Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận triết học “triết lý giải thoát của phật giáo trong triết học ấn độ cổ đại và ảnh hưởng của tư tưởng này đến sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.43 KB, 14 trang )

Tiểu luận triết học

Đặt vấn đề
Hàng ngàn năm qua ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, tư tưởng Phật
giáo được du nhập và ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần, đạo đức của
nhân dân nhất là triết lý giải thoát của Phật giáo. Vì vậy việc nghiên cứu những đặc
điểm, đặc trưng của tư tưởng triết học Ấn Độ trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa của nó, góp phần vào việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn
hoá dân tộc, để xây dựng, phát triển đất nước hiện đại, văn minh, trong sự giao lưu
văn hoá sâu rộng và đa dạng hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết và cấp
bách. Hơn nữa như chúng ta đã biết, văn hoá Việt Nam phát triển trên cơ sở chắt
lọc, kế thừa văn hoá của người Việt cổ và những luồng văn hoá lớn của nhân loại
mà tiêu biểu nhất là triết lý đạo đức nhân sinh của Phật giáo. Có thể nói, văn hoá
Ấn Độ đã góp phần tạo nên văn hoá Việt Nam truyền thống. Bởi vậy, nghiên cứu
những đặc điểm của triết học Ấn Độ sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về đất nước và con
người Ấn Độ . Do tính chất và nội dung triết lý độc đáo với ý nghĩa nhân bản sâu
sắc, tư tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn Độ đã được nhiều nhà nghiên
cứu cả phương Đông và phương Tây quan tâm. Hơn một thế kỷ nay, người ta đã
thu được nhiều thành công lớn.
Ở Việt Nam, một nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết lý Phật giáo và một
phần của triết lý Ấn Độ, đã có sự nghiên cứu sâu rộng về triết học Phật giáo nói
riêng cũng như tư tưởng giải thoát trong triết lý Ấn Độ nói chung.
Xuất phát từ sự ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát đến đời sống văn hoá và
tinh thần của người Việt Nam xưa đến nay, và cũng từ việc tham khảo các tài liệu
liên quan, tôi xin trình bày một phần nội dung và ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát
trong triết học Phật giáo qua đề tài “Triết lý giải thoát của Phật giáo trong triết
học Ấn Độ cổ đại và ảnh hưởng của tư tưởng này đến sự nghiệp giáo dục ở
nước ta hiện nay”.

Học viên: Trần Lê Vinh


Trang 1


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT, VẤN ĐỀ TRUNG
TÂM CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ NÓI CHUNG VÀ TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO NÓI RIÊNG.
1.1.Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ
nói chung và đạo Phật nói riêng
Trên nền tảng của một nền văn minh rực rỡ và cổ xưa, triết học Ấn Độ đã nảy
sinh và phát triển. Từ những quan niệm mang tính chất thần thoại, tôn giáo, người
Ấn Độ cổ đã sáng tạo nên những tư tưởng triết học dựa trên lý trí nhằm giải thích
nguồn gốc của vũ trụ và vạn vật, triết lý về bản chất và ý nghĩa của đời sống con
người với những học thuyết triết học, tôn giáo đa dạng và sâu sắc.
Sự hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ có thể chia làm 2 thời kỳ: ở
thời kỳ veda-Sử thi, xuất hiện các quốc gia chiếm hữu nô lệ của người Aryan trên
lưư vực sông Hằng. Trong thời kỳ này, do trình độ sản xuất và nhận thức còn thấp
kém, người Ấn Độ chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi sự chi phối của các lực lượng
siêu nhiên, nên trong đời sống họ luôn sùng bái các hiện tượng thiên nhiên đầy bí
ẩn và mạnh mẽ. Nên về phương diện tư tưởng, thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng
tôn giáo mang tính đa thần. Về sau cùng với sự phát triển của thực tiến đời sống và
trình độ nhận thức, người Ấn Độ đã dần dần nhận thấy giữa các sự vật, hiện tượng
phong phú và đa dạng của thế giới luôn có liên hệ và thống nhất và đằng sau nó có
sự chi phối của một lực lượng mạnh mẽ vô hình, do đó quan niệm về các vị thần
tượng trưng cho các hiện tượng ở thời kỳ đầu đã dần mờ nhạt, thay vào đó là tư
tưởng về nguyên lý đấng tối cao sáng tạo và chi phối vũ trụ vạn vật. Người Ấn Độ
đã bắt đầu ý thức sự tồn tại. Họ suy nghĩ về cuộc đời, số phận và đi tìm lẽ sống cho
mình. Tiếp theo thời kỳ Veda là thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Phật giáo, Balamon
giáo. Ở thời kỳ này, các trào lưu triết học đều bắt nguồn từ tư tưởng truyền thống

Veda và chịu ảnh hưởng của triết lý Balamon. Nhưng cũng chính thời kỳ này đã
xuất hiện những học thuyết mới chống lại tư tưởng truyền thống và giáo lý của đạo
Balamon đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội tiêu biểu là Phật giáo mặc dù tư
tưởng truyền thống Balamon vẫn chi phối đời sống tinh thần xã hội và đóng vai trò
như bối cảnh chung cho sự hình thành các trào lưu triết học đương thời, nhưng do
sự biến đổi trong đời sống xã hội nên đã phát sinh ra những học thuyết mới đầy sức
sống dám đương đầu với những tư tưởng có tính kinh niên. Các trường phái triết
Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 2


Tiểu luận triết học
học có tính thế giới quan và chủ trương tín ngưỡng khác nhau lần lượt xuất hiện,
đặc biệt là tư tưởng triết lý, đạo đức nhân sinh mang tính nhân bản sâu sắc của Phật
giáo và các môn phái triết học duy vật. Dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng triết lý
Veda và giáo lý đạo Balamon các trường phái triết học thời kỳ này tuy có nhiều xu
hướng nhưng nhìn chung có thể chia thành 2 hệ thống lớn: hệ thống triết học chính
thống thừa nhận uy thế của kinh Veda và giáo lý đạo Balamon, bảo vệ cho chế độ
phân biệt đẳng cấp và xã hội gồm 6 trường phái triết học là Sankuya, Nyaya,
Vaiseika, Yaga, Mimansa và Vankeda. Đối lập 6 trường phái triết học trên là hệ
thống triết học không chính thống, không thừa nhận quyền uy tối cao của kinh
Veda, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội gồm Phật giáo, đạo Jaina và các
môn phái “Lục sư ngoại đạo” nổi bật là phái Lokayata.
1.2. Tư tưởng giải thoát, một trong những đặc điểm nổi bật của triết học
Ấn Độ cổ nói chung và Phật giáo nói riêng.
1.2.1. Khái niệm giải thoát
Để nói giải căn nguyên của tư tưởng triết lý giải thoát trong triết học và tôn
giáo Ấn Độ, chúng ta hãy tìm hiểu những quan niệm khác nhau về sự giải thoát.
“Giải thoát’ tiếng Phạn là “Mouskha, mukti” được giải nghĩa như sau: “ giải”

nghĩa ra cởi ra, mở ra hay giải thích cho rõ, còn chữ “ thoát” nghĩa là vượt ra khỏi
sự trói buộc, vượt khỏi ràng buộc.
Trong triết lý Phật giáo , “ giải thoát” tức là trạng thái đời sống tinh thần con
người vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế giới nhục dục, là sự “diệt” hết mọi dục
vọng hay dập tắt ngọn lửa dục vọng và đạt tới cảnh trí Niết bàn với cái tâm tuyệt
đối thanh tịnh, tự do tự tại bằng con đường tu luyện đạo đức, giữ nguyên giới luật
và tu luyện tri thức, thực nghiệm tâm linh để đạt tới giác ngộ theo tam học (Giới,
Định ,Tuệ).
Vậy có thể nói giải thoát là một phạm trù triết học chỉ trạng thái đời sống tinh
thần, đạo đức, tâm lý của con người thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới sự
vật, hiện tượng hữu hình, hữu hạn đạt tới sự giác ngộ, nhận ra chân bản của mình
và thực tướng của vạn vật, diệt mọi dục vọng, thoát khỏi sự chi phối của nghiệp
báo luân hồi, hoà nhập vào bản thể tối cao ( Niết bàn, cõi Phật…) tức là tự do, tự
làm chủ mình, không còn xáo động, ham muốn, lo lắng khi đã nắm chắc nhân bản
của mình và thực tướng của sự vật.
1.2.2.Nguồn gốc của tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ nói chung.

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 3


Tiểu luận triết học
Tại sao vấn đề giải thoát lại là vấn đề trung tâm của triết học Ấn Độ ? Để trả
lời cho câu hỏi trên, hầu hết các trường phái triết học kể cả chính thống hay không
chính thống (trừ trường phái triết học duy vật Lokayata) đều cho rằng xuất phát
điểm của tư tưởng giải thoát trong triết lý, tôn giáo Ấn Độ là từ nỗi khổ của cuộc
đời con người và điểm đạt tới sự giải thoát là dập tắt hay diệt hết mọi dục vọng, trở
về với chân bản tính của mình. Chính vì thế, trong bốn chân lý lớn của triết học
Phật giáo “ Tứ diệu đế” đức Phật đã coi khổ đế là chân lý lớn đầu tiên.

Như thế, nỗi khổ của cuộc đời thôi thúc con người vươn lên một cõi hạnh
phúc, lý tưởng, tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở chỗ xuất phát điểm của tư tưởng giải
thoát là từ nỗi khổ của con người thì ta có thể tiếp tục câu hỏi “Nỗi khổ của cuộc
đời – cái đã thôi thúc con người ta vươn tới khát vọng và ý hướng giải thoát là bắt
nguồn từ đâu?”.
Để trả lời câu hỏi đó các trường phái triết học cho rằng sở dĩ con người mắc
vào sự trói buộc của nỗi khổ là do con người mê lầm, không nhận ra chân bản của
mình và vạn vật vì con người không nhận thức được mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới này là vô thường, vô ngã luôn trong trạng thái biến chuyển không ngừng nên
luôn nghĩ rằng cái gì cũng là của ta, do ta. Do đó, nảy sinh những luyến ái, dục
vọng thúc đẩy ta hành động theo đuổi vật chất, danh vọng, tiền tài vốn là cái hư ảo,
tạo nên những nghiệp báo. Tóm lại, nguồn gốc của nỗi khổ đều được các trường
phái triết học quy về sự nhận thức hay trong lĩnh vực đời sống tinh thần, tâm lí,
đạo dức…
Nhưng thực ra nỗi khổ của cuộc đời và khát vọng vươn lên giải thoát con
người khỏi nỗi khổ là bắt nguồn từ đời sống của xã hội Ấn Độ cổ đại. Suy cho
cùng nó chính là sự phản ánh những đặc điểm của tính chất sinh hoạt xã hội và
những mâu thuẫn, xu thế, yêu cầu tất yếu của đời sống xã hội Ấn Độ đương thời.
Vậy điều kiện sống ở Ấn Độ đã chi phối quá trình nảy sinh và phát triển của tư
tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn Độ như thế nào? Nói một cách khái
quát, Ấn Độ là một đất nước có điều kiện địa lý và điều kiện tự nhiên phong phú,
nhưng cũng rất phức tạp, đó cũng là nơi nảy sinh ra nhiều câu chuyện thần thoại
truyền thuyết, những tín ngưỡng tôn giáo và triết lí đặc sắc với lối tư duy trừu
tượng để người Ấn Độ cổ gởi vào đó những ước mơ và lẽ sống, đi vào sâu đời
sống tâm linh con người.
Tóm lại, thiên nhiên bao la, hùng vĩ và đầy uy lực của Ấn Độ vốn là cái nôi
của con người từ thủa khai sơ nhưng cũng thường gây ra cho cuộc sống của con
Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 4



Tiểu luận triết học
người biết bao những bất trắc và hiểm họa đã khiến người Ấn Độ luôn mơ ước
vươn tới viễn cảnh của cuộc sống an lành, tốt đẹp, vĩnh hằng, một cuộc sống với sự
phù trợ của các đấng thần tiên, mà ở đó sự sống sẽ tiếp tục, sống mà không có
chết , không có thiên tai, dịch bệnh, thú dữ và bất công đe doạ. Đó chính là khát
vọng giải thoát của người Ấn Độ cổ xưa. Nhưng tư tưởng giải thoát trong triết học,
tôn giáo Ấn Độ cổ không chỉ nảy sinh và mang đậm dấu ấn của đặc điểm điều kiện
tự nhiên, mà nó còn bắt nguồn từ tính chất gia trưởng bị kìm hãm bởi tính chất
kiên cố của của tổ chức công xã nông thôn và chế độ phân biệt chủng tộc, màu da,
đẳng cấp xã hội hết sức nghiệt ngã ở Ấn Độ cổ đại.
Chế độ phân biệt đẳng cấp: có 4 đẳng cấp chính của xã hội Ấn Độ cổ đại.
-Đứng đầu là đẳng cấp Brahamana (tức những tăng lữ, tu sĩ Bàlamon)
-Thứ hai là đẳng cấp Kshatriya (là những vương công, võ sĩ, tướng lĩnh).
-Thứ ba là đẳng cấpVaishya (gồm đa số những người dân Aryan, thương nhân
và điền chủ).
-Thứ tư là đẳng cấp Shudra (gồm những tầng lớp tiện dân và nô lệ).

CHƯƠNG II: NỘI DUNG TRIẾT LÝ GIẢI THOÁT CỦA
PHẬT GIÁO
2.1.Tư tưởng giải thoát trong thời kỳ Veda
Trong thời kỳ Veda, tư tưởng giải thoát bắt đầu manh nha từ Rig -Veda nhưng
chỉ thực sự biểu hiện rõ nét ở giai đoạn cuối của Veda.Vào thời đại đó do trình độ
sản xuất còn thấp kém, đời sống còn lạc hậu, người Ấn Độ cổ tính tình còn thuần
phác, họ chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi tự nhiên ,về mặt ý thức họ chưa cảm
thấy những mâu thuẫn cũng như những đau khổ của cuộc đời. Họ chưa bộc lộ
những tư tưởng bi quan yếm thế để tố cáo những khổ đau của cõi thế gian này.
Trong cuộc sống họ chủ yếu đối phó với sự đe dọa của những lực lượng tự nhiên
đầy ma lực để sinh tồn. Một mặt họ phải dựa vào tự nhiên để tồn tại và bị những

quy luật của thế giới chi phối. Nhưng mặt khác họ lại muốn thoát ra khỏi sự ràng
buộc của các quy luật tự nhiên, để vươn lên tự khẳng định mình trước giới tự nhiên
kỳ vĩ và khắc nghiệt ấy. Cuộc sống đầy mâu thuẫn là nguồn gốc gây nên những nỗi
lo âu , khổ não của dân Ấn Độ. Vì thế ở thời kỳ này, họ buộc phải đi tìm sự an lành
của cuộc đời nhờ vào phù hộ của các lực lượng thiên nhiên đã được họ nhân hình
hóa và thần thánh hóa, chủ yếu bằng lòng sùng bái và sự thờ phụng, cầu nguyện
các đấng thần linh đại diện cho các thế lực mạnh mẽ của tự nhiên.
Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 5


Tiểu luận triết học

2.2.Tư tưởng giải thoát trong thời kỳ cổ điển hay thời kỳ phật giáo
và Balamon
2.2.1.Tư tưởng giải thoát trong sáu trường phái triết học chính thống.
Trong hệ thống triết học chính thống có sáu trường phái chính là Samkhya
Yoga,Vaisesika, Nyana, Mimansa và Védanta. Tuy các trường phái này có những
điểm chung như thừa nhận uy thế mặc khải của Veda và tư tưởng giải thoát của
Upanishad, nhưng mỗi trường phái đó lại có những quan điểm và phương pháp giải
thoát khác nhau. Có những trường phái chủ trương giải thoát bằng nghi thức tế tự,
nhưng có trường phái lại chú trọng cách thức giải thoát bằng con đường tu luyện trí
tuệ “thực nghiệm tâm linh”, có trường phái đề cao sự tu luyện hành động đạo đức
với tinh thần, bổn phận xã hội và tôn giáo một cách vô tư theo đúng đạo pháp mà
không cần quan tâm đến kết quả, có trường phái nhẫn mạnh sự rèn luyện về thể
xác, tinh thần nhằm diệt mọi dục vọng, đạt tới sự thanh khiết của tinh thaàn hay
linh hoàn.
2.2.2. Tư tưởng giải thoát trong các trường phái triết học và tôn giáo
không chính thống

a. Trường phái triết học Jaina
Trường phái này cho rằng nhiệm vụ chính của nó là chỉ ra con đường và
phương tiện để giải phóng linh hồn bất tử khỏi những ràng buộc của thể xác và thế
giới nhục dục. Nhưng họ lại phủ nhận sự sáng tạo ra thế giới của thần linh hay của
một lực lượng tinh thần tối cao, tuyệt đối như Brahman hay Phạm thiên nào đó.
Chính vì thế trường phái Jaina được xếp vào hệ thống triết học không chính thống.
b. Trường phái triết học Lokayata
Trên cơ sở thế giới quan triệt để duy vật và vô thần môn phái triết học
Lokayata lại đề xuất một quan điểm sống một triết lý sống độc đáo chủ trương
chấp nhận cuộc sống hiện thực với tất cả những quan hệ xã hội phức tạp có niềm
vui và những nỗi cay đắng của nó. Đó là khuynh hướng hoàn toàn đối lập với quan
điểm của các trường phái triết học tôn giáo đương thời. Nó không thừa nhận
Thượng đế thần linh hay Tinh thần vũ trụ tối cao sáng tạo chi phối thế giới. Nó đã
phá quan điểm về cái gọi là nghiệp báo luân hồi và sự giải thoát cuối cùng về thế
giới bên kia nào đó mà các trường phái triết học tôn giáo Ấn Độ thời đó chưa ra.
Đồng thời nó cũng phê phán kịch liệt chủ trương phương pháp tu luyện khổ hạnh,
ép xác để cầu tới sự giải thoát của trường phái triết học Jaina.

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 6


Tiểu luận triết học
c.Phật giáo
Đỉnh cao của tư tưỏng giải thoát trong triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại là triết
lý giải thoát của Phật giáo. Nó đã thừa kế, chắt lọc , dung hợp và hoàn thiện những
mặt mạnh và cả mặt yếu của tất cả những quan điểm, phương pháp, chủ trương giải
thoát của các trường phái triết học,tôn giáo đương thời, để cố gắng vượt lên những
tư tưởng của các trường phái đó.

Người sáng lập ra Phật giáo là Thích Ca Mo Ni, có tên thật là Siddhattha là
con đầu vua Tịnh phạn, dòng họ có kinh đô là thành Kapilavatha ở phía bắc Ấn
Độ, sinh năm 563 mất năm 483 trước công nguyên. Năm 29 tuổi ông từ bỏ cuộc
đời vương giả để đi tu tìm con đường cứu độ chúng sinh. Sau 6 năm tu luyện ông
đã ngộ đạo và tìm ra con đường giải thoát con người khỏi những nỗi khổ đè nặng
trong đời sống Ấn Độ cổ đại.
Tư tưởng triết lí Phật giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết thành
văn, thể hiện trong một khối lượng rất lớn gợi là “ Tam tạng” gồm ba bộ phận:
1. Tạng kinh ghi những lời Phật dạy về đạo pháp;
2. Tạng luật gồm các giới luật của đạo Phật;
3.Tạng luận gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp
của các cao tăng học giả về sau này.
Trái với quan điểm của các thánh kinh veda, Upanishad và các môn phái triết
học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể thiên nhiên tối cao, sáng tạo
và chi phối vũ trụ (Brahman), đạo Phật cho rằng vũ trụ này là vô thuỷ vô chung,
vạn vật trong thế giới này chỉ là dòng biến hoá vô tthường, vô định, không do vị
thần nào sáng tạo nên cả. Sở dĩ tất cả các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ (Vạn
pháp) luôn biến đổi không ngừng theo quá trình sinh, trụ, dị, diệt hay thành, trụ,
hoại, không là vì vũ trụ từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn đều không thoát
khỏi sự chi phối của luật nhân quả, hay còn gọi là “ nhân duyên sinh”. Ngay chính
bản thân con người cũng là do nhân duyên kết hợp mà thành. như thế theo nhân
duyên sinh mà vạn vật chúng sinh biến hoá vụt mất vụt còn không có một hình
thức nào tồn tại riêng lẻ và vĩnh viễn. Nhưng do không thấy được nguồn gốc của
sự biến đổi của vạn vật và chúng sinh là do nhân duyên, nên con người ta lầm
tưởng rằng ta tồn tại mãi mãi cái gì cũng là của ta, do ta. Vì thế con người cứ khát
ái tham dục dẫn đến hành động chiếm đoạt thảo mãn những dục vọng của mình tạo
ra những nghiệp báo. Bằng học thuyết tứ diệu đế và thập nhị nhân duyên và bát
chính đạo, Phật giáo đã chỉ ra căn nguyên biến đổi không ngừng của vũ trụ tìm ra
Học viên: Trần Lê Vinh


Trang 7


Tiểu luận triết học
nguồn gốc nỗi khổ của cuộc đời con người, từ đó vạch ra con đường cách thức để
giải thoát chúng sinh ra khỏi nghiêp báo luân hồi và nỗi khổ cuộc đời. Chính là đây
đã thể hiện tập chung và rõ nét nội dung tư tưởng và giải thoát của triết lý Phật
giáo.
Phật giáo hoàn toàn không thừa nhận thế giới quan thần quyền cũng không
thừa nhận cái ngã cá nhân bất biến. Phật giáo không tán đồng phương pháp tu
luyện ép xác khổ hạnh để đạt tới giải thoát của đạo Jaina vì phương pháp này làm
suy giảm thể lực khó có thể đạt tới minh giác cũng như phê phán chủ nghĩa khoái
lạc vật chất của phái Lokayata vì phương pháp này thiên về vật chất sa vào thế giới
vật dục làm mê tâm tính chậm trễ sự tiến bộ tinh thân. Con đường đúng đắn nhất
để đạt tới giác ngộ và giải thoát, theo Phật giáo là con đường trung đạo. Như thế
khi xác định con đường giải thoát Đức phật đặc biệt nhấn mạnh và nhắc nhở người
xuất gia từ bỏ thế gian cần phải tránh những gì thái quá hay những điều cực đoan.
Có thể nói xuất phát từ ý của tư tưởng giải thoát theo triết lý Phật giáo là bắt nguồn
từ nỗi khổ của con người.Và nhiệm vụ tối cao của sự giải thoát trong triết lí đạo
Phật là xoá bỏ sự mê muội của con người đạt tới sự giác ngộ nhận ra chân bản tính
của mình và thực tướng của vạn vật, dập tắt được ngọn lửa ái dục thoát khỏi sự khổ
não của cuộc đời.Vì thế trong học thuyết “ Tứ diệu đế” đạo Phật đưa “ Khổ đế”
làm chân lí đầu tiên. Nhưng những nỗi khổ ấy mà con người gánh chịu là do đâu?
để trả lời câu hỏi đó, đạo Phật đưa ra chân lí thứ hai là “ Tập đế” để lí giải căn
nguyên của nỗi khổ. Phật giáo cho rằng nguyên nhân của nỗi khổ là do con người
mê lầm, không nhận thức thế giới bản chất, vì thế con người sinh ra vọng tưởng, vị
kỉ, chiếm đoạt gây nên nỗi khổ triền miên trong cuộc đời. Để chỉ ra mục đích tối
cao của sự giải thoát, Đạo Phật đã đưa ra chân lí thứ ba là “ Diệt đế” đó là sự xa
lánh trọn vẹn , là sự tận diệt chính ái dục ấy. Nhưng bằng cách nào để thực hiện
được mục đích và lí tưởng giải thoát để đưa con người tới trí tuệ cao siêu, giác ngộ

và Niết bàn. Để lí giải vấn đề này, đạo Phật đã đưa ra chân lí lớn thứ tư, đó là “
Đạo đế”. Đó chính là quan điểm về con đường, cách thức giải thoát của đạo Phật
Giải thoát theo tư tưởng của Phật giáo không chỉ có thể đạt được sau khi chết
mà nó còn đạt được ở hiện tại nếu như chúng ta cắt đứt mọi luyến ái và sự ràng
buộc của thế giới vật dục khiến tâm hồn thanh tịnh, an lạc. Cao hơn thế, Phật giáo
cho rằng nếu hoàn toàn giác ngộ và thể nhập vào Niết bàn thì ngay cả bát chính
đạo và mọi ý niệm về niết bàn, về Phật và Pháp cũng đều phải từ bỏ. Như thế, tư
tưởng giải thoát trong triết lí Phật giáo đã thể hiện tính chất nhân bản sâu sắc, nó
Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 8


Tiểu luận triết học
không chỉ phủ định thế giới quan thần quyền và chủ nghĩa siêu nhiên đương thời
mà còn lên án sự bất công, đau khổ của xã hội lúc bấy giờ. Nó quan tâm đến thân
phận và đời sống của mỗi con người và chủ trương giải thoát cho tất cả chúng sinh
khỏi những nỗi khổ của cuộc đời bằng tin tưởng vào đời sống đạo đức, từ, bi, hỉ,
xả.

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 9


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG III.ẢNH HƯỞNG TRIẾT LÝ GIẢI THOÁT
CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NỀN GIÁO DỤC CON NGƯỜI
TRONG THỜI HIỆN ĐẠI.

Thế giới đang không ngừng chuyển mình với những tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Cuộc sống vật chất được nâng cao ở nhiều nước nhưng nhìn chung tình hình
kinh tế vẫn không có gì đảm bảo là ổn định: chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật không
có dấu hiệu giảm đi trong khi đó do lòng tham con người đã phá môi trường của
mình , tài nguyên bị cạn kiệt dần, mặt đất, núi, rừng, sông, biển, không khí đều bị ô
nhiễm, bị tàn phá. Rõ ràng con người đang huỷ diệt mình vì ham lợi nhuận trước
mắt. Mặt khác những giá trị đạo đức tâm linh truyền thống bị suy thoái trầm trọng,
nếp sống phóng dật buông thả vẫn phát triển mạnh, hệ quả của nó là bạo lực, vô
nhân, chán chường, thất vọng, những tín ngưỡng, những giáo phái kỳ quái . Đó là
nỗi đau của toàn hành tinh chúng ta trong thời hiện đại.
Trong bối cảnh ấy, đất nước chúng ta vừa trải qua thời kỳ dài đấu tranh giành
độc lập và tự do. Trong giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất
nước, chúng ta cần có thời gian để đầu tư công sức và trí tuệ. Chính sách mở cửa
hiện nay đã đem đến những thành tựu khả quan. Là điều đương nhiên chúng ta
không thể tránh khỏi những dao động những khó khăn đau nhức trong buổi giao
thời. Sự du nhập ồ ạt của văn minh vật chất của chủ nghĩa lợi nhuận gây nên sự suy
thoái đạo đức phá huỷ những giá trị truyền thống của dân tộc. Trước mắt song song
với những nỗ lực phát triển đất nước, an sinh xã hội, chúng ta cần phải xây dựng
một nền giáo dục vững mạnh khoa học, hợp với truyền thống văn hoá đạo đức của
dân tộc để đáp ứng những yêu cầu đúng đắn của đất nước, của thời đại.
Điều trước tiên mà người Phật tử phải học phải hiểu là làm rõ nét tinh thần
tam quy, ngũ giới biết sống bằng giáo lý giải thoát sống theo đạo đức phật giáo với
tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã. Để bổ sung và cao đẹp hoá nền giáo dục Việt Nam và
thế giới hiện nay chúng tôi muốn đưa ra một vài chủ trương giáo dục Phật giáo
trong thời hiện đại để góp phần đào tạo con người và xaay dựng xã hội trên cơ sở
giáo lý của đạo Phật.Vậy nói tới con người và xã hội nghĩa là tìm cách giải quyết
đời sống cụ thể của con người.
Trong phương pháp giảng dạy của Phật giáo tuỳ trình độ của từng đối tượng,
tuỳ nơi, tuỳ lúc hướng dẫn khác nhau. Con người trong đời sống thường nhật biết
sống với hiện tại, không tiếc nuối quá khứ, không tưởng tượng tương lai. Trái lại

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 10


Tiểu luận triết học
chúng sanh mãi khổ đau trong sinh tử luân hồi vì tự trói chặt thân ngũ uẩn của
mình bằng sợi dây tham dục và vô minh tà kiến .Vô minh sanh ra tham dục tham
dục nuôi dưỡng vô minh .Vì vậy thế giới của chúng sanh là thế giới được xây dựng
bằng vật liệu tham dục và mê lầm. Đó là đầu mối phát sinh mọi hành động tội lỗi,
xung đột, hận thù dẫn đến con người bị tha hoá mất phẩm chất sống trong khổ đau.
Muốn diệt sạch khổ đau, đức Phật đưa ra mô hình bát chánh đạo, theo đó có
đựơc hiểu biết sáng suốt, quyết định đúng đắn ,việc làm đạo đức.Tuỳ mức độ dập
tắt tham dục và mê lầm đến đâu thì trạng thái giải thoát Niết bàn thể hiện chừng
đó.Đạo Phật phải được hiểu là một con đường sống một nếp sống đem lại thanh
bình và hạnh phúc cho cá nhân và tập thể phải được xem là một môn học chính của
triết lý tâm lý và tâm lý giáo dục .Ngành giáo dục này giúp cá nhân phân tích tâm
lý và phiền não của mình để tìm thấy con đường sống chân chính .Con người chỉ
có thể thoát ra khỏi địa ngục trần gian tức là thoát ra mọi khổ đau để hưởng cuộc
sống Niết bàn ,cực lạc, tức là sống vui vẻ bằng cách tự giác ngộ qua tự học và tự
mình thoát ra khỏi chính mình, thoát khỏi con người bị “tam độc: tham sân si”bao
quanh chứ không phải ngồi trông chờ cầu xin ở các vị thần linh tối cao tưởng
tuợng ban phúc cho được.
* Mục đích đặc trưng của giáo dục Phật giáo là sự giải thoát mọi khổ đau
phiền não muôn thuở vốn có của mọi cuộc đời, của mọi kiếp sống và của bất cứ ai.
Đó là mục đích cao nhất và khó nhất phải trải qua nhiều kiếp sống mới đạt tới
được, không trong kiếp này thì trong một kiếp sau nếu biết và cố gắng kiên trì đi
theo giáo pháp của đức Phật . Đó là Niết bàn là hạnh phúc tối cao và vĩnh viễn .Sự
giaó dục của nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội là sự giáo dục có mục đích
giải thoát con người khỏi cái khổ của ngu dốt, đói ngèo, lạc hậu, nô lệ, bất công,

bóc lột, áp bức mà nhà nước thường gọi là sự giải phóng :giải phóng cá nhân, giải
phóng dân tộc giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nư,õ giải phóng nhân loại
.Nhưng có giải phóng được hết các nỗi khổ mang tính lịch sử con người vẫn khổ
với cái khổ muôn thuở,truyền kiếp của sự sống: sinh, lão, bệnh, tử v.v…Vì thế, bên
cạnh sự giáo dục và hệ thống giáo dục của nhà nước và xã hội con người v?n c?n
có sự giáo dục của Phật giáo. Tuy nhiên trong khi đi theo con đường mà đức Phật
đã chỉ đểû tìm tới sự giải thoát người Phật tử, Tăng ni cũng như cư sĩ còn phải
sống với xã hội và trong xã hội còn phải làm nghĩa vụ của người công dân đối với
Tổ quốc.Vì thế người Phật tử còn phải học văn hoá phổ thông và học nghề trong

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 11


Tiểu luận triết học
một trường học nào đó thuộc một bậc học ngành học nào đó của hệ thống giáo dục
quốc dân.

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 12


Tiểu luận triết học

KẾT LUẬN
Trong triết lý đạo đức nhân sinh mang tính nhân bản của triết học Ấn Độ cổ
đại, tư tưởng giải thoát là vấn đề trung tâm. Tư tưởng này đã trải qua quá trình phát
triển lâu dài với những quan điểm, phương pháp vô cùng phong phú. Nó chính là

sự phản ánh khái quát toàn bộ điều kiện sống cũng như tính chất sinh hoạt xã hội
đương thời. Cùng với sự biến đổi của hiện thực, nội dung của tư tưởng giải thoát
cũng biến đổi và phát triển không ngừng. Mặc dù các trường phái triết học Ấn Độ
cổ đều lấy tư tưởng giải thoát làm mục đích, lý tưởng cao nhất trong triết lý của
mình nhưng với những nội dung, tính chất triết học và khuynh hướng khác nhau,
nên các trường phái cùng đưa ra nhiều con đường, phương pháp giải thoát khác
nhau, về trạng thái giải thoát cũng có những quan điểm phong phú. Thực chất của
tư tưởng giải thoát trong triết lý tôn giáo Ấn Độ chính là sự phản ánh những mâu
thuẫn, những nhu cầu tất yếu của xã hội Ấn Độ cổ đại. Nó là khát vọng của người
Ấn Độ muốn thoát khỏi những nỗi khổ của cuộc đời và mơ ước cuộc sống đầy
hạnh phúc và an lạc.
Với ý nghĩa và giá trị lịch sử như thế, tôn giáo Ấn Độ đã ảnh hưởng sâu rộng
đến đời sống tinh thần đạo đức không chỉ của nhân dân Ấn Độ mà còn ảnh hưởng
đến nhân dân các nước phương Đông xưa kia và nay.
Trên tinh thần ấy, để đóng góp vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc truyền
thống văn hoá trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu và trình bày lại nội dung cơ bản của tư
tưởng triết học một cách khoa học với những phân tích, đánh giá đúng đắn và
những hạn chế có tính lịch sử của nó là vấn đề không kém phần quan trọng.

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 13


Tiểu luận triết học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PTS Doãn Chính, Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, NXB
Thanh Niên, Sài gòn, 2003

2. PTS Doãn Chính, Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, NXB Thanh Niên, Sài
gòn, 1999.
3. PTS Doãn Chính, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, NXB Thanh
Niên, Sài gòn, 1999.
4. PTS-TS Trần Văn Phòng , Tìm hiểu môn học triết học Mac –Lenin, NXB lí
luận chính trị, Hà Nội, 2005.
5. Ernest.K.S.Hunt, Đức Phật và giáo pháp của Ngài, NXB Tôn giáo, Sài
Gòn, 2005.
6. Nhiều tác giả, Giáo dục Phật giáo trong thời hiện đại, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, Sài gòn, 2001.

Học viên: Trần Lê Vinh

Trang 14



×