Tải bản đầy đủ (.doc) (179 trang)

Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn tây nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.53 KB, 179 trang )

LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan đây
là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết
quả

nêu

trong

luận

án



trung thực và có xuất xứ rõ
ràng!
TC GI LUN N

Phan S Thanh


Môc lôc
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU


TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CƠ SỞ VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN

1.1.
1.2.
Chương 2

2.1.
2.2.
Chương 3

Hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên
Những vấn đề cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH
NGHIỆM XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN

5
9

24
24
48

66

Thực trạng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa

bàn Tây Nguyên
66
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên
100
PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CƠ SỞ VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN
HIỆN NAY

112

3.1.

Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và phương hướng, yêu
cầu xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn
Tây Nguyên hiện nay
112
3.2.
Những giải pháp tăng cường xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay
122
KẾT LUẬN
159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


161
163


Stt
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14

Chữ viết đầy đủ
Ban chấp hành Trung ương
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Các xã, phường, thị trấn
Dân tộc thiểu số
Diễn biến hòa bình
Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị cơ sở
Hội đồng nhân dân
Tổ chức cơ sở Đảng

Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Uỷ ban nhân dân
Mặt trận Tổ quốc
Nhà xuất bản

Chữ viết tắt
BCHTW
CNH,HĐH
Cấp xã
DTTS
DBHB
HTCT
HTCTCS
HĐND
TCCSĐ
THCS
THPT
UBND
MTTQ
Nxb


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Xây dựng HTCTCS là một nội dung trọng yếu của đổi mới chính trị ở nước
ta hiện nay, tuy nhiên hiện nay đang có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải
đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề về xây
dựng HTCT nói chung và HTCTCS xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên

nói riêng. Nghiên cứu sinh là một sĩ quan quân đội đã có thời gian công tác ở Tây
Nguyên gần 20 năm, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị tiến hành công tác dân
vận, tham gia xây dựng HTCTCS, cùng với các lực lượng xử lý “điểm nóng” năm
2001 và năm 2004 tại tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nhận thấy, một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến những diễn biến phức tạp, bạo loạn chính trị ở Tây
Nguyên trong thời gian vừa qua bắt nguồn từ sự yếu kém của HTCTCS. Vấn đề
cấp thiết đặt ra là làm thế nào để khắc phục được sự yếu kém đó?. Điều này luôn
làm cho tác giả suy nghĩ, trăn trở, ấp ủ, hình thành ý tưởng nghiên cứu trong nhiều
năm. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án.
Quá trình triển khai đề tài, nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo cứu báo cáo
của các tỉnh ở Tây Nguyên và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên qua 10 năm thực hiện
Nghị quyết số 17-NQ/TƯ, Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX “Về đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”; tổng
kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh
tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010;
cùng với hệ thống tư liệu, số liệu do nghiên cứu sinh trực tiếp điều tra, khảo sát
thực tiễn hoạt động xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến
nay; đồng thời tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nước
ngoài, trong nước có liên quan đến xây dựng và hoạt động của HTCT.
Đề tài tập trung luận giải những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng
HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên; đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên


6
nhân và rút ra một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên
những năm vừa qua; xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp
cơ bản xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay. Kết cấu
của luận án gồm phần mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, 3 chương (6 tiết), kết
luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã được công bố liên quan đến

đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Hệ thống chính trị cơ sở là cấp chấp hành, trực tiếp tổ chức thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ, huy động mọi nguồn lực của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc
phòng, an ninh ở cơ sở. HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên có trách nhiệm to
lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chăm lo đời
sống cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, BCHTW Đảng khoá IX
“Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”, các tỉnh Tây Nguyên đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng và phát huy vai trò của HTCTCS. TCCSĐ ở nhiều nơi được củng cố và
tăng cường; chính quyền cấp xã được kiện toàn, hoạt động khá hiệu quả;
MTTQ và các đoàn thể hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên,
trước yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên đã bộc
lộ không ít hạn chế, khuyết điểm, một số xã, phường, thị trấn, vai trò lãnh đạo
của tổ chức đảng bị hạ thấp, các đoàn thể tồn tại một cách hình thức; hiệu lực,


7

hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy chính quyền còn yếu. Trình độ, năng lực
của phần lớn cán bộ cấp xã còn hạn chế, nhất là cán bộ cấp xã người DTTS; cơ
chế và chất lượng hoạt động của HTCTCS còn bất cập; điều kiện, phương tiện
làm việc còn thiếu thốn; một số vấn đề về chính sách cán bộ ở cơ sở chưa được
quan tâm đúng mức; kinh tế - xã hội phát triển chưa vững chắc, tỷ lệ hộ đói
nghèo cao, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống và xây dựng
đời sống văn hoá mới cho đồng bào Tây Nguyên chưa được quan tâm đúng
mức; các vụ việc khiếu kiện tập thể liên quan đến quyền lợi đất đai của đồng

bào, tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ của đội ngũ cán bộ cơ
sở, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân còn xẩy ra nghiêm trọng ở nhiều địa
phương cơ sở. Những yếu kém của HTCTCS ở một số nơi đã và đang làm giảm
sút lòng tin của nhân dân, dẫn đến gây hậu quả xấu về kinh tế, chính trị - xã hội.
Trong những năm tới, hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên
bên cạnh những thuận lợi, phải đối mặt với không ít những khó khăn thách
thức: kinh tế – xã hội ở Tây Nguyên vẫn trong tình trạng kém phát triển, tình
hình an ninh - chính trị còn nhiều diễn biến phức tạp do điều kiện lịch sử, địa
lý, những hạn chế, khuyết điểm chủ quan và các thế lực thù địch đang ráo riết
thực hiện âm mưu, thủ đoạn “DBHB”, bạo loạn lật đổ gây mất ổn định chính
trị, mưu toan thành lập “Nhà nước Đê Ga tự trị”. Điều đó đặt ra yêu cầu khách
quan, cấp bách phải quan tâm xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên
thực sự vững mạnh. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Xây dựng hệ


8

thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” làm đề
tài luận án là vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Đề tài luận án không trùng lặp về nội dung với các công trình nghiên cứu đã
công bố trong những năm gần đây.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp phần xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên vững
mạnh, tạo cơ sở vững chắc cho xây dựng Tây Nguyên giàu mạnh về kinh tế,
ổn định về chính trị, vững mạnh về quốc phòng – an ninh, phát triển nhanh,
bền vững về văn hóa, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên là đối
tượng nghiên cứu của luận án.

* Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, thực tiễn, yêu cầu, giải pháp xây dựng
HTCTCS vững mạnh bao gồm HTCTCS xã, phường, thị trấn ở các tỉnh
Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn, điều tra, khảo sát điểm một số xã, phường, thị trấn thuộc các
tỉnh Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2014, thời gian ứng dụng các giải
pháp đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới về khoa học
- Làm rõ tính đặc thù của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên và quan
niệm xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên.
- Tổng kết một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS vững mạnh trên
địa bàn Tây Nguyên.


9
- Đề xuất giải pháp xây dựng TCCSĐ, chính quyền, MTTQ, các đoàn
thể nhân dân và đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ người dân tộc bản địa
trên địa bàn Tây Nguyên.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Góp phần làm rõ thêm những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng
HTCTCS các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên.
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm những luận cứ khoa học
giúp cấp uỷ, chính quyền, ban ngành đoàn thể các tỉnh Tây Nguyên xác định chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành xây dựng HTCTCS vững mạnh.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy
trong hệ thống các học viện, nhà trường, nhất là ở các trường chính trị tỉnh,
trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, quận, thành phố thuộc các tỉnh Tây
Nguyên và các học viện, nhà trường quân đội.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị
Một số sách viết về nền chính trị các nước tư bản: Chính trị so sánh - về
các nền dân chủ Đức, Mỹ, Pháp, Anh, Ý (1991), Yves Meny [165]; American
Government Freedom and Power (sự tự do và quyền lực của chính phủ Mỹ)
(1992), Theodore j.Lowi, Benjamin Ginsberg; Chính trị học so sánh (1998),
Rolf H.W. Thee và Frank L.Wilson [118]; British Politics (Nền chính trị Anh)
(1998), Dennis Kavanagh; Comparative Politics- Aglobal introduction (so sánh
các thể chế chính trị trên thế giới) (2000), Michael j.Sodaro; Từ điển về chính
quyền và chính trị Hoa Kỳ (2002), Jay M.Shafritz [91]; Understanding
democracy – An introduction to public choice (nhận thức về dân chủ, một sự lựa
chọn công khai) (2003), F.Patrick Gunning. Các học giả trên đều cố gắng luận


10
giải rằng đa nguyên chính trị là đặc trưng của thể chế chính trị tư sản và HTCT
tư bản chủ nghĩa. Ở hầu hết các nước tư bản, ngoài các đảng tư sản còn có các
đảng cộng sản và các đảng của các tầng lớp xã hội khác. Các đảng phái chính trị,
tổ chức quần chúng hoàn toàn độc lập với chính quyền, trong đó, đảng cộng sản
được quyền tồn tại hợp pháp với tư cách là tổ chức chính trị đối lập, đối kháng
với các đảng tư sản. Bên cạnh đó, quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội cũng ngày càng tăng lên. Hoạt động của các tổ chức đó trên một số
phương diện đã làm tăng thêm quyền lực chính trị cho nhân dân.
Các công trình trên đã làm rõ những vấn đề về hệ thống chính quyền
nhà nước ở các nước tư bản; mối quan hệ giữa đảng phái chính trị và cơ quan
nhà nước ở các nước tư bản, chức năng quản lý địa phương do cơ quan hành
chính hoặc cơ quan tự quản thực hiện. Ở các nước tư bản cho dù chính quyền
địa phương được tổ chức theo mô hình tự quản và xã hội công dân được xem
như là độc lập đối với nhà nước nhưng hoạt động của nó vẫn phải nằm trong

khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Các chính trị gia tư sản cho rằng cơ cấu
quyền lực chính trị ở các nước tư bản có sự tham gia của nhân dân, có các
đảng chính trị cạnh tranh, nhờ đó mà tăng quyền lực chính trị cho nhân dân.
Nhưng về thực chất, sự ra đời của HTCT tư bản chủ nghĩa là nhằm bảo vệ
quyền lực chính trị của giai cấp tư sản, bản chất của HTCT tư bản chủ nghĩa
vẫn là sự thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn bộ đời sống xã hội, nhà
nước ấy là nhà nước của giai cấp tư sản, hiến pháp, pháp luật là thể hiện ý chí
của giai cấp tư sản cầm quyền, nền dân chủ tư sản thực chất chỉ là dân chủ với
thiểu số giai cấp tư sản và vì giai cấp tư sản.
Ở Liên Xô có công trình bàn về Đảng Cộng sản Liên Xô trong hệ thống
chính trị của xã hội Xô Viết (những vấn đề phương pháp luận nghiên cứu)
(1986) của V.Ia.Bôn-đa-rơ [161] đã phân tích rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng
sản Liên Xô và những bộ phận cấu thành khác trong HTCT; luận giải vai trò
của Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội


11
XHCN, lãnh đạo xã hội; phân tích tác động qua lại của quyền lực nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống quản lý nhà nước gồm Xô Viết
tối cao Liên Xô, 15 Xô Viết tối cao của các nước cộng hòa liên bang, 20 Xô
Viết tối cao của các nước cộng hòa tự trị, hơn 50 nghìn Xô Viết địa phương
hợp thành hệ thống thống nhất của các cơ quan quyền lực nhà nước. Mặc dù
hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ năm 1991 nhưng thành quả
xây dựng CNXH hơn 70 năm của Đảng Cộng sản Liên Xô là những bài học
quí giá về xây dựng HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Ở Trung Quốc có công trình Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế
kỷ XX (2002) của Tinh Tinh [131] đã trích dẫn, tổng hợp quan điểm của nhiều lãnh
tụ Đảng Cộng sản Trung Quốc trong công cuộc cải cách cơ cấu nền hành chính,
xem đó là một cuộc cách mạng. Cuộc cải cách cơ cấu là cơn lốc chính trị cuối thế
kỷ XX, dựa trên các nguyên tắc: theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường XHCN,

chuyển đổi chức năng của chính quyền, thực hiện chính quyền tách khỏi xí nghiệp;
tinh giảm, thống nhất, hiệu quả, điều chỉnh cơ cấu tổ chức chính quyền, thực hiện
tinh giảm biên chế; thống nhất quyền hạn và trách nhiệm, xác định chức trách và
quyền hạn của các ngành trong bộ máy chính phủ, phân công rõ ràng quyền hạn và
trách nhiệm của từng bộ, ngành, hoàn thiện cơ chế vận hành, hành chính; quản lý
nhà nước bằng pháp luật, tăng cường xây dựng pháp chế cho hệ thống hành chính;
trọng điểm cải cách là các bộ, ngành thành viên của Quốc Vụ viện. Ngoài văn
phòng Quốc Vụ viện, sẽ tinh giảm từ 40 bộ, ngành xuống còn 29 bộ, ngành. Có hơn
4 triệu cán bộ các cấp “rời cương vị”, nguyên nhân của “rời cương vị” là “ điều tiết
vô tình và sắp xếp có tình” [131, tr.23].
Các bài viết: “Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ
thẩm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng chống biến chất và
chống rủi ro” của Hạ Quốc Cường; “Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung
Quốc” của Lý Bội Nguyên; “Kiên trì phương châm quản lý đảng nghiêm


12
minh, triển khai cuộc xây dựng đảng phong liêm chính và đấu tranh chống
tham nhũng” của Chu Húc Đông; “Kiên trì xây dựng lý luận tư tưởng là
nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng” của Trần Tuấn Hồng
(2004) in trong kỷ yếu Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Cộng sản Trung Quốc [75]. Các tác giả thống nhất cho rằng Trung Quốc
là nước nông nghiệp lớn, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn
đề trọng đại, liên quan đến toàn cục của cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại
hóa nông thôn mới XHCN đặc sắc Trung Quốc, điều then chốt là tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với vùng nông thôn, phát huy đầy đủ vai trò của
đảng viên và tổ chức đảng ở nông thôn. Vì vậy, Đảng phải luôn kiên trì vũ
trang lý luận khoa học, giáo dục truyền thống, kiên trì vũ trang lý luận Đặng
Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “ ba đại diện”, bồi dưỡng tri thức, văn hóa

để thúc đẩy tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên; kết hợp xây
dựng tư tưởng, tổ chức với xây dựng tác phong; phương châm là đảng ủy lãnh
đạo thống nhất, bộ ngành cơ quan cùng nắm, cùng quản, trên dưới cùng tiến
hành và nắm chắc thường xuyên, không lơi lỏng, bình xét đảng viên một cách
dân chủ, xử lý nghiêm đảng viên vi phạm tư cách. Lấy “kiên trì tiêu chuẩn,
bảo đảm chất lượng, cải thiện cơ cấu, thận trọng phát triển” làm phương
châm, trọng điểm là phát triển đảng viên mới trong nông dân….Vận dụng
nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –Lênin, nghiêm chỉnh tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, học tập kinh nghiệm mới mẻ của các đảng cộng sản khác, tiếp
thu thành quả bổ ích của văn minh đương đại thì mới có thể quản lý Đảng
nghiêm minh, thúc đẩy Đảng tiên phong liêm chính có hiệu quả.
Bài viết “Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện
quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một
cách tích cực” (2009) của Vương Tề Ngạn [164]. Theo tác giả, kể từ cải cách
mở cửa đến nay, Trung Quốc xây dựng tổ chức chính quyền cơ sở cấp xã, thị
trấn, thiết lập thôn hành chính dưới xã, thị trấn, thôn hành chính bầu ra ủy ban


13
dân làng theo “Luật tổ chức ủy ban dân làng nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa”, thực hiện dân làng tự trị. Hiện nay, Trung Quốc có hơn 40 nghìn tổ chức
chính quyền cơ sở, hơn 613 nghìn ủy ban dân làng, kết hợp giữa xây dựng chính
quyền xã, thị trấn với phát triển tự trị dân làng góp phần củng cố nền tảng cầm
quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thúc đẩy kinh tế, xã hội nông thôn phát
triển, tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở. Theo tác giả, thúc đẩy hơn nữa xây
dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, bảo đảm dịch vụ công cộng không
ngừng tăng lên của đông đảo nông dân; cải thiện dân sinh, phát triển dân chủ,
phục vụ xã hội là nội dung quan trọng của xây dựng nông thôn mới XHCN. Để
đạt được mục tiêu đó tác giả đề xuất các giải pháp như: khơi thông quan hệ xã,
thôn, thực hiện quản lý của chính quyền và tự trị của dân làng thúc đẩy lẫn nhau

một cách tích cực; cải tiến phương thức quản lý hành chính cơ sở, xây dựng
chính quyền kiểu phục vụ, một mặt cần xác định rõ chức năng, vị trí của xã, thị
trấn, thúc đẩy chuyển biến chức năng chính quyền xã, thị trấn, mặt khác cần thay
đổi tư duy quản lý và dịch vụ hiệu quả cao hơn, nâng cao hiệu quả quản lý và
dịch vụ của chính quyền xã, thị trấn; phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của
TCCSĐ, nắm bắt phương hướng phát triển của tự trị quần chúng cơ sở.
1.1.2. Công trình nghiên cứu của nước ngoài về Tây Nguyên
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng luôn thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, một số công trình của các tác giả người
Pháp nghiên cứu về các dân tộc ở Tây Nguyên như: Về người M’nông Ga của
G.Condominas; Về người Mạ của Bulbe; Les Jungles mois nghĩa là Rừng người
Thượng (1912) của Henri Maitre viết về vùng rừng núi cao nguyên miền Trung
Việt Nam được xuất bản lần đầu vào năm 1912 tại Pháp [70]. Các tác phẩm Về
người Gia Rai; Rừng, Đàn bà và Điên loạn (2002); Miền đất huyền ảo (2003) của
Jacques.Dournes [90]. Trong các công trình trên, các tác giả đã khảo cứu về địa lý,
nguồn gốc, văn hoá, tín ngưỡng, phong tục của một số dân tộc đã sinh sống lâu đời


14
ở Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu của các công trình này tuy đề cập được một vài
nét về đặc điểm văn hóa của đồng bào Tây Nguyên, nhưng chưa toàn diện và ban
đầu chỉ nhằm phục vụ cho công cuộc xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta.
Trong thời kỳ 1954 - 1975, người Mỹ đã tăng cường nghiên cứu về các dân
tộc Tây Nguyên nhằm duy trì ách cai trị của chủ nghĩa thực dân mới trên vùng đất
có vị trí chiến lược quan trọng này. Tài liệu “Tự do trong rừng thẳm”, “Lịch sử
các sắc tộc vùng Tây Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến 1976” của Gerald
Lormon G.Hickey [65]; “Những nhóm thiểu số ở Cộng hòa Nam Việt Nam”
Westmoreland người Mỹ - chủ biên. Trong đó, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc
đặc điểm tự nhiên, văn hoá, dân tộc ở vùng Nam Trung bộ, đặc biệt là Tây

Nguyên, nhưng mới chỉ nhấn mạnh vấn đề sắc tộc, làm cho người đọc hiểu sai
lệch về quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên. Đây là vấn đề cấp thiết cần tiếp tục nghiên
cứu làm rõ đặc điểm địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên địa
bàn Tây Nguyên và những giải pháp góp phần phát triển Tây Nguyên bền vững.
1.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ
sở.
Cuốn sách: Xây Dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp
quyền (1992) của PGS.PTS Đỗ Nguyên Phương và PTS Trần Ngọc Đường
[113]. Công trình này đã đưa ra khái niệm về HTCT xã hội chủ nghĩa là tổng
thể các lực lượng chính trị bao gồm đảng cộng sản, nhà nước, các đoàn thể
nhân dân mang tính chất chính trị - xã hội hoạt động theo một cơ chế thống
nhất phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực hiện đường lối, mục tiêu
xây dựng CNXH. Cơ chế đó bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân do
đảng cộng sản lãnh đạo. Đồng thời, công trình đã phân tích luận giải khá sâu
sắc quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong HTCT nước ta.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết 17/NQTW, Hội nghị lần thứ năm,
BCHTW Đảng khóa IX (3/2002) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ


15
thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn” [40] đã có các công trình khoa học
“Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp” (2002) của TS
Vũ Hoàng Công [34]; Sách “Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay”(2003) PGS.TS Tô Huy Rứa,
PGS.TS Nguyễn Cúc, PGS.TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) [119]; Sách
“Hệ thống chính trị cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới” (2004)
TS Chu Văn Thành - chủ biên [123]; Sách “Hệ thống chính trị cơ sở ở nông
thôn nước ta hiện nay” (2004) của GS.TS Hoàng Chí Bảo - chủ biên [20] dựa
trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố hệ

thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện
nay”. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ các vấn đề lý luận về HTCT,
HTCTCS ở nước ta như: khái niệm, cấu trúc, bản chất, mục tiêu, cơ sở chính
trị - xã hội của HTCT trong quá trình hình thành và phát triển; chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức thành viên và mối quan hệ giữa các tổ chức trong
HTCT. Luận giải, làm rõ khái niệm HTCTCS, phân tích đặc điểm và tình hình
hoạt động của HTCTCS; đồng thời, dự báo những xu hướng biến đổi, phát
triển của HTCTCS trong thời gian tới dưới tác động của sự biến đổi kinh tế xã hội, dân số; yêu cầu xây dựng và thực thi nền dân chủ XHCN; yêu cầu tiếp
tục đổi mới chính trị trong thời kỳ CNH,HĐH. Các công trình đều khẳng định
bản chất, mục tiêu của đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT là nhằm
thực hiện và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Cần tập trung giải
quyết tốt mối quan hệ giữa HTCTCS với quần chúng nhân dân. Tuy nhiên,
các tác giả mới nghiên cứu HTCTCS ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ,
còn đối với loại hình HTCTCS các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây
Nguyên có những đặc thù riêng mà các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu.
Cuốn sách “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt
Nam giai đoạn 2005- 2020” (2008) của PGS.TS Trần Đình Hoan, nguyên Ủy
viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm


16
cùng với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, từ kết quả nghiên cứu của đề tài
khoa học cấp Nhà nước KX.10-02 “Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ
thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2005-2020” thuộc chương trình KX.10
“Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế” [73]. Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong
hơn 20 năm qua, các tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ tính tất yếu khách
quan của việc đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay, nêu ra các mục tiêu, quan

điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT; đề xuất phương hướng và các giải pháp
đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020. Theo đó, đổi mới HTCT
không nhằm mục tiêu tạo ra một HTCT mới hay thay đổi bản chất của HTCT
hiện nay, mà thực hiện đổi mới theo hướng hoàn thiện để khắc phục các bất
cập, yếu kém, tạo nên sự phù hợp của HTCT với các yêu cầu của kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới HTCT nhằm
giữ vững ổn định chính trị, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống lại mọi
âm mưu “DBHB”. Đổi mới HTCT để củng cố, tăng cường, mở rộng nền tảng
xã hội của HTCT, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng
thuận xã hội để thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển. Đổi mới HTCT
luôn phải đảm bảo và nâng cao vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, trong đó, đổi mới, chỉnh đốn
Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới HTCT.
Cuốn sách “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”(2008) của GS.TS Nguyễn Phú Trọng - làm chủ nhiệm với sự tham
gia của nhiều nhà khoa học [148], khi bàn về đổi mới HTCT, phát huy dân chủ
XHCN, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc tư duy lý luận của Đảng ta về
HTCT đất nước. Theo các tác giả, trải qua 20 năm đổi mới, HTCT nước ta đã


17
tập trung từng bước làm rõ các vấn đề: dân chủ XHCN; tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân làm chủ.
Mục tiêu cao nhất trong hoạt động của HTCT nước ta là giữ vững định hướng
XHCN, gắn độc lập dân tộc với CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Cuốn sách chuyên khảo của các tác giả GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS
Hoàng Chí Bảo, PGS.TS Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) (2008) “Đổi mới
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ

thống chính trị ở Việt Nam” [107]; PGS.TS Lê Hữu Nghĩa có bài báo khoa
học (2013) “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [108]. Các tác giả khảng định đổi
mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là nội
dung chủ yếu và căn bản của đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay. Đề cập cơ sở
lý luận, thực tiễn, những nhân tố tác động và yêu cầu đổi mới quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay; sơ lược
quá trình hình thành và phát triển quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội ở nước ta; chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế, yếu
kém cùng với những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó rút ra
bản chất, xác định những quan điểm, nguyên tắc và đề xuất những nội dung,
giải pháp chủ yếu của đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, như: đổi mới về nhận thức, về tổ chức
cán bộ; đổi mới thể chế, cơ chế và qui chế hoạt động của các tổ chức trong
HTCT; đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
đổi mới công tác giáo dục tuyên truyền trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và dự báo khoa học các vấn đề chính trị,
xã hội phục vụ cho yêu cầu lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và thực
hành dân chủ của nhân dân. Các tác giả cho rằng: đổi mới HTCT ở nước ta
không có mục đích tự thân mà mục đích sâu xa, bản chất, quan trọng nhất của


18
nó là hướng vào xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm thực hiện dân chủ,
phát huy quyền làm chủ và vai trò làm chủ thực sự của người dân
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và hệ thống chính
trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên
Một số công trình chuyên khảo về dân tộc, quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên
trong những năm cuối thế kỷ XX như: Đề tài cấp Bộ “Xu hướng vận động của
quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với

Tây Nguyên” (1994 - 1995) do TS Nguyễn Văn Nam - chủ nhiệm [106]; cuốn
sách “Vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên” ( 2010) của PGS.TS Nguyễn Văn Nam [105]. Sách
“Tây Nguyên – nơi hội tụ văn hóa truyền thống và tình đoàn kết các dân tộc”
(2006) của các tác giả Đậu Xuân Luận, Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Chính,
Nguyễn Văn Lượng [98]. Sách “Tây Nguyên – vùng đất, con người” (2006) của
các tác giả Đinh Văn Thiên, Lê Quang Lợi, Nguyễn Trường Sơn [126]. Các
công trình trên đã nghiên cứu, khái quát về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội và truyền thống trong đấu tranh cách mạng kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ; nêu bật những thành tựu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội Tây Nguyên. Sưu
tầm, biên soạn những đặc điểm văn hóa cộng đồng, phong tục tập quán, lễ hội
truyền thống, các công trình kiến trúc của các dân tộc Tây Nguyên. Từ việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận động quan hệ dân tộc ở
Tây Nguyên, các tác giả đã xác định phương hướng, giải pháp xây dựng và thực
hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây Nguyên như: đẩy mạnh phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh
của điều kiện tự nhiên ở Tây Nguyên; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế và vấn đề dân tộc, xây dựng quan hệ dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau; tích cực củng cố, đổi mới, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt
động của HTCT các cấp, đặc biệt là cơ sở; kiên quyết đấu tranh chống lại âm


19
mưu "DBHB" chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tuy
đã nhấn mạnh đến xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc, nhưng nhóm
nghiên cứu chưa đề cập những mầm mống, nguyên nhân làm rạn nứt khối đoàn
kết dân tộc từ tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc ở Tây Nguyên.
Cùng với các công trình trên, cuốn sách: “ Tổ chức và hoạt động buôn làng
trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên” (2010) của TS Bùi Minh Đạo [47]
đã đề cập nhiều đặc trưng văn hóa, xã hội, con người Tây Nguyên hình thành từ

những tác động của điều kiện tự nhiên - xã hội. Trong đó, yếu tố quan trọng
được tác giả luận giải sâu sắc về hình thái tổ chức xã hội cổ truyền “làng” (plei,
plơi, buôn, bon…) là đơn vị xã hội độc lập và duy nhất, mỗi buôn làng Tây
Nguyên đều tồn tại thiết chế xã hội tự quản, làm nhiệm vụ quản lý và điều tiết
các mối quan hệ giữa con người với nhau và các mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, thông qua luật tục và phong tục tập quán có sẵn tự ngàn xưa. Tuy
nhiên, hiện nay làng của các DTTS Tây Nguyên không còn là một thực thể đơn
nhất, mà bao trùm lên nó là hệ thống thiết chế chính trị của Nhà nước. Vì vậy,
buôn làng trở thành “cánh tay nối dài” của chính quyền cơ sở đến các hộ gia
đình và từng người dân. Đặc trưng xã hội này là cơ sở xác định yếu tố tác động
đến xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên.
Luận án tiến sĩ triết học “Phát huy vai trò bộ đội địa phương trong xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của
địch trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” ( 2009) của Nguyễn Trường Sơn [121].
Trong đó, tác giả đã làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá Tây Nguyên
của các thế lực thù địch và phân tích vai trò HTCTCS ở Tây Nguyên trong
phòng, chống “DBHB” trên địa bàn. Đồng thời, tác giả chỉ ra thực trạng và đề
xuất những nhóm giải pháp gồm: Xây dựng bộ đội địa phương các tỉnh Tây
Nguyên vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện mới; Cơ chế
phối hợp và bảo đảm tài chính trong hoạt động xây dựng HTCTCS; Nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ đội địa phương trong kết hợp phát triển kinh tế - xã


20
hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên. Tuy nhiên, tác
giả chưa đề cập sâu sắc và toàn diện về đặc điểm, vai trò và các giải pháp xây
dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay.
Luận án tiến sĩ lịch sử “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp phát
triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1996 đến
năm 2006” (2012) của Lê Nhị Hòa [72] đã nghiên cứu làm sáng tỏ cả trên

phương diện lý luận, tổng kết thực tiễn, hệ thống quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng trên địa bàn Tây Nguyên qua hai giai đoạn 1996 – 2000 và 2001 – 2006.
Tác giả làm rõ kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây Nguyên
diễn ra theo 3 tuyến: kết hợp ngay trong mỗi lĩnh vực; kết hợp giữa hai lĩnh vực
với nhau, kết hợp gián tiếp thông qua các lĩnh vực khác làm trung gian như: chính
trị, văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, đối ngoại… kết hợp phát triển kinh tế với
bảo đảm quốc phòng tiến hành đồng thời và gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó
phát triển kinh tế là trọng tâm, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu. Tác giả
cũng làm rõ một số hạn chế và đưa ra một số kinh nghiệm như: giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận
lòng dân, đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc và hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Tuy nhiên, luận án chưa đề cập sâu
sắc vấn đề vai trò của HTCT trong kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng và vấn đề xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên.
Luận án tiến sĩ chính trị học “Tính tiền phong của đảng viên nông thôn
các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” (2012) của Nguyễn Văn Hào [66] đã
luận giải khá rõ đặc điểm nông thôn Tây Nguyên, đưa ra khái niệm về tính tiền
phong của đảng viên nông thôn ở địa bàn Tây Nguyên, đánh giá thực trạng, rút
ra nguyên nhân và khái quát những kinh nghiệm, dự báo những nhân tố tác động


21
và những giải pháp chủ yếu nâng cao tính tiền phong của đảng viên nông thôn ở
Tây Nguyên. Tuy nhiên, tác giả chưa luận giải rõ đặc trưng bản chất tính tiền
phong của đảng viên chính là bản chất giai cấp công nhân, và tính tiên phong
trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng HTCTCS (tr.65); trong chăm lo đời
sống, vật chất, tinh thần của nhân dân.
Luận án tiến sĩ chính trị học “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay” (2012) của
Nguyễn Thành Dũng [62] đã phản ánh và luận giải về đặc điểm, địa lý, kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, lịch sử văn hóa, dân tộc và đời sống của
đồng bào Tây Nguyên; Phân tích chức năng, nhiệm vụ của Đảng ủy,
HĐND,UBND cấp huyện ở Tây Nguyên; Đánh giá thực trạng, nguyên nhân
và đúc rút bốn kinh nghiệm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở Tây Nguyên; trên cơ sở những dự báo khoa học về tình hình
quốc tế, trong nước và Tây Nguyên, tác giả đề ra hệ giải pháp nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân; cụ
thể hóa tiêu chuẩn, chức danh cán bộ cấp huyện. Tuy nhiên, nội dung luận án
chưa tập trung làm rõ vị trí, vai trò cấp huyện với tính cách là một đơn vị
hành chính nhà nước chứ không phải chỉ là cầu nối giữa cấp tỉnh và cấp xã
(tr.27-32), chưa đề cập đến đặc điểm quốc phòng, an ninh, truyền thống cách
mạng của các dân tộc Tây Nguyên (tr.32-39), chưa phân tích rõ chức trách,
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên. Tổng quan
tình hình nghiên cứu về những giá trị của luận án là cơ sở để xây dựng
HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay.
Các bài báo: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược các tỉnh Tây Nguyên ” (2004) của
Nguyễn Phúc Thanh, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6 [124]. “Binh đoàn
Tây Nguyên tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn” (2005)
của Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Tuấn Dũng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,


22
số 3 [64]. “Binh đoàn 15 đoàn kết gắn bó mật thiết với đồng bào Tây Nguyên,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
(2004) của Nguyễn Xuân Sang, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6 [120].
“Lực lượng vũ trang Quân khu 5 – tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa
phương trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên” (2007) của Thiếu tướng Nguyễn

Văn Thảng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6 [122]. Nội dung các bài báo
đã phân tích làm rõ vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh
của các tỉnh Tây Nguyên cả trong chiến tranh giải phóng và trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; khẳng định tham gia xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội trên địa bàn công tác là một nhiệm vụ, một nội dung công tác
dân vận của các đơn vị quân đội. Đánh giá khái quát những thành tích và
những hạn chế của các đơn vị quân đội thuộc Binh đoàn Tây Nguyên và Quân
khu 5 đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên trong những năm qua đã tham gia
công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị trên địa bàn một cách chủ động,
tích cực và đạt hiệu quả cao, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân các dân
tộc Tây Nguyên với Đảng, Nhà nước, Quân đội; qua đó làm cho hình ảnh “bộ
đội cụ Hồ” càng được khắc sâu trong lòng nhân dân các dân tộc Tây Nguyên.
Các tác giả đã rút ra một số kinh nghiệm và xác định các giải pháp lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị quân đội nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược các tỉnh Tây Nguyên, phù hợp với đặc
điểm nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của đơn vị.
2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Kết quả khảo cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận
án: “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên
hiện nay” cho thấy, bên cạnh những vấn đề đã được luận bàn thấu đáo còn
những vấn đề đặt ra tác giả luận án cần phải tiếp tục giải quyết là:
Thứ nhất, về mặt lý luận, các tác giả chưa đề cập sâu sắc những vấn đề cơ


23
bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu
đánh giá thực trạng xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên.
Thứ ba, các công trình đã công bố, chỉ đặt ra giải pháp xây dựng

HTCTCS chung của cả nước, hoặc chỉ đề cập xây dựng từng thành tố trong
HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên.
Do đó, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu luận giải làm sáng tỏ quan niệm,
đặc điểm, vai trò, mối quan hệ và phương thức hoạt động của HTCTCS, xác
định tiêu chí đánh giá, luận giải những vấn đề có tính nguyên tắc xây dựng
HTCTCS vững mạnh; khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân và kinh nghiệm xây dựng HTCTCS; đề xuất những giải pháp
đồng bộ, khả thi, tăng cường xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây
Nguyên hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về HTCTCS và đề
xuất những giải pháp tăng cường xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn
Tây Nguyên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
4. Nội dung nghiên cứu
- Những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS vững mạnh
trên địa bàn Tây Nguyên.
- Thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS
vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên.
- Phương hướng, yêu cầu và những giải pháp tăng cường xây dựng
HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong thời kỳ mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, luận án sử
dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành,


24
chủ yếu là các phương pháp kết hợp logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, tổng
kết thực tiễn, điều tra xã hội học, so sánh, thống kê và phương pháp chuyên gia.



25
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỮNG MẠNH
TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN
1.1. Hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên
1.1.1. Khái quát một số nét về Tây Nguyên
- Tình hình địa lý – dân cư: Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai,
Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng có 61 đơn vị hành chính cấp huyện, 722 đơn vị
hành chính cấp xã, 7.616 thôn, buôn, bon, tổ dân phố [14]. Phía Bắc giáp tỉnh
Quảng Nam; phía Đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai; phía Nam giáp tỉnh Bình Phước; phía
Tây giáp Lào và Campuchia và có tuyến biên giới dài 591 Km, trong đó có 150
km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Muldulkiri,
Ratanakiri của Campuchia, với 4 cửa khẩu quốc tế. Diện tích toàn khu vực
54.474 km2, chiếm 16,3% diện tích cả nước; dân số đến đầu năm 2013 có hơn
5.282000 người, có 47 dân tộc anh em sinh sống, có 13 dân tộc bản địa với hơn 2
triệu người, chiếm 28,2% dân số toàn vùng [109]. Tây Nguyên có nhiều đồi núi,
đường sá nhiều đèo dốc, nhiều sông suối, chia cắt về địa hình gây khó khăn cho
việc đi lại và qui hoạch sản xuất hàng hóa nông sản với qui mô lớn và nằm trong
vùng khí hậu khắc nghiệt chia thành hai mùa rõ rệt, mùa khô và mùa mưa, chịu
ảnh hưởng của thiên tai, bão lụt, lũ quét, hạn hán, dịch bệnh xẩy ra thường xuyên
gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân địa phương.
- Tình hình chính trị: Tây nguyên là vùng đất giàu truyền thống yêu
nước, là căn cứ địa cách mạng; trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, đồng bào Tây Nguyên luôn tin theo Đảng và Bác Hồ, đoàn kết đứng
lên tiến hành chiến tranh du kích, đùm bọc, nuôi dấu cán bộ, cùng bộ đội
chiến đấu chống kẻ thù. Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đồng bào Tây Nguyên phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất,



26
đoàn kết một lòng quyết tâm chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây tình hình Tây Nguyên có nhiều diễn biến phức tạp,
những mâu thuẫn bất bình trong nhân dân chưa được giải quyết triệt để;
những yếu kém, tiêu cực của chính quyền trong việc buông lỏng quản lý đất,
rừng, di dân tự do; đời sống của đồng bào DTTS còn gặp nhiều khó khăn; lực
lượng FULRO vẫn tìm cách móc nối với bọn phản động nước ngoài để chống
phá; việc truyền đạo trái phép, đặc biệt là đạo “tin lành Đêga” đang gây mất
ổn định chính trị ở Tây Nguyên. Tình hình buôn lậu, tội phạm, vượt biên trái
phép còn tiếp tục diễn biến phức tạp, nguy cơ gây mất ổn định chính trị xã hội
trên địa bàn vẫn đang tiềm ẩn, Tây Nguyên “tuy yên nhưng chưa ổn”
- Tình hình kinh tế - xã hội: Tây Nguyên là vùng đất rộng lớn có nhiều
tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, nổi bật là tài nguyên đất và tài nguyên
rừng có giá trị kinh tế cao. Tây Nguyên còn là vùng giàu về khoáng sản, tài
nguyên nước và năng lượng thuỷ điện, đồng thời là vùng có huyết mạch giao
thông quan trọng nối liền các tỉnh duyên hải miền Trung với thành phố Hồ Chí
Minh, đồng bằng Nam Bộ, giữa các tỉnh phía Bắc với các tỉnh phía Nam. Hệ
thống trục đường tỉnh lộ thuộc các tỉnh luôn được sửa chữa, làm mới dễ cơ
động và tuyến đường Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn về kinh tế, dân sinh, quân sự
[phụ lục 2; 3]. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế vùng Tây Nguyên còn chậm so
với tốc độ phát triển chung của cả nước, chủ yếu là kinh tế nông – lâm nghiệp
phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Nhiều dự án kinh tế ở Tây Nguyên
đang khai thác, tàn phá cạn kiệt dần tài nguyên, đặt ra nhiều vấn đề về kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Đời sống đồng bào Tây
Nguyên nhìn chung còn khó khăn, nhất là đồng bào DTTS tại chỗ, đồng bào di
cư tự do. Số lượng người mù chữ còn cao, tỷ lệ hộ được dùng nước sạch còn
quá ít. GDP bình quân đầu người của vùng thấp chỉ đạt trên 66,98% GDP bình
quân đầu người toàn quốc [phụ lục 27, 33].



×