân nhận quyền.
Tuy nhiên việc mở rộng mô hình kinh doanh, bên nhượng quyền thương
mại luôn phải đối mặt với nguy cơ giảm uy tín thương mại nếu bên nhận
quyền không thực hiện đúng cam kết. Điều này đòi hỏi bên nhượng quyền
phải kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền, khiến bên nhận quyền
phải tuân thủ chặt chẽ mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền, qua đó
bảo vệ được thương hiệu của mình.
- Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ nhượng quyền thương mại
chính là hợp đồng nhượng quyền thương mại, chính hợp đồng thương mại
thể hiện việc thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoậc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Theo
Điều 285 Luật Thương mại 2005 thì “ hợp đồng thương mại phải được
lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương.”
3. Bản chất
Trong thời gian trước đây ở Việt Nam nhượng quyền thương mại

được coi như là một dạng hoạt động chuyển giao công nghệ và chịu sự
điều chỉnh của luật về chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên về bản chất
nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ là hai hoạt động
khác biệt. Nhượng quyền thương mại chính là việc nhượng quyền kinh
doanh kèm theo đó là uy tín, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu
hiệu, biểu tượng kinh doanh cũng như các kiến thức, bí quyết kinh doanh
5
dây truyền thiết bị công nghệ cho một thương nhân. Trên cơ sở đó thương
nhân nhận quyền thương mại phát triển một cơ sở kinh doanh mới, một cơ
sở có thể bán, sản xuất kinh doanh một loại hàng hóa nhất định hoặc cung
cấp các dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, phương thức phục vụ như
thương nhân nhượng quyền và dưới thương hiệu của thương nhân nhượng
quyền. Hay nói cách khác “nhượng quyền thương mại là hoạt động
thương mại nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh của bên nhượng quyền
thông qua việc chia sẻ quyền kinh doanh trên cùng một thương hiệu cho
bên nhận quyền”. Ngược lại chuyển giao công nghệ thực chất là việc
chuyển giao các kiến thức kỹ thuật từ người có kiến thức cho một người
khác, trên cơ sở đó người nhận kiến thức khai thác các giá trị của công
nghệ sản xuất ra hàng hóa sản phẩm theo ý kiến chủ quan của mình chứ
không phải theo một khuôn mẫu, quy định nào từ phía bên chuyển giao
công nghệ. Xuất phát từ sự khác biệt về bản chất đó, cho nên khi sử dụng
các văn bản pháp luật về chuyển giao công nghệ điều chỉnh việc nhượng
quyền thương mại đã tạo ra một số vấn đề bất cập trong thực tiễn, nhận
thức được những vấn đề bất cập đó, đồng thời để đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn cuộc sống và tiến trình hội nhập, Luật Thương mại 2005 đã
chính thức bổ sung thêm một số hoạt động thương mại vào phạm vi điều
chỉnh đó là nhượng quyền thương mại. Đây là chế định góp phần hoàn
thiện pháp luật về thương mại nói chung và nhượng quyền thương mại
nói riêng. Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại độc lập, có
những nét đặc thù so với chuyển giao công nghệ.

Dưới góc độ kinh doanh, nó là một hình thức tiếp thị và phân phối
hàng hóa, dịch vụ rất hiệu quả, theo đó, bên nhận quyền được cấp quyền
kinh doanh một loại sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với các tiêu chuẩn,
hệ thống, phương thức đã được bên nhượng quyền thiết lập với sự trợ
giúp, huấn luyện và kiểm soát của bêm nhượng quyền. Đổi lại, bên nhận
quyền phải trả phí nhượng quyền và phí bản quyền cho bên nhượng
quyền.
6
4. Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại
* Đối với bên nhượng quyền:
+ Mở rộng được hệ thống kinh doanh mà không phải đầu tư nhiều và
vẫn nằm trong sự điều tiết, kiểm soát của mình. Do tính đặc thù của
nhượng quyền thương mại là bên nhận quyền thương mại luôn chịu sự
kiểm soát của bên nhượng quyền thương mại.
+ Thu được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ việc nhượng quyền cho
bên nhận quyền vì khi nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả tiền bản
quyền thuê thương hiệu và tiền phí để được kinh doanh với tên và hệ
thống của bên nhượng quyền. Đồng thời bên nhận quyền phải mua sản
phẩm, nguyên liệu của bên nhượng quyền nhờ đó mà bên nhượng quyền
có thể tối đa hoá thu nhập của mình.
+ Cải thiện được hệ thống phân phối.
+ Thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu. Khi sử dụng hình thức nhượng
quyền, bên nhượng quyền sẽ tạo được những lợi thế trong việc quảng cáo,
quảng bá thương hiệu của mình. Mở rộng kinh doanh và sự xuất hiện ở
khắp nơi của chuỗi cửa hàng sẽ đưa hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm
trí khách hàng một cách dễ dàng hơn.Bên cạnh đó, vì chi phí quảng cáo sẽ
được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng, cho nên, chi phí quảng cáo cho một
đơn vị kinh doanh là rất nhỏ. Điều này giúp bên nhượng quyền xây dựng
được một ngân sách quảng cáo lớn. Đây là một lợi thế cạnh tranh mà khó
có đối thủ cạnh tranh nào có khả năng vượt qua. Hoạt động quảng cáo

càng hiệu quả, hình ảnh về sản phẩm, thương hiệu càng được nâng cao,
giá trị vô hình của công ty càng lớn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho bên
nhận quyền khi sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền.
Và như thế cả bên nhượng quền và bên nhận quyền ngày càng thu được
nhiều lợi nhuận từ việc áp dụng hình thức kinh doanh nhượng quyền.
+ Hạn chế khả năng cạnh tranh của các đối thủ.
7
* Đối với bên nhận quyền:
+ Tận dụng được nguồn lực, tiết kiệm được chi phí và thời gian trong
việc xây dựng một mô hình kinh doanh đào tạo đội ngũ quản lý hay xây
dựng một thương hiệu trên thị trường.
+ Giảm thiểu rủi ro: Mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là
giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa hàng, cơ sở kinh doanh mới có rất nhiều
rủi ro và tỷ lệ thất bại cao. Lý do chính của tỷ lệ thất bại cao là do người
quản lý là những người mới bước vào nghề, không có kinh nghiệm và phải
mất nhiều thời gian cho việc học hỏi các đặc trưng riêng của từng loại
hình kinh doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận
quyền sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý,
bí quyết thành công của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng
quyền đã tích luỹ được từ những lần trải nghiệm trên thị trường tức là họ
kinh doanh theo một mô hình quản lý có sẵn. Bên nhận quyền không phải
trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu. Bên nhượng quyền sẽ
hướng dẫn bên nhận quyền các nguyên tắc chung.
+ Được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi: bên nhượng quyền
luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên
bên nhận quyền. Do đó, bên nhận quyền được mua sản phẩm hoặc nguyên
liệu với khối lượng lớn theo một tỷ lệ khấu hao đầy hấp dẫn. Giá của các
sản phẩm, nguyên liệu đầu vào thấp sẽ là một trong những lợi thế cạnh
tranh lớn. Nếu trên thị trường có những biến động lớn như việc khan hiếm
nguồn hàng thì bên nhượng quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận

quyền trước. Điều này giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào, tránh
được những tổn thất từ biến động thị trường.
+ Rất phù hợp với những thương nhân có quy mô kinh doanh vừa và
nhỏ vì mức cạnh tranh của các thương nhân này nếu tự mình xây dựng các
thương hiệu cho riêng mình thì sẽ rất khó khăn.
8
II. THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1. Trên thế giới
Nhượng quyền thương mại được thế giới nhìn nhận là khởi nguồn
tại Mỹ nhưng thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với hình thức
có 2 – 3 điểm bán lẻ cùng hình thức tại một số địa điểm khác nhau cùng
kinh doanh. Năm 1840, các nhà sản xuất bia của Đức cho phép một vài
quán bia quyền bán sản phẩm của họ. Năm 1851, lần đầu tiên trên thế giới
nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ ký cho thực hiện hợp đồng nhượng
quyền kinh doanh. Singer đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành
người tiên phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Năm
1880 bắt đầu nhượng quyền bán sản phẩm cho các đại lý độc quyền trong
lĩnh vực xe hơi, dầu lửa, gas. Trong thời gian này, phạm vi hoạt động
nhượng quyền chỉ là chuyển quyền phân phối và bán sản phẩm của các
nhà sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hình thức này đã thực sự phát
triển rất mạnh mẽ. Sự bùng nổ dân số sau chiến tranh đã kéo theo sự tăng
vọt nhu cầu về các loại sản phẩm và dịch vụ và lúc này, nhượng quyền đã
trở thành mô hình kinh doanh thích hợp để phát triển nhanh chóng trong
ngành công nghiệp thức ăn nhanh và khách sạn. Vào thập niên 60-70,
nhượng quyền bùng nổ và phát triển mạnh ở Mỹ, Anh và một số nước
khác.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra rất nhanh,
mạnh trong tất cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy
vai trò của nó trên toàn thế giới. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12

phút lại có 1 hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở Mỹ, 90% công ty kinh
doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10
năm trong khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa và cũng chỉ có 5%
công ty theo hợp đồng thương hiệu thất bại trong năm đầu tiên so với
9
38% công ty độc lập. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên thế
giới là điều tất yếu.
Một số kết quả thực sự ấn tượng của hệ thống này mang lại trên thế
giới : Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên toàn thế giới
năm 2000 đạt 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác
nhau. Nếu so sánh với GDP của Việt Nam cùng năm thì hệ thống này gấp
trên 28 lần và còn có dấu hiệu vượt hơn nữa trong những năm gần đây.
Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu
hút được trên 8 triệu người lao động tứ là 1/7 tổng lao động ở Mỹ và có
hơn 550.000 cửa hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một cửa hàng
nhượng quyền mới ra đời.
Ở Châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương
mại; với 167.500 cửa hàng nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt
khoảng 100 tỉ Euro. Tạo ra hơn 1.5 triệu việc làm. Ở Anh, nhượng quyền
thương mại là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền
kinh tế với khoảng 32.000 DN nhượng quyền, doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ
bảng Anh. Khu vực nhượng quyền thương mại cũng thu hút một lượng
lao động lớn với khoảng 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần
bán lẻ.
IFA cho hay, nhượng quyền kinh doanh thương hiệu riêng ở khu vực
châu Á đã tạo doanh thu hơn 50 tỷ USD mỗi năm.
Ở Thái Lan số hợp đồng nhượng quyền đang tăng rất nhanh, trong đó
có tới 67% thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, với số vốn ban đầu
cho mỗi hợp đồng 20.000-65.000 USD. Bộ thương mại công bố chương
trình khuyến khích và quảng bá thương hiệu nội địa ra thị trường quốc tế

qua nhượng quyền thương mại. Được hỗ trợ đào tạo trung và ngắn hạn về
công nghệ nhượng quyền thương mại. Bước đầu: năm 2004 đạt 25 triệu
Baht, năm 2005 tăng 10% tương tự các năm tiếp theo.
Tại Nhật Bản, nhượng quyền thương mại phát triển mạnh từ năm 1996,
đến năm 2004 đã có 1.074 hệ thống nhượng quyền thương mại và
10

×