Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh khánh hòa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển, đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có
vị trí địa chính trị, địa kinh tế và địa quân sự rất quan trọng cho sự tồn vong
và phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, trước tình hình tranh
chấp CQBĐ trong khu vực và trên Biển Đông diễn ra ngày càng gia tăng phức
tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, khó lường, đang đặt ra khó khăn,
thách thức trong bảo vệ CQBĐ ở nước ta. Đảng ta đã nhận định: “…tranh
chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn
ra gay gắt” [20, tr.73]. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đặc biệt là bảo vệ CQBĐ là mục tiêu cao nhất của
sự nghiệp BVTQ Việt Nam hiện nay. Đây là nhiệm vụ và trách nhiệm của cả
HTCT, nhiều lực lượng, trong đó, HTCTCS giữ vai trò trực tiếp quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc CQBĐ của Tổ quốc.
Khánh Hòa là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ. Biển Khánh Hòa có chiều dài
tính theo mép nước khoảng 385 km; có gần 200 đảo lớn, nhỏ gần bờ và trên 100
đảo, bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Vùng biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa
có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại hết sức
quan trọng. Đặc biệt quần đảo Trường Sa - vùng đất thiêng liêng của Tổ quốc, là
vị trí tiền tiêu bảo vệ sườn Đông của đất nước, đang xuất hiện nhiều tình huống
liên quan trực tiếp đến chủ quyền, an ninh quốc gia, CQBĐ của Tổ quốc.
Nhận thức rõ vị trí của biển, đảo tỉnh Khánh Hòa trong phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội và củng cố QP – AN của đất nước. Thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (Khóa X) của Đảng “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”; Đề
án phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 đã xác định: “Xây dựng Khánh Hòa
là địa bàn vững chắc về quốc phòng, an ninh và thế trận an ninh nhân dân gắn
với thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh trong việc giữ vững và bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam” [70, tr.8].

3



Để thực hiện tốt chủ trương, nghị quyết của tỉnh đối với nhiệm vụ
bảo vệ vững chắc CQBĐ quê hương, trong nhưng năm qua, HTCTCS tỉnh
Khánh Hòa về cơ bản đã làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho nhân dân về bảo vệ CQBĐ của Tổ quốc; thực hiện tốt nhiệm vụ
phát triển KT - XH, gắn với củng cố QP - AN, thực hiện công tác đối
ngoại ở cơ sở; phối hợp với các lực lượng đứng chân trên địa bàn trong
bảo vệ CQBĐ quê hương. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong
thực tiễn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của HTCTCS tỉnh
Khánh Hòa đối với nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ quê hương cũng còn tồn tại
những hạn chế nhất định như: Công tác tuyên truyền, giáo dục cho các
tầng lớp nhân dân về bảo vệ CQBĐ ở một số nơi có lúc chưa được thường
xuyên, liên tục; trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa phát huy hết thế
mạnh, tiềm năng của địa phương để phát triển KT - XH nâng cao đời sống
của nhân dân.
Trước những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường về tranh chấp
CQBĐ trên quần đảo Trường Sa thuộc vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa của
Việt Nam. Vì vậy, để bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện
nay cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả HTCT, trong đó HTCTCS là lực
lượng trực tiếp có vai trò hết sức quan trọng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Vai trò hệ thống chính trị cơ
sở trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu luận văn cao học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về HTCT nói chung, HTCTCS nói riêng, về bảo vệ CQBĐ
Việt Nam là những vấn đề lớn, phức tạp, và đã được nhiều công trình khoa
học nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau, trong đó nổi lên các công trình sau:
* Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở và vai trò hệ
thống chính trị cơ sở


4


Thang Văn Phúc (2002), “Chính quyền cấp xã và quản lý Nhà nước ở
cấp xã”, Nxb CTQG [45]. Tác giả đã trình bày vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền cấp xã. Trình tự thủ tục, phương
pháp giải quyết công việc hàng ngày, kinh nghiệm và cách giải quyết đối với
một số tình huống thường xuyên xảy ra trên địa bàn cơ sở.
Vũ Hoàng Công (2002), “Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng
và giải pháp”, Nxb CTQG, Hà Nội [9]. Tác giả đã lãm rõ những vấn đề lý
luận cơ bản của HTCT Việt Nam nói chung và HTCTCS (cấp xã) nói riêng; từ
đó rút ra những đặc điểm, những vấn đề bức xúc và kiến nghị những giải pháp
cơ bản trong việc củng cố, nâng cao hiệu quả của HTCTCS.
Nguyễn Hữu Đông (2010), “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội [21]. Tác
giả đã khái quát những vấn đề cơ bản của HTCT ở Việt Nam; làm rõ chức
năng, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức CT - XH trong
HTCT; thực trạng hoạt động và những vấn đề đặt ra trong tổ chức và hoạt
động của Đảng, các tổ chức CT - XH trong HTCT Việt Nam hiện nay.
Ngoài một số cuốn sách đề cập ở trên, nhiều đề tài khoa học, luận văn,
luận án cũng quan tâm nghiên cứu về HTCTCS và vai trò HTCTCS ở từng
địa bàn cụ thể của đất nước. Tiêu biểu là: Đề tài khoa học Cấp bộ, Hà Nội; Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), “Các chuyên đề của Hội
thảo khoa học hệ thống chính trị cấp cơ sở các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên Thực trạng và giải pháp” [25], Lâm Đồng; Phan Thanh Phương (2012), “Phát
huy vai trò hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Gia Lai trong đấu tranh chống diễn
biến hòa bình hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội [47]; Trần Thanh
Lâm (2015) “Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Phước thực hiện giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Hà Nội [31]; Nguyễn Văn Hội (2017), “Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong
giữ gìn giá trị văn hóa xứ Đoài ở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội hiện


5


nay”, Luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội [28]; Nguyễn Thu
Hằng (2017), “Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Bắc Giang hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà
Nội [24]; Nguyễn Trường Sơn (2009), “Phát huy vai trò bộ đội địa phương trong
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của
địch trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội [53]…
Các đề tài khoa học, luận văn, luận án trên đã nghiên cứu HTCTCS ở
các địa phương khác nhau của đất nước. Trên cơ sở làm rõ quan niệm, vai trò
của HTCTCS, tác giả các công trình đã phân tích cấu trúc, phương thức hoạt
động của các thành tố trong HTCTCS; khảo sát thực trạng và đề xuất các giải
pháp nhằm phát huy vai trò của HTCTCS trong thực hiện các nhiệm vụ cụ thể ở
một số địa phương của đất nước.
* Các công trình nghiên cứu về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam
Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), “Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Việt Nam”, Nxb CTQG, Hà Nội [1]. Sách đề cập đến vị trí, vai
trò tiềm năng của biển và kinh tế biển Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát
triển kinh tế đất nước, đồng thời, nhấn mạnh đến kết hợp phát triển kinh tế biển
gắn với củng cố, quốc phòng, an ninh trên biển, đảo Việt Nam.
Nguyễn Minh Tâm (2014),“Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Nxb CTQG, Hà
Hội [54]. Tác giả đã bàn về lịch sử chính trị, kinh tế, quân sự của Biển Đông.
Chiến lược bảo vệ CQBĐ quốc gia ở Biển Đông.
Trần Duy Hải (2014),“Những vấn đề liên quan đến liên quan đến chủ
quyền biển, đảo của Việt Nam trên biển Đông”, Nxb CTQG, Hà Nội [23]. Tác
giả đã trình bày khái quát về Biển Đông, vị trí chiến lược của biển, đảo nước ta,
chính sách biển cũng như công tác bảo vệ CQBĐ Việt Nam trên Biển Đông.

Trần Thị Huyền (2015), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc”, Nxb CTQG, Hà Nội [29]. Tác giả đã tập

6


hợp các bài nghiên cứu lý luận và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào bảo vệ
CQBĐ Việt Nam; những văn bản pháp lý của Quốc tế và Việt Nam về biển,
đảo và công tác bảo vệ chủ quyền và quản lý, khai thác biển, đảo Việt Nam.
Trương Minh Dục (2015), “Chủ quyền quốc gia Việt Nam tại hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua tư liệu Việt Nam và nước ngoài”, Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Hội [21]. Tác giả đã tập hợp và hệ thống hóa
nguồn thư tịch, tư liệu quá phong phú, cũ và mới của Việt Nam và nước
ngoài, đặc biệt những tư liệu mới sưu tầm ở các địa phương có liên quan đến
việc Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã quản lý, bảo vệ và khai
thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Phạm Ngọc Trâm (2016), “Bảo vệ chủ quyền và quản lý - khai thác
biển đảo Việt Nam 1975-2014”, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh [64].
Đây là sách chuyên khảo được tác giả nghiên cứu biên soạn công phu, góp
phần dựng lại bức tranh về lịch sử bảo vệ chủ quyền và quản lý - khai thác
biển, đảo của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế đa dạng và phức tạp. Những tư
duy chiến lược quốc tế, đặc biệt là chiến lược về Biển Đông của Mỹ và Trung
Quốc đã tác động to lớn đến công cuộc bảo vệ chủ quyền và quản lý - khai
thác biển đảo của Việt Nam.
Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Viện Chiến lược và Phát triển (2003), “Chiến
lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo
Việt Nam đến năm 2020” [8]. Là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước do
Viện Chiến lược phát triển thực hiện đã tập trung làm rõ điều kiện địa - chính
trị của Biển Đông và các hải đảo của Việt Nam; thực trạng CQBĐ Việt Nam;
đánh giá vai trò của các điều ước Quốc tế về biển và kết quả thực hiện các

điều ước đó vào việc bảo vệ CQBĐ Việt Nam.
Hà Sơn Thái (2017), “ Ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội [56]. Tác giải luận giải một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về ý thức dân tộc trong bảo vệ CQBĐ Việt Nam

7


của thanh niên quân đội hiện nay, trên cơ sở đó dự báo những nhân tố tác
động, đề xuất những yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng cao ý thức dân tộc
trong bảo vệ CQBĐ Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay.
* Các công trình nguyên cứu về vùng biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa
Ban Tổ chức Festival Biển, đảo tỉnh Khánh Hòa (2011),“Kỷ yếu Hội
thảo khoa học văn hóa biển, đảo ở Khánh Hòa” [3]. Cuốn sách được biên tập
từ những báo cáo của các nhà khoa học trên toàn quốc. Sách cung cấp cho
chúng ta những cơ sở lý luận, những kết quả ban đầu và những định hướng
nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa biển, đảo ở Khánh Hòa.
Mai Văn Điệp (2006), “Phát triển kinh tế biển và tác động của nó đến
củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Kinh tế, Hà Nội [22]. Tác giả luận văn đã luận giải một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển kinh tế du lịch biển, đồng thời, đưa ra một số giải pháp
gắn phát triển kinh tế du lịch biển với củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
Nguyễn Quốc Khoa (2015),“Xây dựng thế trận lòng dân trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Chủ
nghĩa xã hội khoa học [30]. Tác giả đã luận giải một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về bảo vệ CQBĐ và đưa ra khái niệm xây dựng thế trận lòng dân trong
bảo vệ CQBĐ; đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả xây dựng thế trận lòng dân trong bảo vệ CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa.
Nguyễn Văn Dung (2009), “Tác động của phát triển kinh tế thủy sản ở

Khánh Hòa đến xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh trong giai đoạn hiện nay”,
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội [12]. Tác giả phân tích, đánh giá thực trạng
tác động của phát triển kinh tế thủy sản tới xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh
Khánh Hòa, đồng thời, đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của phát triển kinh
tế thủy sản đến xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Phạm Hồng Binh (2015),“Xây dựng hệ thống chính trị ở huyện đảo
Trường Sa hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã

8


hội khoa học, Hà Nội [4]. Tác giả đã đi sâu luận giải tính đặc thù, làm rõ quan
niệm, đặc điểm xây dựng cũng như chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và đề xuất
yêu cầu, giải pháp cơ bản xây dựng HTCT huyện đảo Trường Sa vững mạnh
đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc CQBĐ Việt Nam trên quần đảo Trường Sa.
Bên cạnh các công trình khoa học nghiên cứu về biển, đảo Việt Nam,
bảo vệ CQBĐ Việt Nam, vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa đã được công bố, còn
có một số bài báo tiêu biểu của các tác giả như: Trần Thiết (2011), “Huy động
sức mạnh tổng hợp quốc gia xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc” [57]; Vũ Đình Tấn (2011), “Đẩy
mạnh tuyên truyền về biển, đảo góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” [55]; Phạm Thị Nhung (2012), “Bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo của Việt Nam” [44]; Thông tấn xã Việt Nam (2014),
“Những “cột mốc” khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc” [58], Bùi Thị
Như Ngọc (2015),“Tăng cường đại đoàn kết toàn dân trong bảo vệ chủ quyền
biển, đảo nước ta hiện nay” [42]; Nguyễn Xuân Phúc, (2017) “Phát triển lực
lượng tàu ngầm là để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo” [46]; Phùng
Mạnh Cường (2016), “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của tổ quốc trong tình hình mới” [10]…

Ở các cách tiếp cận khác nhau, các bài báo đã nói lên tầm quan trọng
của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo đảm QP - AN; thông qua đánh giá
vai trò to lớn của biển, đảo các tác giả đã đề xuất một số giải pháp phát triển
kinh tế biển, gắn với tăng cường xây dựng thế trận QP - AN bảo vệ vững chắc
CQBĐ của Tổ quốc. Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình, đề tài khoa học
được công bố nghiên cứu đến nhiều khía cạnh khác nhau có liên quan đến
HTCT; vai trò của HTCTCS; đến biển, đảo và bảo vệ CQBĐ trong sự nghiệp
BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu dưới góc độ CT - XH về “Vai trò hệ thống chính trị cơ sở
trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay”.

9


Vì vậy, đề tài là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả, có kế thừa
những nội dung nghiên cứu của các công trình nói trên liên quan đến đề tài,
nhưng không trùng lặp với các công trình khoa học, luận án, luận văn đã được
công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò HTCTCS trong
BVCQ biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất yêu cầu
và giải pháp phát huy vai trò HTCTCS trong bảo vệ CQBĐ ở tỉnh Khánh
Hòa hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về vai trò HTCTCS trong bảo vệ
CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa.
Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò HTCTCS trong thực tiễn bảo vệ
CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp phát huy vai trò HTCTCS trong

bảo vệ CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò HTCTCS trong bảo vệ CQBĐ biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện
nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu vai trò HTCTCS các xã, phường, thị trấn
(gọi tắt là cơ sở) thuộc các huyện ven biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa trong
bảo vệ CQBĐ; qua điều tra khảo sát trực tiếp các xã Vạn Khánh, Vạn
Phú (huyện Vạn Ninh), Phường Vĩnh Nguyên, Vạn Thọ (thành phố Nha
Trang), xã Cam Lập, Cam Thịnh Đông (thành phố Cam Ranh); thời gian
từ 2013 đến nay.

10


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bản chất, chức
năng, nhiệm vụ của HTCT và HTCTCS, về BVTQ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
CQBĐ Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa vào thực tiễn hoạt động của HTCTCS trong lãnh đạo,
quản lý, tổ chức nhân dân bảo vệ CQBĐ tỉnh Khánh Hòa, qua các số liệu
thống kê, báo cáo tổng kết của HTCT các cấp tỉnh Khánh Hòa, cùng kết quả
điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về vấn đề này trên địa bàn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với

phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống, so sánh, điều tra
xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa
học cho cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các tổ chức CT - XH
của HTCTCS tỉnh Khánh Hòa trong bảo vệ CQBĐ hiện nay. Đồng thời, luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy môn chủ nghĩa
xã hội khoa học trong các nhà trường Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục và các công trình khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu.

11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN,
ĐẢO Ở TỈNH KHÁNH HÒA HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa
1.1.1. Chủ quyền biển, đảo Việt Nam và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam
* Chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
Biển, đảo của Việt Nam: Biển, đảo theo Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1982 quy định: “Biển là phần đại dương ít nhiều bị ngăn
cách bởi lục địa, các đảo hoặc vùng cao của đáy, có chế độ thủy văn riêng
biệt” [35]. Theo quy định này, biển được phân thành 3 nhóm: Biển nội địa,
biển ven bờ và biển được bao quanh bởi các đảo. Đảo là một vùng đất tự
nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.

Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng
nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
Biển, theo góc độ địa lý Việt Nam: Biển là bộ phận của đại dương, nằm
ở gần hoặc xa đất liền những có những đặc điểm riêng khác với vùng nước
của đại dương bao quanh như (như về nhiệt độ, độ mặn, chế độ thủy văn, các
vật liệu trầm tích đấy, các sinh vật). Tại Điều 3 Luật Biển Việt Nam quy định:
“Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982” [Phụ lục 2b]. Điều 19 Luật Biển Việt Nam quy định:
“Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất
này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ
phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên

12


quan chặt chẽ với nhau. Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ
phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam” [53].
Như vậy, theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và
Luật Biển Việt Nam năm 2013, Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km dọc từ Bắc
tới Nam, với vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km 2, lớn gấp 3 lần diện
tích lãnh thổ, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Ngoài hai quần đảo Hoàng
Sa (Đà Nẵng) và Trường Sa (Khánh Hòa) như tuyến phòng thủ phía Đông của
Tổ quốc. Biển Việt Nam có hệ thống đảo ven bờ khoảng 3000 hòn đảo lớn
nhỏ với tổng diện tích trên 1.600 km 2. Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc.

Từ việc khái quát về biển, đảo Việt Nam, kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học đã được công bố, tác giả đưa ra quan niệm: Chủ
quyền biển đảo của Việt Nam là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia trong
việc thực thi, sở hữu, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo theo Công ước Quốc
tế và Luật pháp Việt Nam.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam
có đầy đủ các quyền cơ bản đối với CQBĐ của quốc gia:
Quyền chủ quyền biển đảo của Việt Nam là các quyền của Việt Nam được
hưởng trên cơ sở chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, cũng như đối với những hoạt động nhằm
thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Quyền tài phán về biển đảo Việt Nam là thẩm quyền của Việt Nam
trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát mọi hoạt động trong
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam [2].
* Quan niệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam hiện nay
Thuật ngữ bảo vệ được hiểu: “Là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm
để giữ cho được nguyên vẹn” [66, tr.53]. Bảo vệ CQBĐ Việt Nam là một nội

13


dung của BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, trong điều kiện
Đảng Cộng sản đã nắm chính quyền lãnh đạo xã hội, nhiệm vụ BVTQ xã hội
chủ nghĩa có nội dung toàn diện, với mục tiêu bảo vệ bao gồm: Bảo vệ độc
lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; bảo vệ thành quả cách mạng và công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và Người đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng “Một
cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” [33, tr.145].
Trong lãnh đạo và kiến thiết đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
khẳng định vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp BVTQ.
Người khẳng định: “Nước ta về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc,

đất phì nhiêu” [42, tr.374]. Theo Người, biển bạc chính là của cải, là sự giàu
có nếu khai thác tốt tiềm năng; biển chứa đựng tài nguyên có giá trị kinh tế,
nối liền không gian kinh tế đất nước với thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa
ra hình ảnh gần gũi mà dễ hiểu với toàn dân: “Đồng bằng là nhà, mà biển là
cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không ? Nếu mình không lo bảo vệ
miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên” [40, tr.311]. Người còn
nhấn mạnh đến bảo vệ toàn vẹn biển, đảo khi đến thăm Bộ đội Hải quân,
Người chỉ rõ: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có
trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết gìn giữ lấy nó” [41, tr.80].
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
BVTQ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện quan điểm nhất
quán về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ và khẳng định: “…bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo,
biên giới, vùng trời” [18, tr.233] và: “Chúng ta mong muốn các vùng biển và
hải đảo của Tổ quốc luôn hòa bình, hữu nghị, ổn định, nhưng chúng ta cũng
quyết tâm làm hết sức mình để bảo vệ vùng biển, đảo của đất nước” [66]. Đó là
thể hiện ý chí quyết tâm cao độ, tinh thần trước sau như một của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đối với sự nghiệp bảo vệ vững chắc CQBĐ của Tổ quốc.

14


Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ Việt Nam trong tình
hình mới, tác giả đưa ra quan niệm về bảo vệ CQBĐ Việt Nam.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam là tổng thể các hoạt động có tổ
chức của cả hệ thống chính trị và toàn dân, do lực lượng chuyên trách làm
nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung,
thống nhất của Nhà nước, nhằm thực thi, giữ vững chủ quyền, quyền chủ
quyền quốc gia trên các vùng biển, đảo, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ

quyền biển, đảo quốc gia, được luật pháp quốc tế công nhận, được quy định
trong luật pháp Việt Nam.
Mục tiêu bảo vệ CQBĐ Việt Nam: Kiên quyết, kiên trì giữ vững độc
lập, chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; giữ vững lợi ích
quốc gia, môi trường hòa bình, bảo đảm tự do, an toàn hàng hải, hàng không
trên vùng biển, đảo Việt Nam.
Nội dung bảo vệ CQBĐ Việt Nam: Là bảo vệ toàn vẹn chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng biển, đảo Việt Nam; bảo vệ lợi
ích quốc gia, dân tộc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh và giá trị lịch sử, giá trị pháp lý trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Lực lượng bảo vệ CQBĐ Việt Nam: Tại Điều 4, Luật biển Việt Nam năm
2012 quy định: “Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách
nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các
vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển” [53, tr.2].
Trong đó, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt, nhất là Hải quân,
Cảnh sát Biển, Biên Phòng biển, Kiểm Ngư là lực lượng giữ vai trò trực tiếp,
nhân dân trên các vùng biển, đảo là lực lượng tại chỗ rất quan trọng.
Phương thức bảo vệ CQBĐ Việt Nam: Kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh
vũ trang và phi vũ trang, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
đối ngoại và QP - AN trên cơ sở luật pháp quốc tế, trực tiếp là Công ước của

15


Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Nói cách khái quát, bảo vệ CQBĐ Việt
Nam được tiến hành trên mọi phương thức, trên cơ sở xác định đối tượng, đối
tác trong nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ quốc gia; đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; tăng cường, cũng cố tiềm lực quốc
phòng trên vùng biển, đảo trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia trên các vùng biển, đảo trong tình hình mới.

* Quan niệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
Vùng biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa là một bộ phận không thể tách rời của
biển, đảo Việt Nam. Với đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh
Cam Ranh, có độ dài khoảng 385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch,
đầm, vịnh, cùng với khoảng 200 đảo lớn, nhỏ ven bờ. Trong vùng biển Khánh
Hòa có sáu đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân Phong, Hòn Khói, đầm
Nha Phu, vịnh Nha Trang và vịnh Cam Ranh. Trong đó có nổi bật nhất vịnh
Cam Ranh với chiều dài 16 km, chiều rộng 32 km, thông với biển qua eo biển
rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18 - 20m và được xem là cảng biển có điều kiện tự
nhiên tốt nhất Đông Nam Á. Đặc biệt, đây còn được xem là Quân cảng cơ động
nhất của tàu chiến, tàu ngầm và nhiều phương tiện tác chiến khác.
Quần đảo Trường Sa- một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc thuộc
vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước
ta. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 hòn đảo nhỏ và bãi san hô với diện tích
vùng biển rộng khoảng 410.000 km2 nằm ở giữa vĩ độ 6030’ đến 120 Bắc và kinh
độ 111030’ đến 117020’ Đông. Việt Nam thực hiện chủ quyền và đóng giữ 21
đảo, gồm 9 đảo nổi và 12 đảo đá ngầm với 33 điểm đóng quân [Phụ lục 3]. Sự
liên kết giữa các đảo, cụm đảo, tuyến đảo của quần đảo Trường Sa tạo thành lá
chắn quan trọng phía trước vùng biển và dải bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ,
bảo vệ sườn phía Đông của đất nước.
Thềm lục địa tỉnh Khánh Hòa rất hẹp. Địa hình vùng thềm lục địa phản
ánh sự tiếp nối của cấu trúc địa hình trên đất liền, dưới đáy biển phần thềm

16


lục địa cũng có những dãy núi ngầm mà các đỉnh cao của nó nhô lên khỏi mặt
nước hình thành các hòn đảo như hòn Tre, hòn Miếu, hòn Mun. Xen giữa các
đảo nổi, đảo ngầm là những vùng trũng tương đối bằng phẳng gọi là các đồng
bằng biển, đó chính là đáy các vũng, vịnh như vịnh Vân Phong, vịnh Nha

Trang, vịnh Cam Ranh.
Hiện nay, trên vùng biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa, đặc biệt là trên khu vực
quần đảo Trường Sa vẫn là nơi đang diễn ra những tranh chấp về CQBĐ; nơi
tiềm ẩn những bất trắc khó lường, thách thức, đe dọa đến sự toàn vẹn CQBĐ
Việt Nam, sự an ninh của đất nước trên biển và từ hướng biển. Hướng ra biển,
tiến ra biển, làm giàu từ biển đã và đang trở thành xu thế của thế giới và khu vực.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm biển, đảo Việt Nam và vùng biển, đảo ở
tỉnh Khánh Hòa; từ quan niệm, mục tiêu, nội dung, lực lượng, phương thức,
bảo vệ CQBĐ Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện
nay là toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và nhân
dân, trực tiếp là hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và nhân dân tỉnh
Khánh Hòa, nhằm thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán cũng như
các giá trị khác từ biển, đảo được thực thi trên vùng biển, đảo Khánh Hòa.
1.1.2. Quan niệm và biểu hiện vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
* Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam
Hệ thống chính trị. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện
bằng một hệ thống các thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Khi nghiên
cứu về đời sống CT - XH, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa dùng thuật từ HTCT
mà thường sử dụng các thuật ngữ như: “Hệ thống chính trị cai trị”, “cơ cấu
chính trị” để chỉ cách thức tổ chức và hoạt động của một thiết chế xã hội như

17


là khái niệm tương đồng với HTCT hiện nay. Khi các mạng xã hội chủ nghĩa
thành công ở nước Nga, chính quyền Xô viết ra đời, V.I. Lênin dùng khái
niệm: “hệ thống chuyên chính vô sản” để chỉ một thiết chế chính trị của xã

hội chủ nghĩa bao gồm các yếu tố cơ bản: Chính quyền Xô viết, Đảng Cộng
sản của giai cấp công nhân giữ vai trò độc tôn lãnh đạo nhà nước Xô viết, các
tổ chức quần chúng mà tiêu biểu là công đoàn.
Như vậy, nội hàm của khái niệm chuyên chính vô sản mà V.I. Lênin sử
dụng tương đồng với nội hàm của khái niệm HTCT hiện đại. Từ cách tiếp cận
của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể hiểu: Hệ thống chính trị
là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích
của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể bao gồm: Đảng
Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức CT - XH và mối quan hệ
giữa các thành tố đó nhằm bảo đảm quyền lực của đại đa số quần chúng nhân
dân lao động. HTCT xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi là trước hết phải có Chính
quyền xô-viết, một cơ cấu chính trị tạo khả năng cho quần chúng bị áp bức
nắm lấy tất cả mọi công việc; không có Chính quyền xô-viết, không thể có
chủ nghĩa cộng sản được. ” [34, tr.37].
Ở nước ta, từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI năm 1989, khái niệm
chuyên chính vô sản được thay bằng khái niệm HTCT và chính thức sử dụng
trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước với mục đích là vừa phù hợp với xu
thế phát triển đất nước trong thời kỳ mới của thời đại, vừa bảo đảm sự thống
nhất trong các hoạt động của các yếu tố cấu thành HTCT và được hiến định
trong Hiến pháp năm 2013: Hệ thống chính trị ở Việt Nam là một chỉnh thể

18


bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, cùng với cơ chế vận hành và
mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận này nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam và các tổ chức CT - XH hợp pháp khác của nhân dân
được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân. Các tổ chức trong HTCT có chức năng là tham gia vào thực hiện quyền
lực chính trị của xã hội nhằm mục đích thực hiện đường lối chính trị của
Đảng, thực hiện đầy đủ quyền lực của nhân dân. Cơ chế hoạt động của HTCT
nước ta hiện nay vận hành theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ.
Thông qua cơ chế này, HTCT tác động đến toàn xã hội trên cơ sở
quyền lực giai cấp - xã hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành
phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, HTCT đảm bảo tính thống
nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân.
Bản chất của HTCT ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhận. Bản
chất đó được hình thành từ những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, khách quan
là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhân dân là người làm chủ
thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xây
dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

19



minh. Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, HTCT ở nước ta được tổ chức
theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở.
Hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam. Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta
bao gồm xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cơ sở). Cấp cơ sở là cấp trực tiếp
nhất trong hệ thống 4 cấp quản lý hành chính ở nước ta hiện nay. HTCTCS
vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo cấp độ của HTCT, nhưng nó là
cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của
nhân dân, nơi chính quyền gần dân nhất; nơi tổ chức và triển khai thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hiệu quả hoạt động của HTCTCS có ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước.
Những phản ứng bất bình của người dân, tình trạng khiếu kiện kéo dài, đông
nguời vượt cấp trong thời gian gần đây ở một số địa phương gây nên những
điểm nóng chính trị phức tạp và các điểm nóng này nếu không xử lý sẽ có sức
lan tỏa làm mất ổn định chính trị và có thể dẫn đến mất chế độ. Ổn định chính
trị và làm lành mạnh xã hội bắt đầu từ sự ổn định và lành mạnh cơ sở với một
HTCTCS được lòng dân.
Cấu trúc của HTCTCS ở nước ta bao gồm: Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ
cơ sở, đảng bộ cơ sở); Chính quyền (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân);
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức CT - XH. Mỗi tổ chức có vai trò, nhiệm vụ
riêng và có quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, tổ chức cơ sở đảng có vị trí,
vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các tổ chức cơ sở đảng, Đảng thực hiện
sự lãnh đạo của mình đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với toàn
thể nhân dân. Đảng ta khẳng định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng
bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở” [15, tr.35].
Chính quyền địa phương trong HTCTCS gồm có Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, được bầu ra theo quy định của Hiến
pháp. Trong đó, Hội đồng nhân dân, theo Điều 113 Hiến pháp năm 2013 quy


20


định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương
do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân” [50].
Ủy ban nhân dân, theo Điều 114 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Uỷ
ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao” [50].
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức CT - XH ở cơ sở: Là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân ở cơ sở; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã
hội, giữ mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Các tổ chức trong HTCTCS có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng
đều có mục tiêu chung là hướng tới sự phát triển KT - XH ở cơ sở, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu của
đất nước: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Như vậy, HTCTCS là một bộ phận của HTCT Việt Nam, được tổ chức
ở cấp xã, phường, thị trấn, bao gồm tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức CT - XH và mối quan hệ hữu cơ giữa các tổ chức đó, hoạt
động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ,
trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phát huy vai

trò làm chủ của nhân dân ở địa phương.

21


* Đặc điểm tổ chức, nhiệm vụ và hoạt động của hệ thống chính trị cơ
sở tỉnh Khánh Hòa
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Khánh Hòa là một chỉnh thể thống nhất
được tổ chức ở cấp xã, phường, thị trấn, bao gồm tổ chức Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức CT - XH và mối quan hệ gắn bó hữu cơ với
nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Từ khi chia tỉnh Phú Khánh để tái lập thành tỉnh Phú Yên và tỉnh
Khánh Hòa. Bộ máy hành chính tỉnh Khánh Hòa chính thức đi vào hoạt động
từ ngày 01/7/1989 đến nay. Trong quá trình lãnh đạo, Tỉnh ủy cùng với Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã rất quan tâm đến việc xây dựng và phát
huy vai trò HTCTCS đối với việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và củng
cố QP - AN, bảo vệ CQBĐ quê hương. Hiện nay, theo số liệu thống kê các
đơn vị hành chính tỉnh Khánh Hòa được tổ chức ở cấp xã, phường, thị trấn
gồm có: 99 xã, 35 phường, 6 thị trấn… [Phụ lục 6].
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Khánh Hòa bao gồm các thiết chế: Tổ chức
cơ sở đảng, chính quyền, các tổ chức CT - XH liên kết với nhau trong một
chỉnh thể thống nhất và các cơ chế chính trị cho sự hoạt động của các thiết
chế đó đã được hiến định trong Hiến Pháp.
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở). Theo số liệu thống
kê của Ban tổ chức tỉnh ủy Khánh Hòa tính đến hết tháng 12 năm 2017 toàn
tỉnh có 138 tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn [Phụ lục 7]. Tổ chức cơ
sở đảng ở tỉnh Khánh Hòa là nền tảng của Đảng ở cơ sở, là hạt nhân lãnh đạo
tất cả các mặt công tác ở cơ sở từ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại và phát huy dân chủ ở cơ sở.

Chính quyền cơ sở tỉnh Khánh Hòa là người đại diện cho quyền và lợi
ích của nhân dân địa phương, đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà
nước ở cơ sở trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật đã hiến định.

22


Mặt trận Tổ quốc cùng với các tổ chức CT - XH cơ sở ở tỉnh Khánh
Hòa là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có vai trò rất quan trọng
trong việc củng cố, tăng cường sự đoàn kết trong nhân dân, tạo nên sự gắn bó
mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị ở địa phương.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ trì ở HTCTCS
tỉnh Khánh Hòa có cơ cấu độ tuổi, thành phần dân tộc, tôn giáo; trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà nước ngày càng được hoàn thiện và nâng
cao, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
[Phụ lục 8a] và [Phụ lục 8b].
Nhiệm vụ chủ yếu của HTCTCS tỉnh Khánh Hòa là tổ chức và bảo đảm
việc thi hành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn; Quyết định
những vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân quyền, phân cấp theo
quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên trực tiếp
về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của địa phương. Đồng thời,
quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển KT XH, củng cố QP - AN bảo vệ vững chắc CQBĐ quê hương.
Hoạt động của HTCTCS tỉnh Khánh Hòa vừa phản ánh đặc điểm chung
của HTCTCS ở nước ta, vừa phản ánh những nét riêng, đặc thù ở một tỉnh biên
giới biển với một vùng biển, đảo rộng lớn. Trong hoạt động lãnh đạo HTCTCS
tỉnh Khánh Hòa có nhiệm vụ hết sức nặng nề, vừa phải thực hiện việc phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, vừa phải bảo vệ vững
chắc CQBĐ Việt Nam trên vùng biển, đảo Khánh Hòa. Đây là nhiệm vụ lớn, yêu

cầu cao so với các địa phương khác trong cả nước.
Bởi lẽ, từ điều kiện tự nhiên, môi trường nhân sinh ở Khánh Hòa rất đa
dạng, vừa có rừng núi, đồng bằng, đặc biệc với một vùng biển, đảo rộng lớn
bao hàm cả quần đảo Trường Sa. Có 51/140 xã biên giới biển, xã đảo trên

23


huyện đảo Trường Sa hoạt động trong môi trường khắc nghiệt của điều kiện
thời tiết, thủy văn trên biển và ở khu vực biển đang diễn ra tranh chấp CQBĐ
hết sức phức tạp và nhạy cảm. Với một không gian địa lý rộng lớn, kéo dài từ
miền núi đến hải đảo, việc hoạt động của HTCTCS tỉnh Khánh Hòa trong
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình là hết sức khó khăn và mang tính
độc lập cao so với các địa phương khác. Đây là đặc điểm chi phối, tác động
đến hiệu quả hoạt động của HTCTCS trong việc thực hiện phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội nhất là phát triển kinh tế biển, đảo ở địa phương gắn với bảo
vệ vững chắc CQBĐ quê hương.
Bên cạnh đó, vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa, đặc biệt là khu vực huyện
đảo Trường Sa đang diễn ra tranh chấp CQBĐ giữa các quốc gia trong khu vực.
Hoạt động của HTCTCS, nhất là ở các địa phương biên giới biển, các xã đảo
thường xuyên tiếp xúc với các lực lượng nước ngoài, liên quan đến hoạt động
đối ngoại của Nhà nước trong thực hiện bảo vệ CQBĐ của quốc gia trên biển.
Đặc điểm này đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các xã biên giới biển, xã đảo ngang tầm với nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ
trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các địa phương này không chỉ
có bề dầy kinh nghiệm công tác, mà phải nắm chắc quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước về bảo vệ CQBĐ; có tư duy nhẹ bén trong xử lý đúng đắn,
linh hoạt các tình huống có thể gây phương hại đến CQBĐ.
* Nội dung biểu hiện vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay

Thuật ngữ vai trò được hiểu là: “tác dụng, chức năng của ai hoặc cái gì
trong sự hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức” [67,
tr.534]. Theo đó, mỗi tổ chức của HTCTCS tỉnh Khánh Hòa đều có vai trò nhất
định trong thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương. Vai trò HTCTCS tỉnh Khánh
Hòa được biểu hiện thông qua hoạt động của nó trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
đã được luật định mà cốt lõi là thực thi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã

24


hội, củng cố QP - AN, thực hiện công tác đối ngoại và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện.
Vai trò của HTCTCS trong bảo vệ CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa được biểu
hiện cụ thể trên các nội dung cơ bản sau:
Một là, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Khánh Hòa là lực lượng trực tiếp
trong tuyên truyền giáo dục cho nhân dân địa phương về chủ quyền biển, đảo
và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
Tuyên truyền biển, đảo là hoạt động tư tưởng cơ bản trong công tác tư
tưởng của Đảng. Tuyên truyền biển, đảo có vai trò hết sức quan trọng, nhằm
nâng cao nhận thức cho nhân dân, tạo nên sự đồng thuận cao trong toàn xã
hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây
dựng thế trận lòng dân vững mạnh, làm nền tảng cho các hoạt động quản lý,
khai thác và bảo vệ vững chắc CQBĐ Việt Nam theo chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Khánh Hòa là địa phương có bờ biển dài, với một vùng biển, đảo
rộng lớn bao hàm cả quần đảo Trường Sa có vị trí địa kinh tế, địa chính trị
và địa quân sự rất quan trọng đối với sự phát triển hưng thịnh của đất nước
nói chung và trực tiếp là tỉnh Khánh Hòa . Thông qua tuyên truyền giáo

dục về CQBĐ sẽ làm cho nhân dân nhận thức và hành động đúng với

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về mục tiêu,
nhiệm vụ BVTQ; bảo vệ vững chắc CQBĐ trước những diễn biến hết
sức phức tạp khó lường trên Biển Đông, đặc biệt trên vùng biển, đảo
thuộc huyện đảo Trường Sa, qua đó xác định tốt trách nhiệm bảo vệ
CQBĐ cho nhân dân địa phương.
Hệ thống chính trị cơ sở là lực lượng trực tiếp trong tuyên truyền, giáo
dục về bảo vệ CQBĐ, vì HTCTCS là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Hiệu quả hoạt động của nó phản ánh trực tiếp hiệu quả hoạt

25


động lãnh đạo, chỉ đạo của HTCT cấp trên, của Đảng, Nhà nước trong thực
hiện thắng lợi Nghị quyết số 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; bảo vệ CQBĐ của đất
nước hiện nay. Khi thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục về CQBĐ
và trách nhiệm bảo vệ CQBĐ của nhân dân địa phương sẽ là nhân tố quan
trọng góp phần giữ vững CQBĐ của Tổ quốc.
Hai là, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Khánh Hòa trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện công tác đối
ngoại, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
Hệ thống chính trị cơ sở lãnh đạo, tổ chức phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội củng cố QP - AN, thưc hiện công tác đối ngoại ở cơ sở, đó là nhiệm vụ
trọng tâm, phản ánh chức năng của HTCTCS. Đồng thời, nó bảo đảm cho địa
phương phát triển bền vững, tạo nên sức mạnh nội sinh, sức mạnh “lòng dân”
cho sự nghiệp bảo vệ CQBĐ quê hương.
Đảng ta đã khẳng đinh: “Hệ thống chín trị cơ sở có vai trò rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,

phát huy quyền dân chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh
tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư” [16, tr.166].
Do vậy, để bảo vệ vững chắc CQBĐ của Tổ quốc trên vùng biển, đảo
Khánh Hòa có hiệu quả. HTCTCS phải thực hiện tốt việc phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương. Kết chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố QP - AN trong mọi tình
huống cả thời bình và thời chiến như Đảng ta đã nêu: “Kết hợp chặt chẽ
kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với
kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, chú trọng vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo” [20, tr.149].
26


Bên cạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển KT - XH, nâng cao đời sống
mọi mặt của nhân dân, chăm lo đến công tác xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an
sinh xã hội... HTCTCS tỉnh Khánh Hòa còn thực hiện vai trò giữ gìn, bảo tồn,
phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của địa phương, nhất là văn hóa biển,
đảo Khánh Hòa có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm thất bại mưu đồ xâm
lăng văn hóa của các thế lực thù địch; làm cho văn hóa thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ, bảo vệ CQBĐ, như Đảng ta
đã khẳng định: “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc” [20, tr.126].
Ngoài ra, HTCTCS tỉnh Khánh Hòa có vai trò trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức xây dựng địa phương vững mạnh về QP - AN, giữ vững ổn định trật tự
an toàn xã hội, thực hiện công tác quân sự, quốc phòng ở địa phương cơ sở trong
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân,
xây dựng thế trận lòng dân, đặc biệt là thế trận “lòng dân” trên biển vững mạnh
gắn với bảo vệ vững chắc CQBĐ quê hương. Vận động và tổ chức cho nhân dân
tham gia vào phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở, tạo nền tảng

vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chủ động
phòng ngừa, phát hiện sớm những tình huống xấu, nguy hại liên quan trực tiếp
đến bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên vùng biển, đảo quê hương. Đảng ta
đã nêu rõ: “…chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất
lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến” [20, tr.149].
Với một vùng biển, đảo rộng lớn bao gồm cả quần đảo Trường Sa
nơi đang diễn ra những tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia và vùng
lãnh thổ trong khu vực. Vì vậy, hoạt động đấu tranh bảo vệ CQBĐ Việt
Nam và bảo vệ an ninh cho ngư dân Việt Nam an tâm làm ăn, sinh sống
trên biển là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên và quan trọng của
HTCTCS tỉnh Khánh Hòa.

27


×