MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, GD&ĐT tạo
đóng vai trò hết sức quan trọng. Nâng cao CLGD đã và đang là yêu cầu cấp
thiết, đòi hỏi sự tập trung cao độ trí tuệ, công sức các nhà khoa học và toàn thể
các lực lượng trực tiếp, gián tiếp phục vụ trong ngành giáo dục, người sử dụng
lao động và của toàn xã hội. Một trong những nội dung quan trọng để đổi mới
và nâng cao chất lượng GD&ĐT là vấn đề quản lý CTĐT ở các nhà trường.
CTĐT là một trong những nhân tố của quá trình đào tạo, nó chi phối đến quy
trình và tổ chức đào tạo, chi phối trực tiếp đến hoạt động dạy, hoạt động học và
các hoạt động khác của nhà trường. CTĐT có ý nghĩa rất quan trọng vì nó là
căn cứ để nhà nước mà trực tiếp là cơ quan quản lý giáo dục các cấp chỉ đạo,
giám sát chất lượng, hiệu quả các hoạt động GD&ĐT ở các trường, đảm bảo
được sự thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương pháp GD&ĐT cho các bậc
học, trình độ đào tạo, ngành đào tạo trong phạm vi cả nước. CTĐT còn là căn
cứ để nhà trường quản lý, kiểm tra hoạt động giảng dạy của đội ngũ giáo viên,
là cơ sở để các giáo viên tự kiểm tra hoạt động giảng dạy của mình và người
học chủ động tiến hành hoạt động học tập và tự kiểm tra đánh giá kết quả học
tập. Do đó, quản lý CTĐT là vấn đề cấp thiết đang đặt ra trong bối cảnh đổi
mới giáo dục hiện nay.
Nghị quyết 29 - NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nêu rõ: “Đổi mới chương trình nhằm phát
triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy
chữ và dạy nghề… Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của
các bậc học” [9, tr.10]. Xuất phát từ quan điểm đó, BCA đã ra Nghị quyết số
17/NQ - ĐU của Đảng ủy CATW, Chỉ thị số 13/CT - BCA ngày 28/10/2014
của Bộ trưởng BCA về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo trong lực
lượng CAND, tập trung đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo
trong các trường CAND hiện nay trong đó có nội dung, CTĐT của Trường
Trung cấp CSND VI.
Thực tiễn, CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI thời gian vừa qua đã
được đổi mới và đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường.
CTĐT được xây dựng trên cơ sở chương trình khung của Bộ GD&ĐT, BCA
và có sự điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên CTĐT ở Trường
Trung cấp CAND VI cũng vẫn còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với yêu cầu
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đang đặt ra hiện nay. Biểu hiện ở nhận
thức một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên và học viên về CTĐT còn hạn chế,
trình độ hiểu biết về chuyên môn, nắm vững nội dung, CTĐT của các chuyên
ngành đào tạo, để quản lý chưa đạt hiệu quả cao. Vấn đề quản lý xây dựng mục
tiêu CTĐT của các ngành, chuyên ngành chưa thật rõ ràng, chưa lượng hóa
được, thiếu tính linh hoạt và mềm dẻo; sự phù hợp giữa mục tiêu đào tạo với
mục tiêu sử dụng đáp ứng nhu cầu của ngành và xã hội còn bất cập. Quản lý
chỉ đạo đổi mới nội dung CTĐT chưa hiệu quả, còn cồng kềnh, nặng nề dàn
trải, thừa kiến thức cơ bản, thiếu kiến thức chuyên ngành, thiên về trang bị kiến
thức lý luận, nhẹ thực hành, thực tập theo cương vị chức trách. Cấu trúc của
CTĐT cứng nhắc, chưa phù hợp thiếu sự liên thông giữa các trình độ đào chưa
tiếp cận được các chương trình tiên tiến của nước ngoài,...
Thực trạng quản lý CTĐT nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
đội ngũ cán bộ CAND sau khi tốt nghiệp ở Trường trung cấp CSND VI. Nhận
thức rõ vấn đề này, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Trung cấp CSND VI đã tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng trong nhà trường phải tập trung quản lý, phát
triển, đổi mới CTĐT của nhà trường theo hướng từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển năng lực toàn diện của người học, CTĐT cần được xây dựng theo
tiếp cận chuẩn đầu ra các chuyên ngành đào tạo của nhà trường. Do đó, đặt ra vấn
2
đề cần có những nghiên cứu hệ thống, cơ bản nhằm đề xuất biện pháp để quản lý
CTĐT đạt hiệu quả cao, đáp ứng thực tiễn mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Ở góc độ lý luận, vấn đề quản lý CTĐT trong các nhà trường đã có những
công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài ngành nghiên cứu ở các mức
độ khác nhau, nhưng quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận
đảm bảo chất lượng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Quản lý chương trình
đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận đảm bảo chất lượng” làm đề
tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quản lý phát triển CTĐT luôn được các trường quan tâm nghiên cứu và
xác định trong chủ trương đổi mới, nâng cao CLGD đào tạo của nhà trường.
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đổi mới, hoàn thiện CTĐT.
* Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Các tác giả Allan C. Ornstein và Francis P. Hunkins (1998) với công trình
nghiên cứu “Chương trình: Những cơ sở, nguyên tắc và chính sách xây dựng”,
nhóm tác giả đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chương
trình giáo dục, phát triển chương trình giáo dục để từ đó xác định xu hướng phát
triển chương trình giáo dục.
Tác giả Peter F. Oliva khi nghiên cứu về: “Xây dựng chương trình học”
(Developing the Curriculum), đã tập trung làm rõ một số nội dung như đã chỉ
ra về mục tiêu giáo dục, thiết kế và xây dựng chương trình môn học đồng thời
chỉ ra các mô hình thiết kế mô hình chương trình và nhấn mạnh mối quan hệ
với việc giảng dạy chương trình môn học.
Nhóm tác giả Saylor và Alexander (1974), đã tập trung nghiên cứu về
phát triển CTĐT qua đó xác định được các giai đoạn cơ bản từ thiết kế mục
tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình, quá trình thực hiện và đánh giá CTĐT.
Các tác giả đã nhấn mạnh “CTĐT là một kế hoạch cung cấp các cơ hội học tập
để đạt được mục tiêu giáo dục tổng quát và mục tiêu giáo dục cụ thể cho một
số sinh viên của một trường”.
3
Bên cạnh đó, chúng tôi còn nhận thấy có nhiều công trình nghiên cứu ở
các góc độ khác về CTĐT của một số tác giả như Hilda Taba (1962) với công
trình “Xây dựng chương trình: Lý luận và thực tiễn”. Tác giả A.V. Kelly
(1977) có nghiên cứu công trình “Chương trình những vấn đề lý luận và thực
tiễn”. Nhóm tác giả Tanner và Daniel and Laurel (1995) với công trình “Xây
dựng chương trình - từ lý luận đến thực tiễn”.
* Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Cũng đã có một số tác giả nghiên cứu về CTĐT, trong đó đã tập trung
nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản từ kỹ thuật xây dựng, thiết kế một
CTĐT đến vấn đề bổ sung phát triển nội dung, CTĐT.
Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Trần Khánh Đức đã xây
dựng khái niệm CTĐT, chỉ ra các cách tiếp cận, phát triển CTĐT, đặc biệt đã
đề cập đến vấn đề phát triển CTĐT theo tiếp cận năng lực và nhấn mạnh việc
phải thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ trong CTĐT.
Công trình “Phát triển chương trình giáo dục” của tác giả Nguyễn Văn
Khôi (2011), đã luận bàn lý thuyết về phát triển chương trình giáo dục, một số
cách tiếp cận và mô hình phát triển chương trình giáo dục, vấn đề đánh giá
chương trình giáo dục.
Các tác giả: Phùng Ngọc Nhạ, Vũ Anh Dũng vơi công trình “Xây dựng
và tổ chức chương trình đào tạo đại học và sau đại học theo cách tiếp cận
CDIO” đã là rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các cách tiếp cận CDIO trong
xây dựng và tổ chức chương trình đào tạo đại học và sau đại học; áp dụng
cách tiếp cận CDIO cải tiến chương trình đào tạo ngành kinh tế đối ngoại tại
Trường Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội.
Trong công trình nghiên cứu cho chương trình tập huấn về phương thức
đào tạo theo tín chỉ tại Đại học Quốc gia Hà Nội “Cấu trúc lại chương trình
đào tạo để chuyển từ đào tạo theo niên chế sang chương trình đào tạo theo
tín chỉ ở các trường đại học hiện nay”, tác giả Ngô Doãn Đãi đã phân tích đặc
điểm của học chế tín chỉ, yêu cầu của học chế tín chỉ đối với việc cấu trúc nội
4
dung, phân bổ thời lượng chương trình đào tạo và nêu các yêu cầu để có được
chương trình đào tạo phù hợp với học chế tín chỉ.
Tác giả Lê Văn Hảo, trong công trình nghiên cứu “Xây dựng chương trình
đào tạo hướng đến rèn luyện kỹ năng” đã đề cập đến thực trạng về xây dựng
CTĐT bậc đại học ở Việt Nam và đề xuất về xây dựng CTĐT hướng đến tích
hợp rèn luyện các kỹ năng cần thiết đối với người tốt nghiệp đại học, đây cũng
là ý tưởng mới trong xây dựng chương trình đào tạo ở thời điểm đó.
Tác giả Nguyễn Đức Chính trong công trình nghiên cứu “Chương trình đào
tạo và phát triển chương trình đào tạo” (2007) đã phân tích các giai đoạn phát triển
CTĐT, đề xuất các tiêu chí đánh giá CTĐT về: tính trình tự; tính gắn kết; tính thích
hợp; tính cân đối; tính cập nhật và tính hiệu quả.
Tác giả Phùng Rân với công trình nghiên cứu “Một số vấn đề cần quan
tâm khi xây dựng chương trình đào tạo đại học”, đã tập trung làm rõ các vấn đề
có tính nguyên tắc trong xây dựng CTĐT từ việc phân cấp, phân luồng đến đào
tạo phù hợp với nhu cầu xã hội, tạo tính liên thông trong CTĐT để người học có
nhiều thuận lợi trong quá trình tham gia học tập.
Tác giả Phạm Văn Năm (2012) với khi nghiên cứu vấn đề: “ Phát
triển chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học Việt
Nam” đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về CTĐT từ đó tác giả đã
đề xuất một số biện pháp quản lý phát triển CTĐT cho phù hợp với tình
hình thực tiễn hiện nay.
Tác giả Mai Văn Hoá với công trình nghiên cứu “Cách tiếp cận mới trong
xây dựng chương trình đào tạo chính ủy, chính trị viên hiện nay”, đăng trong
Sách kỷ yếu hội thảo khoa học “Chính ủy, chính trị viên với sự nghiệp xây dựng
quân đội về chính trị”. Trong đó đã đề xuất một số vấn đề về xây dựng, triển
khai thực hiện CTĐT theo hướng phát triển năng lực của người học.
Tác giả Lê Đức Ngọc với công trình “Cơ sở khoa học của việc xây
dựng chương trình đào tạo đại học và sau đại học” (2003), trong đó đã tập
trung làm rõ các nguyên tắc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo nhấn
mạnh vị trí, vai trò của các lực lượng trong thực hiện CTĐT.
5
Tác giả Nguyễn Vũ Bích Hiền với công trình: “Các xu hướng phát
triển chương trình đào tạo theo quan điểm lấy người học làm trung tâm”, đã
đề xuất việc phát triển CTĐT theo quan điểm dạy học lấy người học làm
trung tâm. Tác giả đã đưa ra dự báo về xu hướng phát triển CTĐT theo quan
điểm mới để từ đó có những định hướng về xây dựng CTĐT của các nhà
trường đại học học Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu mang tính phổ quát thì những
năm gần đây đã có nhiều luận văn, luận án đề cập nghiên cứu về quản lý
chương trình đào tạo.
Ngoài ra còn có một số luận văn, luận án nghiên cứu về CTĐT như tác
giả Nguyễn Xuân Khánh (2014) nghiên cứu về “Quản lý chương trình đào
tạo chính ủy ở Học viên Chính trị”; tác giả Đàm Ngọc Thạch (2016) với công
trình nghiên cứu: “Quản lý chương trình đào tạo sĩ quan chỉ huy kỹ thuật phòng
không ở Học viện Phòng không - Không quân hiện nay” đã xác định được các
nội dung quản lý chương trình đào tạo như Thiết kế chương trình đào tạo sĩ
quan chỉ huy kỹ thuật phòng không ở Học viện Phòng không - Không quân;
đánh giá phát triển chương trình đào tạo sĩ quan ở Học viện và đề xuất các
biện pháp quản lý chương trình đào tạo sĩ quan chỉ huy kỹ thuật phòng không ở
Học viện Phòng không - Không quân hiện nay.
Tóm lại, các tác giả trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên
cứu, CTĐT và quản lý CTĐT là những vấn đề được nhiều học giả quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhiều công trình nghiên cứu phát
triển, hoàn thiện quy trình, kỹ thuật thiết kế, xây dựng, đánh giá, phát triển
CTĐT, thiết kế chương trình môn học. Kết quả nghiên cứu của các đề tài, công
trình đó đã phần nào đáp ứng thực tiễn quá trình đổi mới giáo dục hiện nay. Về
CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI Nhà trường đã bước đầu xây dựng được
bộ chuẩn đầu ra cho các chuyên ngành đào tạo. Thường xuyên bổ sung cập
nhật nội dung phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Như vậy, quản lý CTĐT đã có nhiều công trình nghiên cứu của các
tác giả nước ngoài và ở trong nước quan tâm. Tuy nhiên, quản lý CTĐT ở
6
Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận đảm bảo chất lượng chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể. Do vậy, đề tài: “Quản lý
chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp ĐBCL”
không trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã được công bố và là vấn đề có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý CTĐT ở Trường
Trung cấp CSND VI; đề xuất các biện pháp quản lý CTĐT ở Trường Trung
cấp CSND VI theo tiếp cận ĐBCL nhằm quản lý chặt chẽ CTĐT, góp phần
nâng cao chất lượng GD&ĐT của nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp
CSND VI theo tiếp cận ĐBCL.
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI.
Đề xuất biện pháp quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp
cận ĐBCL.
Khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi các biện pháp đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục và đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận ĐBCL.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp
CSND VI; đề xuất được một số biện pháp cơ bản quản lý CTĐT ở Trường Trung
cấp CSND VI theo tiếp cận ĐBCL.
Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý giáo dục thuộc Phòng Quản lý
đào tạo, Phòng khảo thí và đảm bảo chất lượng, Phòng quản lý học viên và
giáo viên các khoa, Bộ môn.
7
Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn từ năm 2013 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI đã đạt được những kết
quả quan trọng trong những năm học gần đây, tuy nhiên bên cạnh đó còn có
hạn chế, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện
chương trình, nội dung đào tạo của nhà trường hiện nay. Nếu các biện pháp
quản lý CTĐT dựa vào nhận thức đúng của các lực lượng cán bộ quản lý và
giáo viên về quản lý CTĐT theo tiếp cận ĐBCL trong bối cảnh phát triển
của nhà trường hiện nay và được đảm bảo bằng những tác động quản lý có
hệ thống từ phát triển CTĐT theo các chuẩn đầu ra, tổ chức thực hiện
CTĐT, quản lý theo quy trình khoa học và thường xuyên kiểm tra, đánh giá
thực hiện CTĐT theo tiếp cận ĐBCL thì sẽ đạt được hiệu lực quản lý và có
thể nâng cao được chất lượng giáo dục, đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI..
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Các nội dung của đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Quán triệt và cụ thể hoá quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, đào tạo. Ngoài ra trong quá trình
nghiên cứu, đề tài sử dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc; quan
điểm lôgíc - lịch sử và quan điểm thực tiễn để làm rõ các nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu khoa học, các văn kiện, nghị
quyết, văn bản pháp quy của Đảng, nhà nước, công an liên quan đến GD&ĐT nói
chung, xây dựng CTĐT nói riêng; các tạp chí, thông tin, sách báo, công trình khoa
học về xây dựng chương trình, mục tiêu, quy trình đào tạo. Từ đó xác định cơ sở lý
luận quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Trao đổi, toạ đàm với cán bộ quản lý giáo dục: Phòng Quản lý đào tạo, Phòng
Khảo thí và đảm bảo chất lượng, các khoa, Bộ môn.
8
Tiến hành điều tra bằng mẫu phiếu câu hỏi in sẵn với:
Giáo viên các khoa Bộ môn (điều tra với 30 giáo viên các khoa bộ môn).
Cán bộ QLGD các phòng (điều tra 20 cán bộ quản lý giáo dục).
Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quản lý chương trình thông qua thực
hiện Đề án đổi mới quy trình, CTĐT của Trường Trung cấp CSND VI.
Các phương pháp hỗ trợ
Xin ý kiến chuyên gia, các nhà khoa học, cán bộ QLGD về nội dung
nghiên cứu, sử dụng toán thống kê để tổng hợp, tính toán các số liệu điều tra.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn được nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực đối với vấn đề quản
lý CTĐT ở các trường CAND nói chung và Trường Trung cấp CSND VI nói
riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp cho các cơ quan chức năng xây
dựng, tổ chức chỉ đạo thực hiện quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI
theo tiếp cận ĐBCL.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy ở
các trường CAND.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, (8 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP CẢNH SÁT NHÂN DÂN VI
THEO TIẾP CẬN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Chương trình đào tạo
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về CTĐT cả trên thế giới và ở
Việt Nam. Thuật ngữ “ Chương trình” đang được sử dụng trong lĩnh vực giáo
dục - đào tạo có nhiều cách hiểu. Với các thuật ngữ được sử dụng phổ biến
như: Chương trình giáo dục; Chương trình môn học; Chương trình khung đào
tạo,...Tùy theo cách tiếp cận, người ta có những quan niệm khác nhau.
Thuật ngữ “chương trình giáo dục” xuất hiện từ những năm 1820, tuy
nhiên phải đến giữa thế kỷ 20, thuật ngữ này mới được sử dụng một cách
chuyên nghiệp ở Hoa Kỳ và một số nước có nền giáo dục phát triển. Chương
trình giáo dục (Curriculum) có gốc Latinh là Currere, có nghĩa là “to run”
(chạy, điều hành hoặc “to run a course” - điều hành một khóa học). Do vậy,
định nghĩa truyền thống của chương trình giáo dục là “một khóa học” (Course
of Study) [24, tr12].
Hầu hết các nhà giáo dục ở giai đoạn đầu xem chương trình giáo dục là
một khoá học, một giáo trình - cái hình thành nên một khoá học.
Chương trình học là một hệ thống các khóa học hay môn học cần phải
có để được tốt nghiệp hoặc được chứng nhận đã học xong một ngành học.
Định nghĩa chương trình học như là một sản phẩm đã hoàn thiện và đã không
làm thỏa mãn các nhà giáo dục tham gia phát triển chương trình học.
Năm 1935, Hollis và Doak Campbell cho rằng chương trình giáo dục
“bao gồm tất cả những hiểu biết và kinh nghiệm mà người học có được sự
hướng dẫn của nhà trường” [24, tr.13].
Ở Việt Nam, theo Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi 2009, chương trình
giáo dục được quy định trong Điều 6 Chương I: “Chương trình giáo dục thể
10
hiện mục tiêu giáo dục, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu
trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục,
cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học
hay trình độ đào tạo” [36, tr.55]. Theo đó chương trình giáo dục có các đặc
điểm: thể hiện được mục tiêu giáo dục, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm
vi và cấu trúc nội dung giáo dục. Đồng thời, chương trình giáo dục cần đảm bảo
tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính kế thừa giữa các cấp học, các
trình độ đào tạo, tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi trình độ
đào tạo; Yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình
phải được cụ thể hoá thành giáo khoa, giáo trình, tài liệu giảng dạy. Chương
trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo từng năm học.
Chương trình khung đào tạo, là văn bản nhà nước ban hành cho từng
ngành đào tạo cụ thể trong đó quy định cơ cấu nội dung môn học, thời gian
đào tạo, tỷ lệ phân bố thời gian đào tạo giữa các môn học cơ bản và chuyên
môn, giữa lý thuyết với thực hành, thực tập. Nó bao gồm khung chương trình
cùng với những nội dung cốt lõi, chuẩn mực tương đối ổn định theo thời gian
và bắt buộc phải có trong chương trình đào tạo của tất cả các trường. Căn cứ
vào chương trình khung các trường xác định chương trình đào tạo của nhà
trường mình. Khác với chương trình khung chương trình đào tạo có thể hàm
chứa kiến thức từ một ngành hoặc một số ngành [20], [21].
Tới những năm 90 và kéo dài đến những năm đầu của thế kỷ 21, những
quan niệm về chương trình giáo dục có những thay đổi to lớn và thuật ngữ
“Chương trình đào tạo” được sử dụng nhiều hơn và đã trở nên phổ biến, song
chưa có một định nghĩa thống nhất. Mặc dù định nghĩa về chương trình giáo
dục luôn có sự thay đổi do các tác động của xã hội với những bước tiến vĩ đại
về khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Theo tác giả Wentling: “CTĐT là bản thiết kế tổng thể cho một hoạt
động đào tạo (khóa đào tạo) cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ
những gì có thể trông đợi ở người học sau khóa đào tạo, phác thảo ra quy
11
trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, các phương pháp đào tạo và
cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp
xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ”.
Tác giả Tyler cho rằng: “CTĐT về cấu trúc phải có 4 phần cơ bản:
Mục tiêu đào tạo; nội dung đào tạo; phương pháp hay quy trình đào tạo; cách
đánh giá kết quả đào tạo”.
Theo Từ điển Giáo dục học, CTĐT được hiểu là: “Văn bản chính thức
quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc
tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỉ lệ
giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương
pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở
giáo dục và đào tạo” [41].
Từ những vấn đề trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về CTĐT như sau:
Chương trình đào tạo là bản thiết kế tổng thể, tập hợp các mục tiêu
GD&ĐT và giá trị có thể được hình thành ở người học thông qua các
hoạt động được kế hoạch hóa và tổ chức trong nhà trường, gắn liền với
đời sống xã hội.
Mục tiêu của CTĐT: là hệ thống những kiến thức, kỹ năng, thái độ và
các yêu cầu giáo dục toàn diện mà người học phải đạt được sau khi tốt nghiệp.
Mục tiêu là vấn đề then chốt, quyết định phương hướng, nội dung, biện pháp
đào tạo là cơ sở ĐBCL đào tạo. Mức độ đạt các mục tiêu GD&ĐT là thể hiện
tính hiệu quả của một CTĐT. Mục đích của việc thiết kế một CTĐT phụ
thuộc vào đối tượng người học của chương trình giáo dục đó.
Nội dung CTĐT: là thành tố quan trọng nhất của CTĐT, được xác định
trên cơ sở mục tiêu đào tạo, nó là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến CLĐT. Nội
dung CTĐT bao gồm toàn bộ khối lượng kiến thức được phân bổ theo các học
phần trong chương trình, nhằm trang bị cho người học những hiểu biết, kỹ
năng đáp ứng yêu cầu công tác thực tiễn đặt ra.
12
Hình thức tổ chức thực hiện CTĐT: là hình thức dạy học trên lớp (hay còn
giọi là hình thức lên lớp); hình thức dạy học thực tế (ngoài lớp); hình thức dạy học
toàn lớp, theo nhóm hoặc hướng dẫn cá nhân; hay căn cứ theo nội dung giảng dạy
có các hình thức tự học, thực hành thảo luận, thăm quan, ngoại khóa… tất cả các
hình thức tổ chức dạy học nêu trên điều có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ
lẫn nhau, mỗi hình thức tổ chức dạy học có chức năng vai trò nhất định trong nhà
trường, nó được tổ chức phù hợp với từng nội dung giảng dạy trong CTĐT.
Đánh giá kết quả thực hiện CTĐT: là nhằm xem xét mức độ đạt được mục
tiêu giáo dục và các yêu cầu về GD&ĐT, thực hiện sứ mạng và quyết tâm của nhà
trường. Đánh giá kết quả thực hiện CTĐT còn là căn cứ để chỉ đạo, quản lý và
đánh giá kết quả đào tạo, là cơ sở để xây dựng các yếu tố đảm bảo cho đào tạo
như: kế hoạch dạy học, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, giáo trình tài liệu,…
1.1.2. Chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân
VI theo tiếp cận đảm bảo chất lượng
* Chất lượng, luôn là vấn đề quan trọng nhất của tất cả các cơ sở đào
tạo, nỗ lực phấn đấu nâng cao CLĐT bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ
quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở giáo dục đào tạo nào. Vì vậy, cải tiến CLĐT
là nhiệm vụ quan trọng nhất mà Trường Trung cấp CSND VI đã, đang và sẽ
phải đương đầu. Tuy nhiên, để có thể cung cấp được một dịch vụ giáo dục và
đào tạo có chất lượng, thì cần phải xác định được chất lượng là gì.
Với nghĩa tuyệt đối, sản phẩm hay dịch vụ cần chứng tỏ chất lượng là
chuẩn cao nhất có thể có mà không thể vượt qua. Nó là lý tưởng, hoàn hảo,
vượt trội, xuất sắc mà ai cũng phải công nhận. Chúng đồng nghĩa với chất
lượng cao nhất hay chất lượng hàng đầu, mà phần lớn mọi người đều ngưỡng
mộ nó, nhiều người muốn nó, ít người có thể có chúng
Chất lượng theo nghĩa tương đối để xem xét chất lượng không như là
thuộc tính hay bản chất của sản phẩm hay dịch vụ, mà là cái mà con người
gán “nhãn” cho nó, như: chất lượng sẽ khác nhau nằm trong khoảng từ “kém
chất lượng”, “đạt chất lượng”, “chất lượng tốt” đến “chất lượng hoàn hảo hay
tuyệt vời”. Với cách hiểu này thì chất lượng không được coi là cái đích mà là
13
phương tiện, theo đó sản phẩm hay dịch vụ được đo, đánh giá và chất lượng
của nó vừa mang tính chủ quan của người đánh giá theo các chuẩn mực được
đặt ra từ trước, vừa thay đổi theo thời gian, không gian và điều kiện sử dụng
Thực tế, ai cũng hiểu Mặc dù, có tầm quan trọng như vậy nhưng chất
lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo lường do
cách hiểu của người này cũng khác với cách hiểu của người kia.
Còn theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “chất lượng được hiểu là cái làm nên
phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật” [73; tr.331].
Từ điển Oxford Pocket Dictonary, cho rằng chất lượng là “mức hoàn
thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ
kiện, các thông số cơ bản”.
Harvey và Green (1993) đã định nghĩa chất lượng như tập hợp các
thuộc tính khác nhau: chất lượng là sự xuất sắc (quality as excellence); chất
lượng là sự hoàn hảo (quality as perfection); chất lượng là sự phù hợp với
mục tiêu (quality as fitness for purpose); chất lượng là sự đánh giá với đồng
tiền bỏ ra (quality as value for money); chất lượng là sự chuyển đổi về chất
(quality as transformation).
Vận dụng trong bối cảnh giáo dục, theo Từ điển Giáo dục học, CLGD
là “tổng hòa những phẩm chất và năng lực được tạo nên trong quá trình giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng cho người học so với thang chuẩn giá trị của nhà
nước hoặc xã hội. CLGD có giá trị lịch sử cụ thể và luôn tùy thuộc vào các
điều kiện xã hội đương thời, trong đó các thiết chế, chính sách và lực lượng
tham gia giáo dục” [31; tr.44].
Từ những vấn đề trên chúng tôi cho rằng: CLGD, đào tạo là sự phù hợp
với mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục là những yêu cầu của các lĩnh vực
xã hội đối với con người mà các nhà trường cần phải đáp ứng. Do đó có thể
hiểu: CLĐT là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh qua các đặc trưng
về phẩm chất, nhân cách và năng lực hành nghề của người được đào tạo
14
tương ứng với mục tiêu, CTĐT theo các ngành nghề cụ thể, đồng thời đáp
ứng được những yêu cầu mà cơ sở sử dụng nhân lực và xã hội đòi hỏi.
* Đảm bảo chất lượng đào tạo, theo các chuyên gia khi nghiên cứu về
quản lý chất lượng thường chỉ ra có 3 cấp độ quản lý chất lượng đó là: kiểm
soát chất lượng; ĐBCL và quản lý chất lượng tổng thể. Nên ĐBCL là cấp độ
thứ hai trong quản lý chất lượng nói chung. Do đó, ĐBCL đòi hỏi phải thiết
kế được các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng ngay từ trước khi tiến hành quá
trình sản xuất sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ nào đó để thỏa mãn được
nhu cầu của khách hàng tại các thời điểm khác nhau.
Theo Freeman (1994) cho rằng, ĐBCL là một cách tiếp cận mà công
nghiệp sản xuất sử dụng nhằm đạt được chất lượng tốt nhất.
ISO (1995) định nghĩa, ĐBCL là tất cả các hoạt động có hoạch định
hay có hệ thống cần thiết nhằm cung cấp sự đủ tự tin rằng một sản phẩm hay
một dịch vụ là đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng.
Khi nghiên cứu về chất lượng giáo dục, đào đạo đại học, tác giả Phạm
Thành Nghị cho rằng: “ĐBCL xảy ra trước và trong quá trình sản xuất, đào tạo.
ĐBCL tập trung phòng ngừa sự xuất hiện những sản phẩm chất lượng thấp. Chất
lượng được thiết kế theo các chuẩn mực và đưa vào quá trình nhằm đảm bảo sản
phẩm đầu ra đạt được những thuộc tính đã định trước. ĐBCL là phương tiện tạo
ra sản phẩm không có sai sót kỹ thuật do lỗi trong quá trình sản xuất gây ra, vì
thế, trách nhiệm về chất lượng được giao cho mỗi người làm việc trong quá
trình sản xuất, đào tạo” [43; tr.112-113].
Như vậy, ĐBCL đào tạo là quá trình xảy ra trước và trong khi thực hiện
giáo dục, đào tạo. Chất lượng của sản phẩm giáo dục được thiết kế ngay trong
quá trình đào tạo ở các nhà trường, từ khâu đầu vào đến khâu đầu ra theo
những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, đảm bảo không có sai phạm trong bất kỳ khâu
nào. ĐBCL đào tạo còn là quá trình kiểm định các điều kiện cho quá trình
giáo dục, đào tạo. ĐBCL đào tạo nhằm đạt được mục tiêu ngăn chặn hoặc
phòng ngừa sai sót là chủ yếu và đồng thời khẳng định uy tín chất lượng đào
tạo, khẳng định thương hiệu của các nhà trường.
15
Trong nghiên cứu quản lý, phát triển CTĐT có rất nhiều hướng tiếp cận
như: tiếp cận theo mục tiêu chuẩn đầu ra; tiếp cận CDIO; tiếp cận hướng đến
hệ thống các năng lực người học sau khi ra trường. Mỗi cách tiếp cận có đặc
điểm riêng, có những ưu điểm hạn chế riêng. Nghiên cứu tiếp cận ĐBCL đào
tạo theo mục tiêu chuẩn đầu ra mỗi học viên ra trường phải đảm bảo theo các
chuẩn, tiêu chí xác định theo mục tiêu đào tạo.
Đảm bảo chất lượng đào tạo theo mục tiêu chuẩn đầu ra đó
chính là việc xác định tổng thể các chuẩn kiến thức, kỹ năng,
thái độ và các năng lực cần có ở người học như một căn cứ để
hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ GD&ĐT của các nhà trường trong thời kỳ mới.
Với cách tiếp cận theo hướng chuẩn đầu ra có thể chuẩn hoá quy trình đào
tạo theo một công nghệ nhất định. Giống như một quy trình công nghệ, các bước
đều được thiết kế chặt chẽ nhằm tạo ra sản phẩm với một chất lượng đồng đều.
Cách tiếp cận ĐBCL đào tạo theo hướng chuẩn đầu ra tạo thuận lợi cho việc
đánh giá hiệu quả và chất lượng CTĐT; người học và người dạy biết rõ cần phải dạy
và học như thế nào để đạt được các chuẩn đầu ra nhà trường quy định và cho phép
nhà trường xác định các hình thức đánh giá kết quả học tập của người học.
* Chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI
Chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI là vấn đề
then chốt để nhà trường đào tạo ra những cán bộ công an đáp ứng chuẩn
nghề nghiệp. CLĐT của nhà trường được kiểm soát bởi một hệ thống hệ thống ĐBCL theo các mục tiêu đã xác định và các chuẩn đầu ra. Hệ
thống này có chức năng chỉ ra một cách chính xác quá trình đào tạo trong
nhà trường sẽ phải tiến hành như thế nào, với những chuẩn mực, tiêu chí
ra sao. Như vậy, CTĐT của nhà trường thường xuyên được bổ sung, phát
triển theo hướng ĐBCL đào tạo là một hoạt động nhằm duy trì, cải tiến và
16
nâng cao CLĐT của trường; giúp cho nhà trường thực hiện được sứ mạng
của mình trong bối cảnh giáo dục phát triển đang có nhiều đổi mới, trước
hết là đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo theo Nghị quyết số 17/NQ
- ĐU của Đảng ủy CATW, Chỉ thị số 13/CT - BCA ngày 28/10/2014 của Bộ
trưởng BCA về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo trong lực lượng
CAND.
Từ những vấn đề trên, tác giả đưa ra khái niệm về CTĐT ở Trường
Trung cấp CSND VI như sau:
Chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI là bản thiết kế
tổng thể về quá trình đào tạo trong đó quy định mục tiêu, nội dung, phương
pháp đào tạo và cách thức đánh giá kết quả đào tạo theo các chuẩn kiến
thức, kỹ năng, thái độ và các năng lực cần có ở người học nhằm xây dựng lực
lượng CAND chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Mục tiêu CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI, nhằm đào tạo đội ngũ
cán bộ CAND có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng
Cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc và nhân dân, gắn bó với sự nghiệp xây dựng
CAND và bảo vệ Tổ quốc, có ý thức tổ chức kỷ luật, trách nhiệm cao trong
công tác, có tư duy sáng tạo, có trình độ kiến thức và có chuyên môn công tác
đáp ứng yêu cầu của chức trách nhiệm vụ được giao, có phong cách dân chủ
tập thể, đạo đức và lối sống lành mạnh, khiêm tốn giản dị, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, có tinh thần đoàn kết gắn bó với quần chúng; có sức
khoẻ; kiến thức, đáp ứng với yêu cầu công tác. Mục tiêu CTĐT ở Trường
Trung cấp CSND VI không ngừng được hoàn thiện nhằm đào tạo ra cán bộ
công an chính quy, tinh nhuệ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới,
phục vụ đắc lực cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu cải
cách tư pháp đến năm 2020. Về mục tiêu cụ thể, chiến lược phát triển
GD&ĐT trong CAND giai đoạn 2011 - 2020 xác định: “Đào tạo cán bộ
CAND có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng; có
17
kiến thức trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học theo các nhóm ngành tương
ứng của Nhà nước; có trình độ chính trị, võ thuật, ngoại ngữ, tin học, năng lực
tư duy và thực hành nhiệm vụ theo chức trách.
Nội dung CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI, bao gồm toàn bộ khối
lượng kiến thức tương ứng với từng lĩnh vực đào tạo (kiến thức chung, kiến
thức cơ sở và kiến thức chuyên môn) được quy định trong các học phần và
phân bổ theo tỷ lệ nhất định trong CTĐT. Việc xây dựng nội dung CTĐT
được Trường Trung cấp CSND VI thực hiện theo nguyên tắc thống nhất với
chương trình khung giáo dục trung cấp chuyên nghiệp (hệ chính quy), nhóm
ngành an ninh trật tự do Bộ công an ban hành kèm theo quyết định số
566/QĐ-BCA (X11), ngày 5/3/2009 của bộ trưởng Bộ công an và phù hợp với
yêu cầu thực tiền công tác. Nội dung CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI
theo tiếp cận ĐBCL cần thể hiện được nội dung đào tạo theo các chuẩn như:
Chuẩn về kiến thức, gồm nội dung kiến thức chung; kiến thức giáo dục
chuyên nghiệp là những học phần kiến thức cơ sở và những học phần kiến
thức ngành, kiến thức chuyên ngành cho các đối tượng là những học viên đào
tạo theo các chuyên ngành: Cảnh sát bảo vệ trại giam; chuyên ngành Trinh sát
trại giam; chuyên ngành Giáo dục cải tạo phạm nhân; chuyên ngành Tạm giữ,
tạm giam; chuyên ngành cảnh sát hỗ trợ tư pháp và chuyên ngành Thi hành án
hình sự ngoài hình phạt tù.
Chuẩn về kỹ năng, thực hiện đúng các nội dung, quy trình công tác;
chiến thuật nghiệp vụ trong khi thực hiện hoạt động nghiệp vụ; Xử lý được
các tình huống nghiệp vụ phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động nghiệp
vụ theo đúng quy định của pháp luật; Sử dụng thành thạo các loại vũ khí,
công cụ hỗ trợ được trang bị cho lực lượng; Có khả năng làm việc độc lập,
phối hợp làm việc theo nhóm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; Có kỹ năng
giao tiếp, ứng xử đúng mực với đối tượng công tác và quần chúng. Kỹ
năng giáo dục, rèn luyện, kỹ năng chỉ huy, quản lý, kỹ năng xã hội...
18
Chuẩn về năng lực, tự giác học tập nâng cao trình độ và năng lực chuyên
môn; có tinh thần trách nhiệm trong công việc; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao; có tinh thần cảnh giác, giữ bí mật Nhà nước, bí mật công tác.
Chuẩn về phẩm chất, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng
Cộng sản Việt Nam, với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tin
tưởng và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của ngành Công an, nội quy, quy định của
đơn vị, mệnh lệnh của cấp trên; Thực hiện nghiêm túc Điều lệnh nội vụ, Điều
lệnh đội ngũ CAND, 6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy CAND và quy định về
những điều cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân không được làm.
* Đặc điểm của chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI
Thứ nhất, đặc điểm về mục tiêu của CTĐT là nhằm đạt được mô hình nhân
cách của người cán bộ công an hiện nay. Mô hình nhân cách đó được cụ thể hóa
bằng mục tiêu, yêu cầu đào tạo cụ thể bao gồm cả học vấn, phẩm chất, năng lực
của người học sau khi ra trường đáp ứng với mục tiêu giáo dục, đào tạo của từng
chuyên ngành đào tạo ở Trường Trung cấp CSND VI và thực tiễn ở các đơn vị.
Thứ hai, đặc điểm về Khung CTĐT của nhà trường được xây dựng dựa
trên Khung chương trình do Bộ GD&ĐT và BCA quy định theo nguyên tắc
thống nhất với chương trình khung giáo dục trung cấp chuyên nghiệp (hệ
chính quy), nhóm ngành an ninh trật tự do BCA ban hành kèm theo quyết
định số 566/QĐ-BCA (X11), ngày 5/3/2009 của bộ trưởng BCA và phù hợp
với yêu cầu thực tiền công tác. Khung CTĐT là nội dung quan trọng để các cơ
quan, khoa giáo viên xây dựng và quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI.
Đồng thời, đây còn là hệ thống văn bản pháp quy làm cơ sở để kiểm định, đánh
giá chất lượng GD&ĐT của nhà trường.
Thứ ba, đặc điểm về nội dung kiến thức, kỹ năng trong CTĐT ở Trường
Trung cấp CSND VI quy định cấu trúc nội dung kiến thức và kỹ năng theo mục
tiêu, yêu cầu đã xác định của nhiều chuyên ngành đào tạo khác nhau đó là:
chuyên ngành Cảnh sát bảo vệ trại giam; Trinh sát trại giam; Giáo dục cải tạo phạm
19
nhân; Quản lý phạm nhân và đối tượng tạm giam, tạm giữ; Cảnh sát Hỗ trợ tư pháp;
Chuyên ngành thì hành án hình sự ngoài hình phạt tù. Nội dung kiến thức và kỹ
năng phải bao gồm: khoa học cơ bản, khoa học cơ sở và khoa học chuyên ngành.
Thứ tư, CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI còn quy định phương
pháp đào tạo và các cách thức đánh giá kết quả học tập của học viên, nhằm
thực hiện các mục tiêu đào tạo đã xác định
1.1.3. Quản lý chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp Cảnh sát
nhân dânVI theo tiếp cận đảm bảo chất lượng
* Quản lý, (tiếng Anh là Management) đặc trưng cho quá trình điều
khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thông qua việc thành
lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư và giá trị vô
hình...). Quản lý nói chung là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm
việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức.
Theo Henry Fayol (1841-1925) cho rằng: Quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ: xây
dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn lực có
thể được sử dụng và để quản lý là nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên nhiên.
Nhà quản lý người Mỹ Mary Parker Follett (1868-1933) định nghĩa
quản lý là “nghệ thuật khiến công việc được làm bởi người khác”. Theo đó,
nhiệm vụ cơ bản của quản lý gồm: vấn đề hoạch định với việc xác định mục
tiêu, quyết định những công việc cần làm trong tương lai và lên các kế hoạch hành
động. Tổ chức nhằm sử dụng tối ưu các nguồn lực để thực hiện kế hoạch. Bố
trí nhân lực để thực hiện phân tích công việc, tuyển mộ và phân công các cá
nhân cho phù hợp với công việc. Lãnh đạo động viên để các nhân viên làm
việc hiệu quả hơn nhằm thực hiện các kế hoạch. Kiểm soát giúp giám sát,
kiểm tra quá trình hoạt động theo kế hoạch.
Còn theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu
nhất định. Là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.
20
Từ điển Giáo dục học quan niệm: “Quản lý là hoạt động hay tác động
có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể
quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành
và đạt được mục đích của tổ chức đó.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Quản lý CTĐT ở Trường
Trung cấp CSND VI theo tiếp cận ĐBCL là tổng thể các tác động có mục
đích, có kế hoạch của các chủ thể quản lý đến công tác xây dựng, phát triển,
tổ chức thực hiện CTĐT theo các chuẩn đầu ra của nhà trường nhằm đạt
được mục tiêu đổi mới, cải tiến chất lượng GD&ĐT đáp ứng yêu cầu xây
dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ trong bối cảnh hiện nay.
Thực chất quản lý CTĐT là quản lý các nội dung liên quan đến CTĐT
bao gồm quản lý xây dựng và phát triển chương, quản lý quá trình tổ chức
thực hiện CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI.
Mục đích quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận
ĐBCL, là tổ chức, điều khiển các nội dung CTĐT nhằm mục đích thực hiện tốt
nội dung thiết kế, tổ chức thực hiện, tổ chức đánh giá và phát triển CTĐT của nhà
trường đảm bảo cho CTĐT theo hướng chuẩn hóa, hiện đại đáp ứng chuẩn đầu ra.
Thực hiện tinh giản nội dung phù hợp với mặt bằng chung của hệ thống giáo dục
quốc gia, phù hợp với đặc thù của CAND. Chương trình, nội dung GD&ĐT phải
gắn giữa đào tạo theo chuyên ngành, bảo đảm tính kế thừa, liên thông giữa các
trình độ đào tạo, tránh trùng lặp, kết hợp giáo dục chuyên môn với Pháp luật, kinh
tế, chính trị, khoa học, xã hội cho các đối tượng đào tạo, nhất là cán bộ CAND.
Nội dung quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận
ĐBCL, bao gồm quản lý mục tiêu CTĐT, quản lý chỉ đạo phát triển nội dung
CTĐT, quản lý tổ chức thực hiện CTĐT, quản lý kiểm tra đánh giá CTĐT,
quản lý các điều kiện đảm bảo thực hiện CTĐT.
Chủ thể quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận
ĐBCL, bao gồm: Ban Giám hiệu nhà trường; cán bộ quản lý đào tạo trực tiếp ở
Phòng Quản lý đào tạo, Phòng Khảo thí và bảo đảm chất lượng GD&ĐT; cán bộ
21
quản lý của các khoa, bộ môn và đội ngũ giáo viên tham gia quản lý CTĐT ở
Trường Trung cấp CSND VI.
Đối tượng quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận
ĐBCL, là hệ thống văn bản pháp lý quy định mục tiêu, yêu cầu, cấu trúc nội
dung CTĐT Trung cấp chuyên nghiệp CAND, bao gồm: Khung chương trình,
kế hoạch đào tạo, kế hoạch môn học.
Phương pháp, hình thức quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI
theo tiếp cận ĐBCL, được sử dụng tổng hợp các phương pháp, hình thức quản
lý CTĐT, trong đó phương pháp quản lý hành chính, hình thức quản lý trực
tiếp, gián tiếp là chủ yếu để quản lý CTĐT của nhà trường.
Kết quả quản lý CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI theo tiếp cận
ĐBCL, là sự thống nhất, hiệu quả, vận hành linh hoạt của quá trình đào tạo,
được đo bằng chất lượng, hiệu quả GD&ĐT thông qua chuẩn đầu ra các
chuyên ngành đào tạo như chuẩn về kiến thức, chuẩn về kỹ năng, thái độ,
năng lực hành vi khác, về thể chất người cán bộ công an khi ra trường.
1.2. Nội dung quản lý chương trình đào tạo ở
Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân VI theo tiếp cận
đảm bảo chất lượng
1.2.1. Quản lý xây dựng hoàn thiện mục tiêu chương trình đào tạo ở
Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân VI
Mục tiêu đào tạo của Trường Trung cấp CSND VI là đào tạo đội ngũ
cán bộ trình độ trung cấp Cảnh sát thi hành an hình sự và hỗ trợ tư pháp có
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch, năng lực chuyên môn và
sức khỏe để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thực hiện chủ trương của Bộ GD&ĐT, hướng dẫn của BCA, hiện nay
Trường Trung cấp CSND VI đang xây dựng chuẩn đầu ra cho các chuyên ngành
đào tạo. Theo đó, mục tiêu CTĐT phải phù hợp và đáp ứng được chuẩn đầu ra,
có như vậy CLĐT mới được đảm bảo. Vì vậy nhà trường phải tiếp tục, xây dựng
22
và hoàn thiện mục tiêu CTĐT cho phù hợp, đáp ứng ĐBCL và yêu cầu thực tiễn
công tác. Để thực hiện tốt nội dung quản lý này cần phải:
Tổ chức rà soát lại toàn bộ mục tiêu CTĐT của các chuyên ngành, đánh
giá phù hợp với chuẩn đầu ra, với thực tiễn đào tạo và thực tế công tác Thi
hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp.
Tổ chức khảo sát, đánh giá chất lượng học viên tốt nghiệp ra trường có
đáp ứng được với yêu cầu công tác hay không.
Trong từng giai đoạn, thời kỳ, tùy tình hình thực tế công tác thi hành án
hình sự và hỗ trợ tư pháp, cần tổng kết thực tiễn, lý luận để điều chỉnh mục
tiêu đào tạo một cách linh hoạt, đúng đắn.
Quá trình tổ chức đào tạo, kiểm tra, đánh giá CLĐT phải căn cứ mục tiêu
đào tạo và trở lại phục vụ có hiệu quả việc chỉnh lý, bổ sung mục tiêu đào tạo.
1.2.2. Chỉ đạo đổi mới chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp
Cảnh sát nhân dân VI theo tiếp cận đảm bảo chất lượng
Ngày 22/7/2011, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1229/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án “Quy hoạch tổng thể, nâng cao năng lực và CLĐT của các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng trong CAND đến năm 2020” trong đó có Trường Trung
cấp CSND VI. Để thực hiện đề án này, đã có nhiều quan điểm khác nhau về đổi
mới, phát triển CTĐT với nhiều cách tiếp cận dựa trên nhiều cơ sở khác nhau như
tiếp cận từ đối tượng người học, từ nội dung đào tạo hiện có, từ đội ngũ giảng viên
và các điều kiện đảm bảo… để cụ thể hóa thành mục tiêu, nội dung và CTĐT chi
tiết. Tuy nhiên, nội dung quản lý chỉ đạo đổi mới phát triển CTĐT đáp ứng yêu
cầu xã hội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác của lực lượng CSND sau khi học
viên tốt nghiệp ra trường là rất quan trọng. Chỉ đạo đổi mới CTĐT ở Trường
Trung cấp CSND VI theo hướng xây dựng và triển khai chuẩn đầu ra cho học
viên. Khi đó, chuẩn đầu ra sẽ là mục tiêu chính để quá trình xây dựng chương
trình và tổ chức đào tạo nhằm thực hiện mục tiêu đó. Khung chương trình, nội
23
dung các học phần, lộ trình và kế hoạch đào tạo, các hoạt động ngoại khóa, bổ
sung khác đều phải hướng đến thực hiện các chuẩn đầu ra này.
Trường Trung cấp CSND VI hiện đang tổ chức đào tạo trình độ trung
cấp cho 6 chuyên ngành. Do đó, để đạt được mục tiêu đào tạo theo tiếp cận
đảm bảo chất lượng gắn với các chuẩn đầu ra đó, đòi hỏi Nhà trường phải
nghiên cứu, xây dựng và phát triển các CTĐT theo hướng chuyên sâu, đồng
thời đảm bảo các quy định của Bộ GD&ĐT, BCA về khối lượng kiến thức tối
thiểu của các học phần, đảm bảo học viên phát triển toàn diện về thái độ, kiến
thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và thể chất. Vì vậy chỉ đạo đổi mới về
nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhằm nâng cao CLĐT ở
Trường Trung cấp CSND VI là nội dung then chốt.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo: “Đổi mới GD&ĐT phải bảo đảm tính thực
tiễn, hiệu quả và đồng bộ; lựa chọn khâu đột phá, lĩnh vực ưu tiên và cơ sở
trọng điểm để tập trung nguồn lực tạo bước chuyển rõ rệt. Việc mở rộng quy
mô phải đi đôi với nâng cao chất lượng; phải tiến hành đổi mới từ mục tiêu,
quy trình, nội dung đến phương pháp dạy và học, phương thức đánh giá kết quả
học tập; liên thông giữa các ngành, các hình thức, các trình độ đào tạo; gắn bó
chặt chẽ và tạo động lực để tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục
nghề nghiệp…”. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với nhà trường là cần phải chuẩn
hóa về chương trình, nội dung giảng dạy, giáo trình, tài liệu và quy trình kiểm
tra đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo; tiếp tục cải tiến nội dung chương
trình giảng dạy, phương pháp dạy học theo hướng thiết thực, hiện đại, thống
nhất, liên thông giữa các bậc học, coi trọng trang bị kiến thức nghiệp vụ, rèn
luyện kỹ năng, phẩm chất nghề nghiệp cho học viên. Tiếp tục nghiên cứu để
phát triển, mở rộng hệ thống ngành và chuyên ngành đào tạo theo hướng đáp
ứng đòi hỏi của thực tiễn công tác của lực lượng CSND và nhu cầu của xã hội.
Quá trình triển khai có tham khảo, nghiên cứu các CTĐT Cảnh sát của các
24
nước trong khu vực và trên thế giới, nhằm bổ sung, hoàn thiện các CTĐT, đảm
bảo tính liên thông.
1.2.3. Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo ở Trường Trung cấp Cảnh
sát nhân dân VI
Tổ chức triển khai, thực hiện CTĐT ở Trường Trung cấp CSND VI sao
cho đạt được hiệu quả như mong muốn là một nội dung quản lý quan trọng.
Để tổ chức thực hiện CTĐT ở nhà trường cần phải điều khiển, huy động hệ
thống tổ chức của nhà trường hoạt động theo quy chế, tăng cường các hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giám sát, hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt
động học tập của học viên. Tổ chức thực hiện CTĐT ở Trường Trung cấp
CSND VI cần tập trung vào các nội dung cụ thể như:
Xây dựng kế hoạch và tổ chức hướng dẫn thực hiện chương
trình đào tạo
Khi CTĐT đã được phê duyệt, Ban Giám hiệu và các cơ quan chức
năng trong các nhà trường có nhiệm vụ tổ chức và điều hành quá trình đào tạo
của nhà trường theo quy chế. Tổ chức thực hiện CTĐT phải theo Luật Giáo
dục, điều lệ các trường trung cấp chuyên nghiệp, điều lệ công tác nhà trường
công an. Để triển khai thực hiện CTĐT một cách có hiệu quả, phòng quản lý
đào tạo triển khai các văn bản cụ thể hóa CTĐT và các văn bản điều hành quá
trình đào tạo, trong đó có một số văn bản chính như: Sơ đồ logic các môn học
trong toàn khóa; kế hoạch đào tạo khóa học; lịch học.
Trên cơ sở chương trình khung và điều kiện tiên quyết của môn học, nhà
trường tiến hành xây dựng sơ đồ logic các môn học của toàn khóa học. Sơ đồ
logic các môn học thể hiện mối quan hệ giữa các chuyên ngành, các lĩnh vực
kiến thức, giữa các môn học theo logic dạy học và tiến trình thời gian. Môn học
này là cơ sở, là điều kiện để các môn học khác. Sơ đồ logic các môn học là một
yếu tố cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo toàn khóa và lịch học toàn khóa.
25