Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Giáo dục học tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.57 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA: GIÁO DỤC TIỂU HỌC

BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI:

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở BẬC TIỂU
HỌC TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đồng Văn Toàn
Sinh viên thực hiện

: Trần Duy Phương

Lớp

: K43B, phòng B115, ca chiều

MSSV

: 43.01.901.150

Học phần

: Giáo dục học tiểu học

2018 - 2019

Mục lục


2




VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở BẬC TIỂU
HỌC TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI HIỆN NAY
Họ tên: Trần Duy Phương
MSSV: 43.01.901.150
Email:
I. Đặt vấn đề
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, giáo dục chưa có trường lớp chuyên biệt. Đến
chế độ chiếm hữu nô lệ, giáo dục đã có sự xuất hiện của trường học. Từ đó, trường
học từng bước phát triển gắn liền với các hình thái kinh tế ngày càng phức tạp của xã
hội loài người. Ở thế kỷ XVI, nhà giáo dục Séc J.A. Cômenxki (1592-1670) đã đưa ra
được một hình thức tổ chức dạy học mới đó là hệ thống lớp – bài [1]. Từ đó mô hình
lớp học được duy trì và không ngừng phát triển mạnh mẽ ở khắp các nước trên thế
giới.
Ngày nay, trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, lớp học là đơn vị cơ
bản được sử dụng để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh. Một lớp học phải có một
người quản lý lớp hay còn gọi là giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động giáo dục học sinh và ngày càng khẳng định
sứ mệnh quan trọng của mình trước những đòi hỏi phức tạp của xã hội. Với mỗi giáo
viên chủ nhiệm, công tác chủ nhiệm lớp có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân
cách của học sinh. Cho nên các nước phát triển đã chỉ ra những nội dung giáo dục cho
học sinh trung học có liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp như: giáo dục kỹ năng
sống, giáo dục những giá trị sống, giáo dục hướng nghiệp…. Riêng đối với cấp bậc
tiểu học ở Việt Nam, công tác chủ nhiệm gắn liền với mọi hoạt động dạy học của giáo
viên; giáo viên phải gắn bó với một lớp học, một số lượng học sinh nhất định xuyên
suốt cả năm học thuộc về một khối lớp tiểu học nào đó.
Thực tế, các khía cạnh của người giáo viên chủ nhiệm và công tác quản lý chủ
nhiệm lớp rất đa dạng như nội dung công tác chủ nhiệm, chức năng của người giáo
viên chủ nhiệm, phương pháp, kế hoạch, tổ chức hoạt động chủ nhiệm trên lớp…

nhưng với khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, tác giả chỉ dừng lại ở việc khai thác,
bàn luận những thông tin cơ bản về vị trí, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong
xã hội ngày nay với những thuận lợi và khó khăn nhất định, so với xã hội ngày trước
sẽ là những đòi hỏi cao hơn mà mỗi người thầy, người cô nhất thiết cần phải tu dưỡng.
II. Nội dung
1. Một số khái niệm cơ bản về vị trí, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm
1.1. Khái niệm “vị trí, vai trò”
Vị trí là khái niệm dùng để chỉ “một chỗ, một nơi xác định dành riêng cho một
người, một vật” [2]. Với một cách định nghĩa khác, vị trí còn dùng để chỉ “địa vị, vai
trò trong xã hội, trong một tổ chức nào đó” [2]. Vị trí phản ánh địa vị của một người
hoạt động trong một tổ chức xã hội nhất định có thể là cơ quan của bộ máy nhà nước
hoặc công ty, xí nghiệp, bệnh viện… Một người được bổ nhiệm vào một vị trí có thể
3


sẽ được phép giữ quyền hành mà không bị phế truất và hoạt động trong một giới hạn
thời gian nếu không vi phạm quy tắc của tổ chức. Ví dụ, một vị chủ tịch nước, thủ
tướng chính phủ, chủ tịch quốc hội sẽ đảm nhiệm vị trí ấy trong vòng năm năm đến
khi kết thúc nhiệm kỳ, nếu người đó mong muốn được tiếp tục đóng góp thì một lần
nữa họ sẽ phải tự ra ứng cử và có thể được tái bổ nhiệm. Trường học là một cấu trúc
hành chính – sư phạm đặc thù, là một tổ chức xã hội chặt chẽ có các bộ phận từ nhỏ
đến lớn; các bộ phận lớn có quyền hành chi phối và điều khiển hoạt động của các
thành phần nhỏ hơn và ở mỗi đơn vị sẽ có những người đảm nhiệm những vị trí nào đó
để quản lý và thực thi nhiệm vụ trong một giới hạn quyền hành nhất định. Trong
trường học, một giáo viên có thể đảm nhận các vị trí, có thể là một, hai hoặc nhiều vị
trí khác nhau. Ví dụ, hiệu trưởng là người có vị trí và quyền hành quản lý cao nhất
trong một trường; vị trí trưởng khoa dùng để chỉ người có nhiệm vụ điều hành hoạt
động của một khoa; vị trí giáo viên đơn thuần là những người trực tiếp giảng dạy các
môn học trong chương trình giáo dục; hoặc vừa là giáo viên, các thầy cô vừa phải dạy
học, vừa phải đảm nhận thêm vị trí công tác chủ nhiệm lớp. Ở tiểu học, thầy cô làm

công tác chủ nhiệm phải gắn bó lâu dài với học sinh và lặp lại chu kỳ ấy sau một năm.
Trong suốt năm học ấy, thầy cô và học sinh được tiếp xúc với nhau liên tục để hiểu
nhau hơn. Vì thế đôi khi giáo viên chủ nhiệm có thể nắm bắt được hầu hết đặc điểm
tâm lý của từng đứa trẻ hơn là cha mẹ của chúng và khi ấy thầy cô chủ nhiệm trong
lòng các em cũng sẽ chiếm một vị trí không kém phần quan trọng. Thông thường, vị trí
chủ nhiệm một lớp học sẽ được hiệu trưởng và hội đồng sư phạm của trường đề cử khi
người giáo viên ấy hội tụ đủ các yếu tố về năng lực và phẩm chất xứng đáng để có thể
đưa tập thể lớp ngày càng đi lên.
Cùng với vị trí, vai trò cũng là danh từ dùng để chỉ “tác dụng, chức năng của ai hoặc
cái gì trong hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức” [2]. Khi đảm
nhiệm một vị trí cũng đồng nghĩa với việc người đó sẽ đóng một vai trò, một chức
năng nào đấy. Trong tổ chức không thể tồn tại tình trạng được bổ nhiệm vị trí mà
không thực hiện một sứ mệnh nào cả. Vai trò thường được phản ánh theo tên gọi của vị
trí. Ví dụ, giáo viên chủ nhiệm sẽ được chiết tự và giải nghĩa là “người giáo viên được
cấp trên bổ nhiệm sẽ là người đứng đầu, làm chủ một lớp và có vai trò, nhiệm vụ tổ
chức, quản lý, điều khiển lớp học đó sao cho tổ chức ấy tiến bộ”; hay cố vấn học tập là
“người có vai trò hướng dẫn, đưa ra lời khuyên với những vấn đề liên quan đến học
tập và rèn luyện của học sinh”. Vai trò cũng chính là trách nhiệm cần phải thực hiện
mà không thể thoái thác. Người thực hiện tốt vai trò của mình trong một tổ chức sẽ
góp phần nâng cao uy tín của bản thân và thúc đẩy sự phát triển về chất lượng, hiệu
quả làm việc chung của cả tổ chức, tập thể.
Khái niệm vị trí và vai trò thường đi song hành với nhau vì tính biện chứng giữa
chúng nên khó có thể tách bạch. Vị trí càng cao thì vai trò càng nặng nề; ngược lại,
người làm tốt vai trò thì vị trí ấy là hoàn toàn xứng đáng. Người lạm dụng vị trí hoặc
vượt quá quyền hạn sẽ bị xử lý theo nội quy, luật lệ của tổ chức, tập thể. Một người
giáo viên chủ nhiệm ở tiểu học sẽ có những vị trí và vai trò nhất định. Một số vị trí, vai
trò của người giáo viên tiểu học thường được nhắc đến như: giáo viên chủ nhiệm là
người thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học; giáo viên chủ nhiệm là người xây
4



dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết; họ là người tổ chức các hoạt động giáo
dục học sinh trong lớp; là cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp; và là
người giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục. Những vấn
đề này sẽ được bàn luận kỹ càng hơn ở phần sau.
1.2. Vài nét về người giáo viên tiểu học và công tác chủ nhiệm lớp
1.2.1. Giáo viên tiểu học – những nhà giáo dục đặc biệt
Bậc tiểu học là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục, bậc học xây dựng những nền
móng tri thức ban đầu và là cơ sở bền vững cho trẻ tiếp tục học lên những cấp học cao
hơn, đồng thời nó góp phần khai sinh ra những đường nét cơ bản trong nhân cách của
mỗi đứa trẻ. Bậc tiểu học là một trong những cấp học quan trọng nhất trong cả tiến
trình xã hội hóa con người của quá trình giáo dục. Ở nước ngoài, bậc tiểu học được
đánh giá cao và giáo viên phần đa được tuyển chọn là những thạc sĩ Giáo dục học tiểu
học. Do vậy giáo dục ở bậc tiểu học có tính chất đặc thù, có bản sắc riêng với tính sư
phạm đặc trưng. Người giáo viên tiểu học trước hết phải là nhà giáo dục, có tác động
tích cực đến học sinh thông qua bản thân nhân cách của mình. Bản thân nhân cách của
người giáo viên có vai trò như một năng lực tổng hợp. Bên cạnh đó người giáo viên
cần có những năng lực nghề nghiệp mới kết hợp với những năng lực truyền thống. Có
thể liệt kê ra đây một vài năng lực cần được hình thành ở người giáo viên tiểu học như:
Một là, năng lực chẩn đoán. Tức là năng lực phát hiện và nhận biết đầy đủ, chính
xác và kịp thời sự phát triển của học sinh, những nhu cầu được giáo dục của từng học
sinh. Đối với giáo viên tiểu học đây là năng lực đặc biệt quan trọng vì sự phát triển về
các mặt của học sinh ở lứa tuổi tiểu học diễn ra rất nhanh, nhưng lại không đồng đều.
Hai là, năng lực đáp ứng. Đó là năng lực đưa ra được những nội dung và biện pháp
giáo dục đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nhu cầu của người học và yêu cầu của mục
tiêu giáo dục.
Ba là, năng lực đánh giá. Đó là năng lực nhìn nhận sự thay đổi trong nhận thức, kỹ
năng thái độ và tình cảm của học sinh. Năng lực đánh giá giúp giáo viên nhìn nhận
tính đúng đắn của chuẩn đoán và đáp ứng.
Bốn là, năng lực thiết lập mối quan hệ thuận lợi với người khác như quan hệ đồng

nghiệp, quan hệ với phụ huynh học sinh và nhất là quan hệ với học sinh.
Năm là, năng lực triển khai chương trình dạy học. Đó là năng lực tiến hành dạy học
và giáo dục, tuy cần phải căn cứ vào mục đích và nội dung giáo dục, dạy học đã được
quy định nhưng lại phải phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng.
Sáu là, năng lực đáp ứng với trách nhiệm xã hội. Đó là năng lực tạo nên những điều
kiện thuận lợi cho giáo dục trong nhà trường và từ cuộc sống bên ngoài nhà trường.
Tóm lại, giáo viên tiểu học không chỉ là giáo viên đứng lớp hằng ngày mà còn bao
gồm cả những người làm công tác quản lý như hiệu trưởng, phó hiệu trưởng. Giáo
viên tiểu học đều là những người được đào tạo vững vàng về chuyên môn, được trang
bị kỹ càng và đầy đủ năng lực, phẩm chất khi còn là những giáo sinh ở các trường đại
học và cao đẳng trước khi trở thành những nhà sư phạm đặc biệt. Có thể nói, giáo viên
5


tiểu học phải là những chuyên gia tâm lý đầy bản lĩnh về giai đoạn lứa tuổi tiểu học vì
việc dạy học ở cấp này là cả một nghệ thuật và gian truân.
1.2.2. Khái niệm “công tác quản lý”
Trong quá trình hình thành và phát triển, con người muốn tồn tại và trưởng thành
cần có sự phối hợp với nhau trong một nhóm, một tổ chức. Khi ấy, một nhu cầu tất yếu
nẩy nở trong quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động của tập thể là cần có sự nhất quán
và ổn định. Từ đó xuất hiện một loại hình lao động mới, hoạt động quản lý. Quản lý là
một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con
người. Quản lý bao trùm mọi mặt đời sống xã hội và là nhân tố không thể thiếu trong
sự phát triển của xã hội. Ngày nay, quản lý đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật,
một nghề phức tạp nhất trong xã hội hiện đại.
Khái niệm quản lý là khái niệm rất chung, rất tổng quát. Nó dùng cho cả quá trình
quản lý xã hội, quản lý vật chất, quản lý giới sinh vật… trong quản lý xã hội có nhiều
lĩnh vực quản lý như quản lý sản xuất, kinh tế, quản lý hành chính, quản lý giáo dục…
Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Khái niệm quản lý được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau trên cơ sở của những cách tiếp cận đa chiều. Theo Đại từ điển

tiếng Việt: “quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan”.
[3] Harold Koontz khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi
nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt
được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít
nhất” [4]. Hoặc tác giả Trần Kiểm cũng có định nghĩa: “Quản lý là tác động có mục
đích đến tập thể người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong suốt quá trình
lao động” [5]. Tác giả Bùi Minh Hiển, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo cho rằng: “quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu đề ra”. [6]
Qua các khái niệm quản lý trên đây, tuy có sự dị biệt ở một chừng mực nào đó
nhưng chúng ta vẫn có thể tìm ra một mẫu số chung bao gồm: một là, quản lý là hoạt
động để điều khiển lao động, điều phối hoạt động khác của nhóm hay tập thể. Hai là,
yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động bởi trong quản lý bao giờ cũng
có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, chúng quan hệ với nhau bằng những tác động.
Những tác động quản lý chính là những quyết định, những nội dung của chủ thể quản
lý yêu cầu đối với đối tượng được quản lý. Qua đó, cả chủ thể quản lý và đối tượng
được quản lý đều phát triển. Ba là, quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một
quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện tiên quyết làm cho xã hội loài
người tồn tại và phát triển. Bốn là, quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương
diện. Điều đó cũng xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một
môi trường xác định. Trong cấu trúc đó, ba thành tố: mục tiêu, chủ thể, khách thể quan
hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hoạt động của bộ máy. Trong nhà trường, quản lý là công
việc của ban giám hiệu như hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng…hay gần gũi hơn,
công tác chủ nhiệm lớp cũng được xem là một loại hình quản lý trong đó giáo viên là
chủ thể tổ chức, điều khiển và tập thể học sinh là khách thể được quản lý.
6


1.2.3. Công tác chủ nhiệm lớp ở bậc tiểu học – một loại hình quản lý

Công tác chủ nhiệm lớp là một hoạt động quản lý của giáo viên đối với tập thể học
sinh. Trong trường học, lớp học là đơn vị cơ bản được thành lập để tổ chức giảng dạy
và giáo dục học sinh. Để quản lý, giáo dục học sinh trong lớp, nhà trường phân công
một trong những giáo viên đang giảng dạy có năng lực chuyên môn tốt, có kinh
nghiệm làm công tác quản lý, giáo dục học sinh, có tinh thần trách nhiệm cao và lòng
nhiệt tình trong công tác, có uy tín với học sinh và đồng nghiệp làm chủ nhiệm lớp.
Công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học có sự khác biệt tương đối so với trường trung
học cơ sở và trung học phổ thông. Ở cấp hai ba, người giáo viên chủ nhiệm sẽ là một
trong những giáo viên trực tiếp giảng dạy một môn học nào đó như Toán học, Vật lý,
Hóa học, Ngữ Văn...và họ sẽ được phân bổ dạy theo tiết tương ứng với mỗi lớp học
khác nhau. Do vậy, thời gian được gặp mặt và tiếp xúc giữa giáo viên chủ nhiệm và
học sinh trong lớp thật sự chưa nhiều, chủ yếu thông qua các tiết sinh hoạt chủ nhiệm
vào cuối thứ bảy hàng tuần và tiết chào cờ đầu thứ hai. Hoạt động theo dõi tình hình
học tập và rèn luyện của tập thể học sinh được giáo viên chủ nhiệm thực hiện và nắm
bắt thông qua sổ đầu bài, hay trao đổi với các giáo viên có tiết dạy ở lớp đó hoặc thông
qua ban cán sự lớp…Sự hạn chế về cơ hội được tiếp xúc giữa người quản lý lớp và
người được quản lý làm cho sức ảnh hưởng và chi phối của giáo viên chủ nhiệm cấp
trung học cơ sở và trung học phổ thông sẽ tạo nên kẽ hở về tình cảm và kém phần tác
động hơn so với giáo viên cấp tiểu học - là những người trực tiếp đứng lớp chủ nhiệm
hằng ngày để có thể nắm chắt mọi diễn biến về tình hình học tập của lớp mình và đề ra
biện pháp tương xứng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Ở đầu mỗi năm học, giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học cần phải có những hồ sơ để
thực hiện công tác chủ nhiệm như là những kế hoạch dự tính trước và dùng để theo
dõi, ghi chép tình hình học tập của lớp, bao gồm: sổ chủ nhiệm lớp; kế hoạch công tác
chủ nhiệm hàng tháng; sổ ghi các nội dung thu chi quỹ lớp và các khoản thu khác; sổ
liên lạc với gia đình học sinh; nội quy của học sinh; sổ thi đua của lớp; các văn bản
liên quan đến công tác chủ nhiệm; sổ theo dõi kết quả học tập của học sinh để phối
hợp với giáo viên dạy lớp lên kế hoạch nâng học sinh kém hoặc bồi dưỡng học sinh
giỏi, sổ điểm; giáo án lên lớp tiết chủ nhiệm và sinh hoạt dưới cờ; các bài kiểm tra
chuyên môn; các bài báo cáo, bài tập về nhà để kiểm tra; sổ họp phụ huynh học sinh,

biên bản các cuộc họp phụ huynh học sinh; sổ theo dõi các hoạt động ngoài giờ lên
lớp, chương trình phụ đạo và bồi dưỡng học sinh giỏi… tất cả được thể hiện đầy đủ và
được tổng hợp để báo cáo với tổ trưởng, hiệu trưởng của trường.
2. Bối cảnh xã hội hiện nay – những thuận lợi và khó khăn đối với công tác chủ
nhiệm ở tiểu học
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
chăm lo đến việc “trồng người” vì lợi ích của đất nước. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
XI đã xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
cho phát triển”. Mục tiêu của giáo dục nước nhà càng cao cũng là bài toán khó đặt ra
7


đối với mỗi nhà trường tiểu học và tác động trực tiếp đến hoạt động chủ nhiệm của
giáo viên. Gia đình, nhà trường và xã hội là cái kiềng ba chân trong hoạt động giáo
dục học sinh. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh những thuận lợi của thời đại mới, thời đại
công nghệ 4.0, góp phần tích cực vào việc cải thiện và phát triển nền giáo dục thì xã
hội vẫn còn tồn đọng những vấn đề bất cập, ảnh hưởng xấu đến giáo dục và trực tiếp
gây khó khăn cho công tác chủ nhiệm học sinh của giáo viên, vì tác động xấu sẽ gây
hiệu ứng ngược so với mục tiêu giáo dục ban đầu mà mỗi người giáo viên chủ nhiệm
đã đặt ra.
2.1. Thuận lợi
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên
các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ nano…với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Cuộc cách mạng công
nghệ hiện đại này đã hình thành nên khái niệm thế giới phẳng, nơi mà thông tin kiến
thức về mọi lĩnh vực dễ dàng được cập nhật và lan truyền rộng rãi, nhanh chóng.
Chính những bước tiến vượt bậc về công nghệ và khoa học đã tạo nên những điều kiện

thuận lợi giúp các em học sinh học tập tốt hơn. Cơ sở vật chất trường học tiện nghi,
hiện đại, quy mô; phương tiện di chuyển nhanh chóng, tiện lợi; internet và các thiết bị
công nghệ thông minh như smartphone, máy tính được phổ biến khắp cả nước từ thành
thị đến nông thôn, học sinh ngoài hình thức được học trên lớp thì có thể thông qua các
trang mạng để được học tập trực tuyến hoặc tham gia thi các cuộc thi học thuật như thi
học sinh giỏi, Olympic tiếng Anh, giải Toán trên máy tính…So với ngày trước, học
sinh ngày nay khá giỏi về những kiến thức xã hội và học tập nhờ vào các thiết bị công
nghệ hiện đại có thể cập nhật nhanh chóng và mang đến tri thức một cách tiện lợi đến
cho các em. Đặc biệt, giáo dục ngày nay đã nhận được sự quan tâm và ủng hộ của Nhà
nước và toàn thể xã hội, trẻ em được tự do đến trường và nạn mù chữ không còn phổ
biến như trước đây. Chính những thuận lợi ấy cũng ủng hộ và tác động tích cực đến
các hoạt động giáo dục trong đó có công tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm có thể
trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của học sinh qua sổ liên lạc trực tuyến
hoặc đưa ra các thông báo của nhà trường đến phụ huynh và học sinh một cách nhanh
chóng. Mặc khác, giáo viên chủ nhiệm còn có thể ứng dụng các phần mền máy tính hỗ
trợ cho việc quản lý hồ sơ học sinh hoặc soạn giáo án, các tài liệu học tập…
2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi của xã hội thì khó khăn là những mặt trái không thể tránh
khỏi. Mặt trái của thời đại công nghệ mới bắt nguồn từ chính những tiện nghi về sinh
hoạt, học tập và vui chơi. Vật chất càng tiện nghi thì học sinh càng dễ bị cuốn hút bởi
những thứ không thật sự cần thiết và sao nhãng, đánh rơi những giá trị tốt đẹp. Phần
lớn trẻ có dấu hiệu lãng phí thời gian vào các trò chơi vô bổ trên điện thoại thay vì
dành thì giờ để học tập hay tham gia các hoạt động sinh hoạt bổ ích, điều đó dẫn tới trẻ
dễ thiếu vắng sự quan tâm, cảm thông và chia sẻ với những người xung quanh mà gần
gũi nhất là cha mẹ và thầy cô. Một khi trẻ ít nói, trầm cảm thì việc quản lý và giáo dục
của giáo viên chủ nhiệm cũng gặp rất nhiều khó khăn. Mặc khác, trẻ con ngày nay có
dấu hiệu phát triển sớm về phương diện sinh lý (dậy thì sớm) hay còn được gọi là hiện
tượng tăng tốc. Các đặc điểm về tâm sinh lý của trẻ có sự phát triển tương đối nhanh
8



chóng so với lứa tuổi, điều đó làm cho học sinh dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng, sản
sinh hiện tượng bốc đồng, dễ xô xát, gây gỗ đánh nhau giữa bạn bè trong lớp và trong
trường, và phần lớn là các em học sinh cuối cấp tiểu học. Nguyên nhân chính có thể
đến từ những hệ quả tiêu cực của xã hội trong mọi lĩnh vực đời sống hoặc ngay trong
chính những người thân xung quanh của các em; tệ nạn được du nhập theo đường
phim ảnh, nhạc hay trào lưu của văn hóa ngoại lai; các thông tin sai lệch, thiếu chuẩn
mực được lan truyền rộng rãi trên các trang mạng xã hội; các chất kích thích, độc hại
trong thực phẩm, các sóng âm của những thiết bị công nghệ hoặc sự dư thừa về chất
dinh dưỡng có trong thức ăn hằng ngày…Những mặt trái ấy đã ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển nhân cách của học sinh và càng ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý, giáo
dục của Nhà trường và nhất là giáo viên chủ nhiệm.
3. Những biểu hiện về vị trí, vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở bậc tiểu học trong
thời đại mới
3.1. Giáo viên chủ nhiệm trước hết là người đại diện cho hiệu trưởng quản lí toàn
bộ học sinh một lớp học
Trên thực tế, hiệu trưởng của một trường chỉ quản lý các khâu quan trọng, vĩ mô
làm nên cấu trúc của cả hệ thống nhà trường, do đó hiệu trưởng không thể quản lí và
tác động chi li, cặn kẽ đến từng học sinh ở mỗi lớp học, không thể nắm vững từng đặc
điểm của học sinh (trừ một số trường hợp đặc biệt). Thay vào đó họ sẽ giao trọng trách
này cho giáo viên chủ nhiệm – những người được xem là cánh tay nối dài của hiệu
trưởng, là người đại diện cho hiệu trưởng.
Vai trò quản lý đó được thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục; tổ chức các
hoạt động giáo dục; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong lớp. Giáo
viên chủ nhiệm chịu trách nhiệm về kết quả học tập và rèn luyện của học sinh trong
lớp trước hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh. Quản lí toàn diện một
lớp học không chỉ là quản lí các vấn đề về nhân sự như số lượng, tuổi tác, giới tính,
hoàn cảnh gia đình, trình độ năng lực và đạo đức... mà điều quan trọng là phải đưa ra
dự báo, vạch được một kế hoạch giáo dục phù hợp với thực trạng để dắt dẫn học sinh
thực hiện kế hoạch đó, khai thác hết những điều kiện khách quan, chủ quan trong và

ngoài nhà trường đạt tới mục tiêu giáo dục.
Để thực hiện chức năng quản lí toàn diện giáo dục, giáo viên chủ nhiệm cần phải
nắm chắc mục tiêu lớp học, cấp học, có những kiến thức cơ bản về Tâm lí học, Giáo
dục học, có hiểu biết về văn hoá, pháp luật, chính trị... đặc biệt họ cần phải có hàng
loạt kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử với các đối
tượng trong và ngoài nhà trường, kĩ năng “chẩn đoán” đặc điểm học sinh, kĩ năng lập
kế hoạch, kĩ năng tác động nhằm cá thể hoá quá trình giáo dục học sinh (bồi dưỡng
học sinh giỏi, học sinh có năng khiếu; giáo dục học có hoàn cảnh khó khăn...). Giáo
viên chủ nhiệm phải tự xác định bản thân như “bà đỡ” tinh thần, tâm lí cho học sinh.
Đôi khi mỗi một lời khen, một cử chỉ giáo dục đúng lúc, kịp thời có thể giúp học sinh
từ yếu, kém thành khá, giỏi, ngăn ngừa được những ảnh hưởng tiêu cực.

9


3.2. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng
của tập thể học sinh, là “cầu nối” giữa lớp với hiệu trưởng và các thầy cô giáo
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng học sinh
trong lớp phản ánh với hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các giáo
viên bộ môn. Giáo viên chủ nhiệm với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách nhiệm
bảo vệ, bênh vực quyền lợi mọi mặt của học sinh.
Ngoài ra, đối với tập thể học sinh của một lớp học, không có một giáo viên nào (kể
cả hiệu trưởng) lại có cơ hội, có điều kiện thiết lập quan hệ thân thiện, tự nhiên như
giáo viên chủ nhiệm lớp. Với ưu thế của giáo viên chủ nhiệm, nhiều người đã xây
dựng được mối quan hệ vừa là thầy trò, vừa là anh em, là những người thân thiết trong
gia đình... là chỗ dựa tinh thần luôn được học sinh tin yêu, chia sẻ những băn khoăn
thắc mắc, bộc lộ những nguyện vọng, khát khao... Vì thế, giáo viên chủ nhiệm lớp cần
tận dụng những điều kiện đó để thu thập tất cả những thông tin của học sinh để xử lí
theo hai phương án:
Một là, với những ý kiến không hợp lí của học sinh thì giáo viên chủ nhiệm giải

thích, thuyết phục bằng tình cảm, bằng sự đồng cảm của một nhà sư phạm có kinh
nghiệm. Như thế các em sẽ dễ dàng được giải toả.
Hai là, nếu những phản ánh, nguyện vọng thấy cần phải đáp ứng thì giáo viên chủ
nhiệm bàn với các thầy cô khác, báo cáo hiệu trưởng tìm biện pháp giải quyết cho có
tình có lí, tạo cơ hội cho học sinh, tập thể lớp có cơ hội phát triển.
Có thể khẳng định rằng giáo viên chủ nhiệm là một nhà sư phạm vừa là người đại
diện của hiệu trưởng nhưng cũng vừa là đại diện của tập thể học sinh. Tính giao thoa
về trọng trách từ hai phía của người giáo viên chủ nhiệm đã làm cho các thầy cô trở
thành những chiếc cầu nối thân thiện gắn kết giữa hiệu trưởng và tập thể học sinh, góp
phần tạo nên cơ hội, điều kiện giải quyết kịp thời, có hiệu quả cao trong tổ chức tác
động giáo dục, tránh được những mâu thuẫn, những hiểu lầm của những quan hệ trong
và ngoài nhà trường, trong và ngoài tập thể mà thầy cô chủ nhiệm. Ngày nay, vai trò
cầu nối của giáo viên chủ nhiệm càng khẳng định tính chất quan trọng bởi trong bối
cảnh hội nhập, học sinh luôn bị tác động bởi các yếu tố tích cực và tiêu cực từ xã hội,
các em có thể có nhiều suy nghĩ nhạy cảm, năng động quấy rối, muốn tự khẳng định
(nhất là học sinh lớp 4, lớp 5) nhưng lại thiếu kinh nghiệm, hiểu biết còn có hạn...dẫn
tới những hệ lụy sai trái.
3.3. Giáo viên chủ nhiệm lớp còn là cầu nối giữa nhà trường với gia đình và các tổ
chức xã hội, là người tổ chức phối hợp, liên kết các lực lượng trong quá trình
thực hiện mục tiêu giáo dục
Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, giáo viên
chủ nhiệm là nhân vật trung tâm để hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Ngoài
ra, họ còn là chiếc cầu nối, là mắc xích giữa nhà trường với các lực lượng khác trong
xã hội, đặc biệt là giữa nhà trường với gia đình là những nhân tố có tác động lớn nhất
đối với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm vừa đưa ra những định hướng mục tiêu phát
triển giáo dục học sinh, vừa phải tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên
quan nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm, giáo dục học sinh hiệu quả.
10



Giáo viên chủ nhiêm là chiếc cầu nối giữa nhà trường và gia đình. Có thể thấy lớp
học là đơn vị tổ chức giáo dục cơ bản của trường học. Mỗi lớp học có giáo viên chủ
nhiệm lớp và hầu hết các bậc phụ huynh học sinh đều thống nhất rằng “người có tác
động tốt nhất đối với con em mình chính là giáo viên chủ nhiệm”. Nhà trường, giáo
viên, gia đình và các đoàn thể... là các lực lượng giáo dục thông qua đầu mối liên kết
là giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm trở thành người trung gian trao đổi thông
tin giữa nhà trường và gia đình, thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội và truyền đạt những chủ
trương của nhà trường đến với gia đình đồng thời thu nhận ý kiến, nguyện vọng của
gia đình để báo cáo lại lãnh đạo nhà trường. Qua đó gắn kết được trách nhiệm giữa nhà
trường và gia đình trong việc giáo dục học sinh. Mời phụ huynh học sinh tham gia Hội
phụ huynh học sinh nhà trường nhằm phát huy tính tích cực của các bậc phụ huynh
trong việc tham gia cùng nhà trường để giáo dục con em mình. Tổ chức họp phụ
huynh học sinh định kỳ theo qui định của nhà trường, trong những trường hợp đặc biệt
chủ động xin ý kiến Ban giám hiệu nhà trường để tổ chức họp đột xuất hoặc gặp riêng
và trao đổi với từng phụ huynh học sinh để bàn bạc, trao đổi thông tin, nhằm đề ra
những biện pháp khắc phục, uốn nắn kịp thời. Qua đó đã thể hiện sự quan tâm sâu sát
của Nhà trường, đồng thời tạo được sự tin tưởng của phụ huynh học sinh đối với nhà
trường khi con em mình được học tập ở tại trường.
3.4. Giáo viên chủ nhiệm là người cố vấn cho công tác Đội tiểu học ở lớp chủ
nhiệm.
Công tác Đội ở trường tiểu học là một chủ đề quan trọng. Thông qua các hoạt động
công tác đội và sao nhi đồng, học sinh sẽ được hình thành những kỹ năng hoạt động
tập thể, kỹ năng giao tiếp ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, bao gồm các kỹ năng hợp
tác, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, kỹ năng đặt mục
tiêu, kỹ năng ứng phó với căng thẳng; công tác đội giúp các em biết vận dụng, thực
hành những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống như biết tự trọng, tự tin, có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và tập thể; có hứng thú, tích cực, chủ động, linh hoạt,
sáng tạo trong các hoạt động tập thể của lớp, trường. Giáo viên chủ nhiệm bên cạnh
công tác giảng dạy thì họ còn phải là những nhà cố vấn, là người có am tường hoặc
kiến thức nhất định về các hoạt động công tác Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh

tổ chức và điều khiển các hoạt động rèn luyện cho lớp theo phong trào mà trường để
ra. Các công tác Đội thường gặp ở trường tiểu học như phong trào “Thiếu nhi Việt
Nam thi đua làm theo 5 điều Bác Hồ dạy”, chương trình “Rèn luyện đội viên”, công
trình “Vì đàn em thân yêu”, phong trào “Em yêu khoa học”, “giờ ra chơi trải nghiệm,
sáng tạo” cho thiếu nhi, các câu lạc bộ tuyên truyền về phòng, chống đuối nước và tai
nạn, thương tích trẻ em, ủng hộ người nghèo, giúp đỡ người khuyết tật...
III. Kết luận
Vị trí, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm ở bậc tiểu học trong bối cảnh xã hội
ngày nay là cực kỳ quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm là những người có tác động trực
tiếp và sâu sắc nhất đối với học sinh cấp một bởi vì phần lớn thời gian của trẻ là được
sinh hoạt, học tập với thầy cô, bạn bè trên trường, ngược lại các em chỉ tiếp xúc với
cha mẹ chỉ vỏn vẹn vài tiếng trong một ngày. Điều đó phổ biến hơn trong xã hội ngày
nay, khi mà phụ huynh phần lớn có khuynh hướng xem nhà trường vừa là nơi dạy chữ,
11


vừa là nhà giữ trẻ và họ dành phần lớn thời gian của mình để đầu tư vào công việc mà
lãng quên mất trọng trách giáo dục và chăm sóc con cái, họ phó thác trách nhiệm cho
thầy cô giáo chủ nhiệm. Vì thế gánh nặng càng chồng chất lên vai của những người
giáo viên mà đặc biệt là giáo viên mần non và giáo viên tiểu học. Khi đánh giá được
tầm quan trọng của giáo viên chủ nhiệm tiểu học như trên, các thầy cô cần phải nổ lực
hơn nữa để tu dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện các phẩm chất cần có của một
người giáo viên gương mẫu và bồi đắp tình yêu trẻ nồng nàn và lòng yêu nghề càng
thêm sâu lắng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Thư viện dạy và học (2012), Jan.Amos. Comenxki (1592 – 1670),
/>[2]. Tratu (2011), vị trí, vai trò , />[3]. Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb ĐHQG Tp. HCM.
[4]. Harold Koonzt Cyrill O’donnell Heinz Weihrich (2000), Những vấn đề cốt yếu
của quản lí, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

[5]. Trần Kiểm (1997), Quản lý giáo dục và trường học, Viện khoa học giáo dục, Hà
Nội.
[6]. Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006), Quản lí giáo dục, Nxb
ĐHSP.

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×