Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

NHẬP MÔN TCTT:CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG CỤ NÀY Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.46 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN KIỂM TOÁN

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐỀ TÀI: TRÌNH BÀY CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
CÁC CÔNG CỤ NÀY Ở VIỆT NAM

GV hướng dẫn

:

Nhóm thực hiện

: 01

Lớp HP

: 1774EFIN2811
Hà nội -2017


LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước ta từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua đã và đang kéo theo hàng loạt
những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng ban đầu để phát triển thị trường
tài chính nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế một cách bền vững.
Cùng với sự phát triển đó, nhu cầu về vốn là vấn đề quan trong được ưu tiên hàng đầu
trước khi bắt đầu một năm tài khóa mới. Đề cập đến vấn đề này để thấy rằng việc hình


thành một thị trường tài chính cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Cho
nên việc tìm hiểu thị trường tiền tệ hay thị trường vốn là gì có vai trò to lớn như thế nào
đối với nền kinh tế Việt Nam là điều hết sức cần thiết, nhưng chúng ta phải đặc biệt chú
trọng các công cụ lưu thông trên thị trường này. Việt Nam hiện nay là một quốc gia có thị
trường mới phát triển, các công cụ trong thị trường tài chính nhiều cái khá mới mẻ,
nhưng với tốc độ đang phát triển thì các công cụ này đã thể hiện được tầm quan trọng của
nó trong việc cung cấp vốn cho sản xuất và tiêu dùng, làm cho các dòng vốn được lưu
thông một cách hiệu quả nhất.
Để làm rõ vấn đề này, bài thảo luận nhóm chúng em hôm nay tập trung phân tích:
“Các công cụ trên thị trường tài chính; thực trạng và giải pháp các công cụ này trên thị
trường Việt Nam”
Do hiểu biết còn hạn chế và chưa đi sâu vào thực tế, bài thảo luận không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Chúng em mong được nhận sự góp ý của giáo viên bộ môn.
Em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Tổng quan thị trường tài chính

1.1.1. Khái niệm
Thị trường tài chính là loại thị trường thực hiện việc chuyển giao các nguồn vốn từ
người cung vốn sang người cầu vốn theo các nguyên tắc thị trường, là tổng hòa của các
mối quan hệ hàng hóa – vốn tiền tệ, cung cầu, giá cả phương thức giao dịch và phương
thức thanh toán.
1.1.2.

Các yếu tố cơ bản trên thị trường tài chính


Đối tượng của thị trường tài chính: nguồn cung và cầu về vốn trong xã hội của các chủ
thể kinh tế
Công cụ của thị trường tài chính: các loại chứng khoán
Chủ thể của thi trường tài chính: pháp nhân và thể nhân đại diện cho những nguồn cung,
cầu về vốn trên thị trường tài chính
1.1.3.

Các loại thị trường tài chính

Căn cứ vào thời hạn thu hồi vốn đầu tư: thị trường tiền tệ, thi trường vốn
Căn cứ vào thời hạn giao nhận và thanh toán: thị trường giao ngay và thị trường có kỳ
hạn
Căn cứ vào cơ chế hoạt động: thị trường có tổ chức, thị trường tự do
Căn cứ vào đối tượng giao dịch trên thị trường: thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu,
thị trường công cụ phát sinh
1.1.4.

Chức năng của thị trường tài chính

Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính
đến những chủ thể cần nguồn tài chính:
 Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người
kinh doanh. Giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi
đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
 Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng nhu
cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh. Thị trường tài chính
giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư
mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất
cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ
phải hoàn trả cả vốn và lãi cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích

lũy cho chính bản thân mình.


 Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở
cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành trái
phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành
sản xuất kinh doanh trong nước.
 Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái
phiếu, đổi tiền.
Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán;
Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của doanh nghiệp.
1.4.5. Vai trò của thị trường tài chính
Thị trường tài chính thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước, khuyến
khích tiết kiệm và đầu tư;
Thị trường tài chính góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính;
Thị trường tài chính thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của nhà nước.
1.2.

Các công cụ thị trường tài chính

1.2.1. Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn (có kỳ hạn
dưới một năm) được mua bán, còn thị trường vốn là thị trường giao dịch, mua bán các
công cụ tài chính trung và dài hạn (gồm các công cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu). Vốn
ngắn hạn chủ yếu do các ngân hàng cung cấp, còn thị trường chứng khoán là đặc trưng cơ
bản của thị trường vốn.
Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ là cắc tài sản tài chính ngắn hạn (hay
công cụ nợ ngắn hạn) có tính thanh khoản cao như:
a. Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu (TP) kho bạc là loại chứng nhận nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc

nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN và tạo thêm công cụ cho
thị trường tiền tệ
Mục đích của việc phát hành các chứng từ cho ta biết thế nào là thâm hụt tạm thời của
NSNN, tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc được phát hành dưới hình thức chiết khấu: tín phiếu kho bạc không trả
lãi và được bán ở mức chiết khấu so với mênh giá và được kho bạc chuộc lại với đầy đủ
mệnh giá khi đến hạn
Thời hạn của TP kho bạc thường ngắn có thể 3 tháng, 6 tháng, 1 năm
Khi bán với mức chiết khấu thì chúng ta sẽ xác định được:
 Giá TP kho bạc, viêc xác định giá TP kho bạc tùy thuộc đó là thị trường sơ cấp,
hay thị trường thứ cấp


 Lợi suất đầu tư TP
 Giá bán lại TP theo thời gian
 Giá bán từ khi mua tới khi bán
Hình thức mua bán tín phiếu:
 Tín phiếu kho bạc có thể phát hành tới tận tay nhà đầu tư hoặc hình thức phổ biến
là kho bạc bán luôn cho NHTW sau đó NHTW bán lại cho nhà đầu tư mà chủ yếu
là bán cho các NHTM
 Tín phiếu kho bạc là một trong những hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường
tiền tệ vì nó có độ tin cậy cao và độ lỏng cao
b. Tín phiếu NHTW
Tín phiếu NHTW là loại công cụ nợ do NHTW phát hành với mục đích là hút tiền về
nhằm thắt chặt chính sách tiền tệ
c. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là loại công cụ nợ do NHTM phát hành để huy động vốn cam kết trả
lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc cho người gửi tiền đi đến ngày đáo
hạn
d. Chấp nhận của ngân hàng

Chấp nhận của NH là giấy đảm bảo rằng NH sẽ thanh toán về điều kiện số tiền mà người
nhập khẩu còn thiếu đối với người xuất khẩu vào một ngày nào đó xác định trong tương
lai
Chấp nhận của NH thường được sử dụng trong giao dịch thương mại quốc tế thực ra đây
chính là hối phiếu phát sinh trong quan hệ mua bán trả chậm giữa các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu được NH chấp nhận thanh toán
NHTM thay mặt nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát bằng cách
đóng dấu
e. Thương phiếu
Thương phiếu là loại giấy nhận nợ xác định quyền đòi nợ của chủ sở hữu thương
phiếu và nghĩa vụ phải hoàn trả của người mua khi đến hạn
Đặc điểm của thương phiếu:
 Có tính trừu tượng
 Có tính lưu thông : thương phiếu có thể chuyển nhượng từ người này sang người
khác
Phân loại thương phiếu:
 Căn cứ vào chủ thể lập thương phiếu có 2 loại :
 Hồi phiếu: Là thương phiếu do chủ nợ lập để ra lệnh cho người thiếu nợ trả 1 số
tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn


 Lệnh phiếu: Là thương phiếu do người thiếu nợ lập để cam kết trả một món tiền
nhất định cho chủ nợ khi đến hạn
 Theo hình thức có 2 loại thương phiếu: Thương phiếu vô danh và thương phiếu ký
danh
Vai trò của thương phiếu:
 Đối với người đầu tư thương phiếu có độ rủi ro thấp , thời hạn thanh toán ngắn nên
dung để thay thế cho các công cụ trên thị trường tiền tệ
 Đối với người kinh doanh thương phiếu việc mua bán thương phiếu qua 2 cách :
 Trực tiếp : Người vay có thể bán trực tiếp cho người đầu tư

 .Gián tiếp : Mua bán qua các nhà kinh doanh thương phiếu bằng cách mua thương
phiếu từ người phát hành với mức lãi suất chiết khấu sau đó bán lại cho các chủ
thể đang có vốn thặng dư ngắn hạn
Lợi ích đầu tư của thương phiếu:
 Đối với người mua: Thu được lợi nhuận (chênh lệch giữa giá mua và giá bán )
 Đối với người đi vay: Lãi suất chiết khấu (lãi xuất vay từ NH có thể thu hút nguồn
vốn nhàn rỗi để đầu tư ngắn hạn, có đủ điều kiện để người đi vay có thể tham gia
hay rút khỏi thị trường mở.
f. Hợp đồng mua lại
Hợp đồng mua lại là thỏa thuận giữa 2 bên theo đó bên bán chứng khoán đồng ý
mua lại chứng khoản đã bán cho người mua ở một mức giá nhất định. Giúp người bán
thoả mãn nhu cầu cấp thiết về vốn do chi tiêu hiện tại.
Hợp đồng mua lại bao gồm 2 giao dịch:
 Bán chứng khoán kèm theo cam kết mua chứng khoán vào một thời điểm trong
tương lai có thể theo cùng một mức giá bằng một thời điểm nào đó trong tương lai
và người bán cam kết trả cho người mua một mức lãi suất nhất định
 Mua chứng khoán nhưng đưa ra điều kiện người bán phải mua lại chứng khoán
trong tương lai, người mua nhận lại tiền gốc cộng với lãi suất nhất định tại một thời
điểm nào đó trong tương lai.
1.2.2. Thị trường vốn
Thị trường vốn bộ phận của thị trường tài chính, tại đó diễn ra quá trình giao dịch,
phát hành, mua bán, chuyển nhượng của các công cụ tài chính trung và dài hạn ( có thời
hạn từ một năm trở lên), là nơi cung ứng vố đầu tư trung và dài dài cho nền kinh tế, đồng
thời là thị trường đầu tư và quan trong của những nhà đầu tư.
Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn:
a. Cổ phiếu


Cổ phiếu là bằng chứng pháp lý xác định quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với một phần vốn góp vào tổ chức phát hành là công ty.

Theo tính chất của các quyền và lợi ích mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông thì có 2 loại cổ
phiếu:
 Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, cổ tức biến động
tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy
cảm trên thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều
nhân tố khác như: môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo
quy luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào
tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến động lãi
suất trái phiếu Chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi suất
huy động tiền gửi của ngân hàng.
 Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ
lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá
của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình
tài chính của công ty.
b. Trái phiếu
Trái phiếu là loại chứng khoán xác định quyền và lơi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với phần vay của tổ chức phát hành. Với người mua trái phiếu là nguời cho vay
vốn, tổ chức phát hành trái phiếu là người vay vốn.
Căn cứ vào chủ thể phát hành trái phiếu có thể chia ra thành:
 Trái phiếu Chính phủ: do kho bạc nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn phát
triển kinh tế - xã hội và bù đắp thâm hụt NSNN. Không có rủi ro về thanh khoản và
phá sản.
 Trái phiếu chính quyền địa phương: do chính quyền địa phương phát hành nhằm
huy động vốn hỗ trợ ngân sách địa phương. Độ rủi ro thấp
 Trái phiếu công trình: gắn liền với công trình dự án đầu tư phát triển của kinh tế - xã
hội của Chinh phủ chính quyền địa phương. Chủ thể phát hành là Chính phủ trung
ương, chính quyền địa phương hoặc chủ dự án đầu tư. Độ rủi ro cao hơn hai loại
trên.
 Trái phiếu doanh nghiệp: do doanh nghiệp phát hành nhằm mục đích huy động vốn
vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Mức độ an toàn thấp nhưng có thu nhập cao hơn.
Ngoài ra còn có một số loại trái phiếu doanh nghiệp lưu hành phổ biến: trái phiếu có đảm
bảo, trái phiếu không có đảm bảo, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có thể mua lại.
c. Chứng chỉ quĩ đầu tư


Chứng chỉ quĩ đầu tư là loại tài sản tài chính do các quĩ đầu tuư phát hành để huy động
vốn thực hiện mục tiêu đầu tư tập thể để thu lợi nhuận.
Có 2 mô hình thành lập quĩ đầu tư:
 Qũy đầu tư dạng công ty có tư cách pháp nhân, có hội đồng quản trị - cơ quan quản
lý điều hành cao nhất được phép phát hành cổ phần ra công chúng để huy động vốn
đầu tư.
 Qũy đầu tư dạng hợp đồng do một công ty quản lý quỹ huy động đầu tư bằng cách
lấy tổng lượng vốn dự kiến để huy động chia nhỏ thành những phần bằng nhau và
phát hành chứng chỉ tương ứng với phần vốn đó và bán ra các đơn vị đầu tư.
d. Chứng khoán phái sinh
 Quyền mua cổ phiếu: là loại chứng khoán phát sinh từ cổ phiếu phổ thông, cho phép
các cổ đông của công ty cổ phần mua lượng cổ phiếu trong đợt phát hành mới,
tương ứng với mức tỷ lệ cổ phần hiện có của họ với mức giá thấp hơn bán ra công
chúng.
 Chứng quyền: alf loại chứng khoán cho phép người sở hữu nó mua một số lượng
chứng khoán xác định nào đó của tổ chức phát hành với mọt mức giá và thời gian
xác định
 Quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ quyền được mua được bán
một khối lượng cổ phiếu, trái phiếu,… ghi trong hợp đồng
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÁC CÔNG CỤ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TẠI VIỆT
NAM
2.1.

Thị trường tiền tệ


a. Tín phiếu kho bạc nhà nước
* Thực trạng:
Ngày 1/4/1990 ở Việt Nam mới hình thành kho bạc nhà nước. Khi đó chính phủ
giao cho kho bạc nhiệm vụ phát hành tín phiếu với thời gian 3 tháng. Nhưng ngân sách
vẫn mất cân đối, Chính phủ đã phải phát hành tiếp có đợt số thuế mới phục vụ cho trả nợ
là cũ chiếm tới 60-75%. Hiện tại tín phiếu kho bạc nhà nước Việt Nam vẫn là một công
cụ vay nợ ngắn hạn với chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân sách tạm thời. Với tình hình
chính trị ổn định ở Việt Nam cùng với các biện pháp trả nợ của chính phủ thì tín phiếu
kho bạc nhà nước đảm bảo độ an toàn cao, mức lãi suất phù hợp, thế nhưng những năm
1990, lãi suất kho bạc nhà nước lại lớn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng. Vì trong
thời gian đầu khi kho bạc nhà nước phát hành tín phiếu kho bạc, dân chúng chưa biết
nhiều, họ vẫn quen gửi tiết kiệm vì vậy để hấp dẫn dân chúng thì lãi suất tín phiếu kho


bạc tăng lên. Mặt khác, lúc đó nhu cầu vay của chính phủ lớn đẻ bù dắp thâm hụt ngân
sách. Hiện nay tín phiếu kho bạc có lãi suất nhỏ hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Nhìn chung những năm gần đây thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc có nhiều
mới mẻ, đặc biệt năm 1998 kho bạc nhà nước phối hợp với ngân hàng nhà nước tổ chức
được 46 phiên đấu thầu loại kỳ hạn 1 năm tăng 9 lần so với năm 1997. Năm 1998 là năm
khá sôi động, thành công cưa thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cho đến năm 2000
thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước đã hoạt động thường xuyên, góp phần
hoàn thiện thị trường tài chính ở nước ta. Đến tháng 10/2000 đã có 47 thành viên tham
gia thị trường. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các phiên chợ đấu thầu tín
phiếu kho bạc vẫn còn kém sôi động. Nhận diện các thành phần tham dự thầu hầu hết chỉ
là các ngân hàng thương mại quốc doanh và các công ty bảo hiểm, rất ít ngân hàng
thương mại cổ phần tham dự và không có ngân hàng liên doanh hay chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tham gia. Về lãi suất trúng thầu đã giảm từ6%/ năm trong phiên thứ
nhấtxuống còn 5.95%; 5.88%; 5.7% trong các phiên tiếp theo. Và từ 12/6/2000 đến nay
lãi suất trúng thầu chỉ dao động quanh mức 4.95 – 5.1%/ năm. Qua hoạt động của thị

trường này, cùng với thị trường mở mua bán tín phiếu kho bạc và thị trường chứng
khoán, nơi phát hành trái phiếu chính phủ…sẽ làm tăng tính linh hoạt chu chuyển vốn
trong nền kinh tế, góp phần cho ngân hàng nhà nước hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suât
cơ bản.
* Những tích cực trong việc phát hành tín phiếu kho bạc nhà nước và trong hoạt động
của thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước:
Với mức lãi suất thấp nhưng tín phiếu kho bạc nhà nước có độ an toàn gần như
tuyệt đối, mức rủi ro rất thấp. Có tính lỏng cao nhất trong số các công cụ nợ ngắn hạn. Do
đó dễ thu hút đầu tư của các nhà đầu tư vào tín phiếu kho bạc. Trong những năm gần đây
thị trường tín phiếu kho bạc hoạt động sôi động có hiệu quả giúp nhà nước tiết kiệm hàng
tỉ đồng từ khoản chênh lệch lãi suất giữa phát hành trực tiếp và qua đấu thầu, thị trường
này đã dần đi vào ổn định, nề nếp, tổ chức đấu thầu đã được duy trì khá tốt, tổ chức
1phieen đấu thầu trên 1 tuần
* Những tồn tại hạn chế trong thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc:
Các thành viên tham gia là còn hạn chế, kho bạc nhà nước, ngân hàng nhà nước
vẫn chưa tìm được phương thức hữu hiệu nhất thu hút vốn thích hợp để có thể tăng khối
lượng thành viên tham gia và trúng thầu lên cao hơn, trên cơ sở đó tăng khối lượng kho
bạc nhà nước đưa ra đấu thầu. Thị trường thứ cấp nơi diễn ra việc mua đi bán lại tín phiếu
kho bạc đã phát hành lần đầu qua đấu thầu là chưa hoạt động. Việc thanh toán lãi suất tín
phiếu kho bạc còn cứng nhắc chưa linh hoạt.
b. Các chứng chỉ tiền gửi


Ở Việt Nam hiện nay chưa có một thị trường thứ cấp phát triển nên mặc dù chứng
chỉ tiền gửi ngân hàng đã có nhưng chưa phát triển. Vì vậy biện pháp hữu hiệu nhất để
chứng chỉ tiền gửi ngân hàng phát triển được thì đòi hỏi không thể thiếu là phải có 1 thị
trường thứ cấp phát triển.
c. Thương phiếu
* Thực trạng:
Ở Việt Nam đã ra đời kì phiếu thương mại, phát triển theo luật lệ nhà nươc nhưng

chưa ở mức độ phổ biến rộng rãi. Để tạo môi trường cho sự tồn tại và phát triển của
thương phiếu trong diện hoạt ngân hàng còn sơ khai vốn tự có của nền sản suất thấp. Từ
năm 1995 việc soạn thảo pháp lệnh thương phiếu đã được đề cập đến nhưng phải đến
tháng 6/1999 dự thảo pháp lệnh thương phiếu mới được trình lên để Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội thông qua. Được kiến nghị định hướng dẫn chi tiết pháp luật thương phiếu được
bắt đầu soạn thảo từ tháng 1/2000 với sự phối hợp của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ
Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ. Bên cạnh kỳ phiếu thương
mại còn có hối phiếu, ngày nay vẫn đang tồn tại và được sử dụng trong quan hệ xuất nhập
khẩu.
Những tồn tại tích cực trong khi lưu hành thương phiếu : Là 1 phương tiện thanh
toán, thương phiếu có tác dụng không thể phủ nhận là thúc đẩy kinh doanh, mở rộng sản
xuất trong nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là khan hiếm tiền tệ. Hạn chế sự
lệch pha giữa nhu cầu và khả năng thanh toán, cũng như giảm sự hạn chế về khả năng
tiếp cận các nguồn tín dụng ngân hàng của các đơn vị kinh tế.
Đi cùng với sự ra đời, phát triển của thương phiếu là sự xuất hiện của và phát triển
của thị trường thứ cấp, thị trường chiết khấu của ngân hàng thương mại và thị trường tái
chiết khấu của ngân hàng nhà nước với các thương phiếu.
Thương phiếu giúp chủ sở hữu nó và các tác nhân trong nền kinh tế thực hiện
được muc tiêu lợi nhuận trong nền kinh tê thị trường. Họ đến với nhau và cùng thoả mãn
nhu cầu bằng cách giao dịch (mua - bán) thương phiếu trên thị trường cấp 2.
Thương phiếu có tác dụng tích cực với hệ thống ngân hàng,hạn chế bành chướng
tín dụng ngân hàng, bảo đảm khan hiếm tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế, góp phần thực
hiện cân đối tiền hàng trên thị trường thương phiếu. Ngân hàng sẽ có thêm 1 loại hình tài
sản để đa dạng hoá loại hình hoạt động sử dụng vốn và tăng cường điều tiết vốn khả
dụng. Giúp ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò điều tiết trong đièu kiện khan hiếm tiền
tệ...
d. Các kì phiếu ngân hàng
Ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước đã có thể phát hành kì phiếu ngân hàng và có
quy chế phát hành ngày 23/10/1999. Chúng thực chất là 1 công cụ vay nợ ngăn hạn của
ngân hàng thương mại để thu hút vốn phục vụ kinh doanh ngắn hạn của mình, vay mang



tính chất chủ động của ngân hàng thương mại. Có trường hợp ngân hàng trung ương phát
hành kì phiếu để thực thi chính sách tiện tệ quốc gia ( thu hồi lượng tiền trực tiếp từ ngân
hàng thương mại về). Hiện nay ở Việt Nam mệnh giá lớn tối thiểu là 100 triệu đồng/kì
phiếu ngân hàng. Chúng được mua bán trên cơ sở tự nguyện, trong trường hợp cần thiết
thì hệ thống ngân hàng nhà nước bắt buộc phát hành cho ngân hàng thương mại để điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2. Thị trường vốn
Với đặc thù là nền kinh tế mở, Việt Nam đang thúc đẩy nhiều mô hình tăng trưởng
dựa trên các lợi thế về lao động trẻ, sự ổn định về chính trị - xã hội, kinh tế vĩ vô, thể chế
pháp luật của Việt Nam không ngừng được cải thiện... hướng đến tạo điều kiện cho nhà
đầu tư, doanh nghiệp phát triển lâu dài. Việt Nam cũng là nền kinh tế năng động, hấp dẫn,
với mức tăng trưởng bình quân đạt 6.5%/năm trong những năm qua.
a. Thị trường chứng khoán
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, hiện nay, thị trường chứng khoán đã thực sự
trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế và có cơ cấu ngày càng
vững chắc, hoàn thiện. Các doanh nghiệp trong nước đang hướng tới nâng cao năng lực
quản trị, minh bạch tài chính với nhà đầu tư. Hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước thực
hiện cổ phần hóa mạnh mẽ cũng là cơ hội đầu tư lớn.
Do đó, thị trường vốn - thị trường chứng khoán ở Việt Nam đang có những dấu
hiệu đáng mừng, cho thấy sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường
này sẽ là nơi gặp gỡ của nhà đầu tư cần địa chỉ để đầu tư và doanh nghiệp cần vốn để
phát triển.Nền kinh tế Việt Nam đã và đang được khẩn trương cải thiện nhiều lĩnh vực để
phục vụ cho phát triển bền vững trong những năm gần đây và sẽ có nhiều bước đột phá
trong thời gian tới. Trong đó, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 6,7% năm 2017; cải
cách hệ thống tài chính-tiền tệ; kiên quyết thực thi chương trình cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước, coi việc phát triển kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong phát
triển kinh tế...
Nếu vào thời điểm 2006, tính cả hai Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE)

và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) chỉ có 192 doanh nghiệp niêm yết/đăng ký
giao dịch và có duy nhất một doanh nghiệp có giá trị vốn hóa trên 1 tỷ USD, thì đến nay
trên thị trường đã có trên 700 doanh nghiệp niêm yết, 640 doanh nghiệp đăng ký giao
dịch, trong đó có 23 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa trên 1 tỷ USD.
Dù có quy mô khiêm tốn khoảng 124 tỷ USD và xếp hạng ở thị trường cận biên,
nhưng thị trường vốn - thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là phát triển vượt
bậc và sức hấp dẫn ngày càng tăng. Hiện nay, hơn 1,867 triệu tài khoản giao dịch đã được
mở, trong đó có trên 21.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.


Tuy năm 2016, có sự rút vốn nhẹ của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường cổ
piếu, nhưng trong năm 2017, nhà đầu tư nước ngoài đã mua ròng khá nhiều trên chả thị
trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu. Tổng giá trị danh mục đầu tư gián tiếp của nhà
đầu tư nước ngoài đến tháng 10/2017 tăng 47.4% so với cuối năm 2016. Sau 17 năm hình
thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam được biết đến là một thị trường non
trẻ nhất, quy mô khiêm tốn nhất. Tuy nhiên, là một thị trường có tốc độ phát triển nhanh
nhất về quy mô và thanh khoản trong khu vực ASEAN và Đông Á. Quy mô của thị
trường cổ phiếu đã tăng 3 lần, năm 2006 đạt 22% GDP, năm 2010 là 44% GDP và thời
điểm hiện tại là hơn 63% GDP.
Bên cạnh những phát triển tích cực thì thị trường vốn - thị trường chứng khoán
Việt Nam còn hạn chế như quyền sở hữu của cổ đông nước ngoài, chuyển từ thị trường
cận biên sang thị trường mới nổi…nhưng đang có sự tăng trưởng.Nhìn chung, so với các
nước trong khu vực như Malaysia, Singapore, Thái lan, Philippines, thị trường vốn của
Việt Nam (với nền tảng dựa vào hệ thống ngân hàng) còn kém phát triển. Thị trường tín
dụng vẫn giữ vai trò "đầu tàu trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế.Điều này khiến tỷ
lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam luôn cao hơn khá nhiều so với phần lớn các nước
trong AEC.Các chuyên gia kinh tế cho rằng, những quốc gia có tỷ lệ tín dụng trên GDP
thấp sẽ được hưởng nhiều lợi ích hơn trong quá trình hội nhập tài chính. Đối với những
nước có tỷ lệ tăng tín dụng cao nhưng thiếu hệ thống giám sát thì có thể tác động tới tính
ổn định vĩ mô.

Đối với thị trường chứng khoán (TTCK), mặc dù quy mô vốn hóa của TTCK Việt
Nam tăng rất nhanh với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đến cuối tháng 5/2017 đã đạt
2.400 nghìn tỷ đồng, tương đương 53% GDP, nhưng vẫn chỉ được xếp hạng ở nhóm thị
trường cận biên hoặc thị trường mới nổi (tùy theo tiêu chí) chứ chưa vào được thị trường
phát triển. Điều này cũng là trở ngại cho việc thu hút dòng vốn đầu tư trung, dài hạn để
cung ứng cho nền kinh tế.
Thị trường trái phiếu (TTTP) của Việt Nam hiện còn khá khiêm tốn so với các
nước trong khu vực.Đến hết năm 2016, TTTP chiếm 22% GDP với tổng giá trị 44 tỷ
USD. Theo nghiên cứu của GS - TS. Nguyễn Thị Cành và cộng sự tại Trung tâm Nghiên
cứu kinh tế và tài chính - Trường Đại học Kinh tế Luật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh: Quy mô TTTP Việt Nam thấp nhất cả về giá trị tuyệt đối cũng như % GDP so
với các nước trong khu vực. Đáng lưu ý, TTTP của chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, giá
trị niêm yết của trái phiếu doanh nghiệp rất thấp.
b. Thị trường vốn tín dụng ngân hàng:
Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam
đã quan tâm đến việc tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói
riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chủ thể tham gia thị trường cũng được cải thiện


về năng lực tài chính, quy mô, quản trị rủi ro, để từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế
toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế và thị trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự bứt phá
mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã đưa Việt Nam lên nhóm các nước có
quy mô đầu tư xã hội trên GDP cao nhất thế giới.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng đầu tư xã hội sau 4 năm hội nhập
WTO đều ở mức cao; Đầu tư ngoài nhà nước cũng tăng mạnh; Xuất nhập khẩu liên tục
ghi nhận các kỷ lục mới; đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp vào
năm 2011. Những động thái này đã tạo cung vốn lớn cho nền kinh tế thông qua thị trường
vốn. Mặt khác, các chủ thể tham gia trên thị trường (ngân hàng thương mại, công ty
chứng khoán, doanh nghiệp, các quỹ đầu tư...) cần phải tăng quy mô hoạt động, cải thiện
tiềm lực tài chính, mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ trong kinh doanh để nâng cao

năng suất lao động.
Điều này đã tạo ra những cơ hội phát triển mới về phía cầu. Tuy nhiên, do thị
trường vốn Việt Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi kinh tế vĩ
mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ điều hành theo hướng thắt
chặt để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nên mặt bất lợi của chính sách thắt
chặt đã tác động tiêu cực đến thị trường vốn. Có thể thấy rõ sự biến động thất thường của
TTCK cũng như thị trường vốn tín dụng ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các
chủ thể tham gia thị trường, tình trạng sở hữu chéo giữa doanh nghiệp với ngân hàng,
giữa ngân hàng với công ty bảo hiểm, chứng khoán, giữa các ngân hàng với nhau…
Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn.Thị
trường cổ phiếu tuy đã được chú ý phát triển song song với tiến trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước (DNNN), nhưng quy mô thị trường cổ phiếu vẫn nhỏ. Mức độ vốn hóa
trên thị trường (của các công ty niêm yết) so với GDP đã được cải thiện và đạt 39%/GDP
vào năm 2010 nhưng lại giảm mạnh xuống còn 26% vào năm 2012 (cho dù TTCK Việt
Nam vẫn được đánh giá là một trong số các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế
giới). Vì thế, khi tín dụng cho nền kinh tế giảm, hệ số giữa tăng trưởng tín dụng và tăng
trưởng kinh tế giảm (năm 2010 là 4,8 lần, năm 2012 giảm còn 1,76 lần, 9 tháng năm
2013 chỉ còn 1,2 lần), điều này đã ảnh hưởng lớn đến công việc làm của người lao động.
Mặc dù là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho doanh nghiệp nhưng do khó khăn từ nền
kinh tế, khó khăn từ nội tại các doanh nghiệp và ngân hàng, những điểm nghẽn của nền
kinh tế (nợ xấu, hàng tồn kho) không được giải quyết rốt ráo, trong khi giá vốn rất cao
(lãi suất cho vay bình quân năm 2012 ở mức 13-15%/năm, năm 2013 ở mức 10
-12%/năm), quá sức chịu đựng cuả doanh nghiệp.
Tình trạng nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được vốn, trong khi hàng tồn kho
tăng cao (năm 2012 bình quân khoảng 28-30%; 9 tháng năm 2013 tăng bình quân 9,3%),
năng lực cạnh tranh thấp, kinh doanh thua lỗ (tính đến 30/9/2013, số DN kê khai lỗ chiếm


gần 66%)… dẫn đến nhiều doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, giải thể, kéo theo cầu
về vốn giảm mạnh, khiến tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ dừng lại ở con số 8,91% so

với mục tiêu được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra là 15-17%, 9 tháng đầu năm
2013 tăng 6,14% so với chỉ tiêu 12%/năm. Nợ xấu và tốc độ tăng nợ xấu. Điều này không
có nghĩa là chất lượng nợ tốt lên mà do hệ thống ngân hàng đã cơ cấu lại nợ, chiếm
khoảng 10% tổng dư nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý khoảng 3%, bán nợ xấu qua
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) khoảng 0,3%. Với
những giải pháp xử lý này, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã giảm xuống còn 4,64%.
PHẦN 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
3.1. Thị trường tiền tệ
Một là, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cần thiết cho sự phát triển của TTTT
Rà soát và sớm hoàn thiện các qui định hiện hành về phát hành các công cụ trên
TTTT sơ cấp như phát hành thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi,… của các NHTM, cần tiếp
tục chuẩn hoá để tạo điều kiện cho các công cụ này được giao dịch trên thị trường thứ
cấp. Ban hành đồng bộ văn bản hướng dẫn thực hiện các công cụ phái sinh, công cụ
phòng ngừa rủi ro theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi.
Tiếp tục bổ sung, sửa đổi các văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị
trường thứ cấp như quy định về việc mua bán giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng;
quy định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụngđối với khách hàng...
nhằm tăng tính thanh khoản của các công cụ trên TTTT, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động của các tổ chức tín dụng và các thành viên khác trên thị trường. Tiếp tục triển khai
việc hoàn thiện các văn bản pháp lý cho việc hình thành và phát triển các thành viên
chuyên nghiệp trên TTTT, nhất là các nhà tạo lập thị trường.
Hai là, phát triển và hoàn thiện cấu trúc TTTT Việt Nam
Cần nghiên cứu, xem xét nhằm xây dựng TTTT Việt Nam hoàn chỉnh trên cơ sở
các thị trường bộ phận như thị trường nội tệ, thị trường ngoại tệ, thị trường đấu thầu tín
phiếu kho bạc, OMO…, tạo sự thống nhất giữa các thị trường bộ phận của TTTT nhằm
đảm bảo lợi ích của các thành viên tham gia thị trường, từng bước tạo kênh truyền dẫn để
NHNN có thể kiểm soát và can thiệp chủ động thông qua điều tiết giá cả (lãi suất) trên
TTTT, từng bước làm cho TTTT trở thành thị trường thực sự năng động, mang tính cạnh
tranh cao và nhạy cảm trước những thay đổi về chính sách của NHNN.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động và kiểm soát TTTT, đặc

biệt là đưa ra các quy định chung nhất về tư cách thành viên trên TTTT, trong đó: (1)
NHNN tham gia trên cả TTTT sơ cấp và thứ cấp với tư cách vừa là người tổ chức, điều
hành, kiểm soát và chi phối TTTT thông qua các nghiệp vụ thị trường cũng như thực hiện


vai trò người cho vay cuối cùng (nếu cần) đểđạt được sự cân bằng thị trường và phù hợp
với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. (2) Thành lập hệ thống các đại lý cấp I trong đó
chủ trương lựa chọn 5-7 tổ chức tín dụng là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng phi ngân
hàng đáp ứng đầy đủ nhất các điều kiện do NHNN đặt ra làm đại lý cấp I. Các thành viên
trên thị trường phải đầy đủ và hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao
Ba là, phát triển hạ tầng và hoàn thiện quy tắc giao dịch của TTTT Việt Nam
Xây dựng hệ thống giao dịch tập trung dựa trên công nghệ tiên tiến và phương
thức giao dịch đa dạng (sử dụng một sàn giao dịch điện tử thống nhất) đảm bảo đáp ứng
được các yêu cầu khác nhau của thị trường, đồng thời xây dựng kế hoạch thành lập hệ
thống giao dịch hỗ trợ thông qua các tổ chức môi giới tiền tệ tại Việt Nam.
Cần xây dựng kế hoạch thành lập hệ thống môi giới tiền tệ tại Việt Nam, phối hợp
với các đơn vị liên quan nghiên cứu, thành lập các công ty xếp hạng tín nhiệm để giúp
cho việc định giá giấy tờ có giá được chính xác và hạn chế rủi ro hoạt động của các thành
viên thị trường.
Cần phát triển một hệ thống quản lý thông tin minh bạch và tin cậy giữa các thành
viên thị trường.
Bốn là, hình thành và phát triển các nhà tạo lập thị trường
Với một TTTT còn nhiều hạn chế như ở Việt Nam, tình trạng cung- cầu mất cân
đối xảy ra thường xuyên, vì vậy việc tạo dựng nhà tạo lập thị trường là cần thiết. Nhà tạo
lập thị trường phải có sự am hiểu về thị trường sẽ cung cấp, cập nhật các thông tin về
giao dịch, phải niêm yết giá chào 2 chiều (cả cho vay và ñi vay) trên TTTT liên ngân
hàng. Họ phải có khả năng về vốn tham gia hỗ trợ thanh khoản cho thị trường và đảm bảo
các giao dịch cạnh tranh bình đẳng trong giới đầu tư, cũng như tạo ra một giá cả cân bằng
ổn định cho thị trường. Vai trò này cần phải được trao cho các NHTM.
Năm là, mở rộng quy mô và chủng loại các hàng hoá giao dịch đồng thời tăng cường

thu hút các thành viên tham gia TTTT
Cần đưa ra nhiều sản phẩm, hàng hoá đa dạng, phong phú, có chất lượng cao phù
hợp với nhu cầu hoạt động của tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ. Chú trọng phát triển
đầy đủ các công cụ, sản phẩm quan trọng trên TTTT như repo, thương phiếu (CP), CDs
(chứng chỉ tiền gửi) có thể mua bán được trên thị trường thứ cấp, tạo hành lang pháp lý,
phát triển thị trường thứ cấp để các công cụ TTTT có thể phát triển, đáp ứng được nhu
cầu của thị trường. NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính phát hành các loại trái phiếu đa
dạng kỳ hạn để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn trái phiếu chính phủ làm cơ sở cho
các thành viên thị trường tham chiếu và thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư.


Mở rộng thêm các thành viên của thị trường liên ngân hàng: Bên cạnh đối tượng
là các NHTM như hiện nay thì cần bổ sung các thành viên là các định chế tài chính khác,
như Công ty bảo hiểm, Quỹđầu tư, Công ty chứng khoán, Công ty tài chính và đặc biệt là
Công môi giới, các Dealer trong nước cũng như việc nghiên cứu thành lập các tổ chức
định mức tín nhiệm tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy
tín của nước ngoài vào hoạt động.
Sáu là, hoàn thiện các nghiệp vụ NHTW tác động lên TTTT
Rà soát lại lại cơ chếđiều hành TTTT: Chiết khấu, tái cấp vốn và OMO để tăng
tính linh hoạt cho việc hình thành lãi suất thị trường, tính pháp lý của việc xác nhận giao
dịch, hợp đồng chuẩn áp dụng trong giao dịch cho vay, gửi tiền.
Xem xét, xây dựng quy chế và hướng dẫn cho việc đưa vào áp dụng các công cụ
phái sinh và đầu tư tài chính, đặc biệt là thị trường kỳ hạn tiền tệ (SWAP ngoại tệ) và kỳ
hạn lãi suất (REPO) nhằm nâng cao hiệu quả và độ sâu tài chính của thị trường.
Bảy là, NHNN cần nghiên cứu cách thức cung cấp thông tin cho thị trường
NHNN cần nghiên cứu cách thức cung cấp thông tin cho thị trường về lãi suất, dự
báo vốn khả dụng về TTTT, lượng tiền cung ứng, kế hoạch đấu thầu,…và xử lý thông tin
kịp thời, chính xác nhằm ổn định thị trường, tránh những tác động xấu do tác động tâm lý
không mong muốn của thị trường.
Tám là, tăng cường công tác quản lý điều hành, thanh tra, giám sát của NHNN đối

với TTTT
NHNN có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy TTTT phát triển bởi NHNN vừa
là người quản lý, vừa là thành viên tham gia thị trường. NHNN cần tiếp tục đổi mới cơ
chếđiều hành lãi suất. Cần chú trọng hơn đối với thông tin về quá trình di chuyển của các
luồng vốn, đặc biệt luồng vốn ngoại để có thể phục vụ công tác dự báo, điều chỉnh tỷ giá
thích hợp và định hướng hoạt động thị trường. Tăng cường công tác quản lý, dự báo vốn
khả dụng của hệ thống NHTM, có thể cập nhật nhanh chóng báo cáo thống kê trong từng
thời kỳ, từ đó NHNN chủđộng can thiệp điều tiết kịp thời vào thị trường nhằm đạt mục
tiêu chính sách tín dụng.
Đẩy mạnh hoạt động của Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia, NHNN, Bộ Tài
chính,... trong việc giám sát TTTT thông qua các biện pháp can thiệp hành chính phù hợp
với sự phát triển của thị trường. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng trong việc thực
hiện chức năng giám sát tính tự tuân thủ của các thành viên thị trường.
Chín là, tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng có năng
lực và trình độ chuyên sâu


Các nghiệp vụ của TTTT là rất mới mẻđối với công chúng và cả các ngân hàng, vì
vậy, các ngân hàng cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo để
khách hàng biết được những tiện ích mang lại khi họ tham gia các nghiệp vụ này. Đối với
các ngân hàng, việc đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ có trình độ kinh doanh, giao dịch tiền
tệđể thực hiện kinh doanh trên TTTT trong nước và quốc tế là hết sức quan trọng, đảm
bảo hoạt động hiệu quả và thành công của ngân hàng trên TTTT. Đồng thời tăng cường
đào tạo về kinh tế vĩ mô và kinh tế lượng, nâng cao trình độ phân tích, dự báo cho cán bộ
ngân hàng; đổi mới công tác phân tích, dự báo tiền tệ theo hướng áp dụng mô hình kinh
tế lượng để có các giải pháp điều hành chính sách tài chính một cách chủđộng, hiệu quả.
3.2 Thị trường vốn.
Thứ nhất, kiện toàn thể chế thị trường vốn:
Về khung pháp lý, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống khung pháp lý điều tiết thị
trường. Trên cơ sở tham chiếu thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để có

sự điều chỉnh phù hợp, phát triển các thể chế còn đang khuyết, nhằm đảm bảo tính đồng
bộ của khung pháp lý, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường chủ động hoạt
động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, song vẫn đảm bảo các yêu cầu thận trọng,
an toàn đối với khu vực tài chính, với vấn đề ổn định vĩ mô và hỗ trợ phát triển kinh tế.
Hoàn thiện chế tài xử phạt khi có vi phạm, gắn kết được lợi ích với rủi ro ở mức
nhất định. Đẩy mạnh việc hợp tác, tư vấn, nghiên cứu để hoàn thiện môi trường pháp lý
cho thị trường nói chung và dịch vụ nói riêng như dịch vụ uỷ thác, giao dịch các công cụ
phái sinh... thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn theo chiều sâu trên cơ sở đa dạng
hóa sự tham gia của các các định chế tài chính trong và ngoài nước.
Rà soát mô hình tổ chức kinh doanh vốn, chứng khoán, các tổ chức tự quản, các
quỹ đầu tư; Sửa đổi Luật Chứng Khoán, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo
hiểm, xây dựng Luật Kiểm toán độc lập cũng như các quy định về chào bán, niêm yết,
giao dịch, quản lý các giao dịch vốn... cho phù hợp với với lộ trình WTO cũng như tham
gia Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) về lĩnh vực ngân
hàng – chứng khoán.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tái cấu trúc thị trường vốn gắn với quá trình tái cấu trúc
nền kinh tế:
Cơ cấu lại TTCK đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị trường cổ phiếu,
trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh, từng bước nâng cao vai trò của TTCK trong
huy động vốn cho đầu tư phát triển. Phát triển về quy mô và hiệu quả hoạt động của thị
trường trái phiếu (chính phủ, địa phương và DN), hoàn thiện phương thức phát hành, xây
dựng cơ chế khuyến khích các DN thuộc các thành phần kinh tế huy động vốn qua
TTCK.


Tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng nguồn cung thông qua
việc đẩy mạnh phát hành mới, sử dụng các công cụ phái sinh để hoàn thiện cấu trúc thị
trường. Xây dựng cơ chế công bố thông tin theo chuẩn mực quốc tế, áp dụng các chuẩn
mực quản trị công ty, quản trị rủi ro, chuẩn hóa các quy định về giao dịch, mua bán, đăng
ký, thanh toán theo thông lệ quốc tế.

Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc DN gắn với cổ phần hóa DNNN, DN có vốn đầu
tư nước ngoài, nhằm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho thị trường. Đa dạng hóa
các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
tham gia thị trường và đầu tư lâu dài vào TTCK Việt Nam.
Đối với thị trường vốn tín dụng ngân hàng, cần rà soát các cơ chế chính sách, tạo
môi trường cho các tổ chức tín dụng hoạt động. Cụ thể: Sửa đổi, bổ sung Luật Pháp sao
cho phù hợp với lộ trình hội nhập; Nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực về phân loại nợ
và trích dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; Rà soát vốn thực có của các ngân hàng
thương mại để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II,
tiến tới Basel III... VD: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%, thời gian thực hiện kéo dài
trong 3 năm, trong đó mỗi năm các ngân hàng phải tăng tối thiểu 1/3 số tỷ lệ còn thiếu.
Basel II không chỉ chú trọng tới rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động mà còn
tập trung cả về hệ thống kiểm soát nội bộ và giám sát của các ngân hàng, các nguyên tắc
thị trường và cung cấp thông tin.
Những văn bản này phải được điều chỉnh phù hợp với lộ trình cam kết quốc tế về
lĩnh vực ngân hàng và phải tương đối ổn định để các tổ chức tín dụng chủ động và tiên
liệu được những rủi ro nảy sinh khi thay đổi chính sách
Mặt khác, thông qua vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết, khắc phục những
khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt
động theo luật, không bao cấp cho ngân hàng (cả ngân hàng thương mại (NHTM) nhà
nước và NHTM cổ phần), nhưng cũng không nên tạo ra những rủi ro bằng cơ chế chính
sách hay các mệnh lệnh hành chính; kết hợp giữa giám sát tuân thủ và giám sát theo rủi
ro, có chế tài đủ mạnh để bảo đảm cho các ngân hàng tham gia thị trường tuân thủ “luật
chơi” đã quy định.
Thứ ba, tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường vốn:
Tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán để có tiềm lực tài chính mạnh,
uy tín, trình độ nghiệp vụ cao, quản trị hiện đại, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh
khoản và tính an toàn hệ thống, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu
vực; Tiếp tục phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của các Hiệp hội nghề
nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và thị trường vốn.

Về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Đối với các NHTM cổ phần yếu kém, sau khi
tái cấu trúc phải có sự chuyển biến mới về chất (vốn, trình độ quản trị, công nghệ thông


tin, mức độ an toàn vốn, tính minh bạch). Đối với các NHTM nhà nước, tiếp tục giảm tỷ
trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý, nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư nước
ngoài tại mỗi ngân hàng tùy theo quy mô và phạm vi hoạt động của từng ngân hàng;
Giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ngân hàng, buộc các ngân hàng phải
minh bạch trong kinh doanh.
Hiện nay, để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, trước hết và cần thiết phải giải
quyết triệt để nợ xấu. Mặc dù ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp, song đa
phần các giải pháp này có tính chất ngắn hạn, vì thế nếu thiếu sự vào cuộc của các bộ
ngành thì nền kinh tế vẫn khó khăn, do nợ xấu không được xử lý dứt điểm.
Một vấn đề khác, đó là sở hữu chéo giữa DN và ngân hàng, giữa ngân hàng với
công ty chứng khoán, cần có lộ trình và biện pháp cứng rắn để xử lý sở hữu chéo trong
việc thực hiện tái cấu trúc đi đôi với hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hoạt
động ngân hàng, hạn chế và đi tới chấm dứt lợi ích nhóm tháo túng trên thị trường vốn tín
dụng ngân hàng… để giúp khơi thông tín dụng cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cần hình thành và phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và cung
cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm cho thị trường vốn. Sự phát triển của thị trường vốn khiến
cả cơ hội đầu tư và rủi ro đầu tư đều tăng lên. Nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn hơn
nhằm thu lợi cao hơn từ khoản đầu tư này, song rủi ro trong đầu tư cũng tăng lên vì họ
không hiểu hết những chủ thể sử dụng vốn của mình.
Do đó, để biết được mức độ rủi ro của mỗi khoản đầu tư, cần có hoạt động xếp
hạng tín nhiệm mức độ rủi ro của các khoản đầu tư (chủ yếu là các khoản vay nợ) trên thị
trường vốn. Những thông tin về chỉ số tín nhiệm của các DN, các ngành trong nền kinh tế
sẽ giúp các nhà đầu tư có định hướng tốt hơn mỗi khi ra quyết định đầu tư.
Thứ tư, về công khai thông tin trên thị trường:
Để có một thị trường vốn hiệu quả, thì một trong những yếu tố quan trọng hàng
đầu là xây dựng cơ chế công khai thông tin.Trên thị trường vốn, mọi hoạt động đều được

thể chế hóa bằng các quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ về thị trường nhằm tạo ra
một thị trường trung thực, trật tự và có hiệu quả, đồng thời, tạo ra một sân chơi bình đẳng
cho các nhà đầu tư, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
Thị trường vốn phát triển, đòi hỏi phải quan tâm đến tính minh bạch của thị
trường, tạo dựng được lòng tin để thu hút những chủ thể cung cấp vốn và những chủ thể
có nhu cầu sử dụng vốn tham gia thị trường, làm cho thị trường có thể phát huy tối đa vai
trò của nó.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả kiểm soát vốn:
Để đạt được những mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững, Việt Nam cần có một
lượng lớn vốn đầu tư tăng thêm mỗi năm. Tuy nhiên, khi dòng vốn vào không được kiểm


soát, sử dụng không hiệu quả, thì bất ổn tài chính sẽ nảy sinh. Vì vậy, cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các chính sách để đối phó với dòng chảy vốn trong giai đoạn đầu hội
nhập.
Kinh nghiệm của một số nước trong việc kết hợp các chính sách để đối phó với
dòng chảy vốn, thường là công khai các biện pháp kiểm soát vốn và lộ trình thay đổi nếu
có để các nhà đầu tư nắm bắt và có phản ứng thích hợp. Kiểm soát vốn một khi được kết
hợp với những chính sách khác sẽ làm thay đổi cấu trúc của dòng vốn chảy vào theo
hướng khuyến khích các dòng vốn đầu tư dài hạn, hạn chế dòng tiền nóng mang tính đầu
cơ ngắn hạn, từ đó giảm thiểu được rủi ro “đảo ngược dòng vốn” gây khủng hoảng.

KẾT LUẬN
Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, vấn đề xây
dựng một hị trường tài chính vững mạnh, ổn định và phát triển cần phải được tổ chức và
có những bước đi thích hợp. Các công cụ của thị trường tài chính ngày càng phát triển
với tốc độ rất nhanh, thị trường chứng khoán ngày càng sôi động, vì vậy không chỉ các tổ
chức kinh tế lớn như ngân hàng, các tổ chức tín dụng,… mà còn người dân Việt Nam
cũng cần có những hiểu biết về thị trường tài chính, đặc biệt là về chứng khoán. Chỉ có

hiểu biết về các công cụ tài chính nà mới có thể khiến đất nước ta không ngày càng bị tụt
hậu so với các nước khác trên thế giới.



×