Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

SÁCH THAM KHẢO các GIẢI PHÁP xây DỰNG môi TRƯỜNG văn hóa ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.59 KB, 140 trang )

Chương I
MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG
CỘNG ĐỒNG
Trên cơ sở phương pháp luận mácxít, nghiên cứu môi trường văn hoá thực chất là nghiên
cứu quan hệ biện chứng giữa con người với hoàn cảnh, xét theo góc độ văn hoá. Trong đó,
con người một mặt là chủ thể thích ứng và cải tạo hoàn cảnh, mặt khác lại là sản phẩm của
hoàn cảnh. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, "con người tạo ra hoàn cảnh đến mức
nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy"( 1). Tuy nhiên, vai trò "chủ thể" cũng
như "sản phẩm" nói trên phải được hiểu một cách rất biện chứng. Tục ngữ Việt Nam có câu:
"Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", nhưng người Việt Nam cũng nói: "Gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn".
Suy cho cùng, hết thảy các dạng vật chất đều tồn tại và vận động trong một môi trường
nhất định. Nhưng môi trường, với nghĩa môi trường sinh thái, thì bao gồm "toàn bộ nói chung
những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó, con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển,
trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy"([1]). Riêng đối với con người, môi trường sống
không chỉ là môi trường sinh thái, mặc dù tầm quan trọng của môi trường sinh thái đối với
con người lớn tới mức, nếu vi phạm sự hài hoà, cân đối của mối quan hệ giữa con người với
quá trình chinh phục tự nhiên, thì "cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự
nhiên trả thù lại chúng ta"(2). Môi trường sống của con người còn là và chủ yếu là môi trường
xã hội, trước hết là môi trường văn hoá. Lịch sử nhân loại luôn chứng minh rằng, sự phát triển
của mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng gắn liền với sự cải thiện môi trường văn hoá của con
người và cộng đồng trong quốc gia dân tộc đó.
Điều nhận định trên xuất phát trước hết từ vai trò đặc biệt của văn hoá. Văn hoá vừa tác
động đến con người và đời sống cộng đồng như những yếu tố trực tiếp, riêng lẻ, vừa tác động
dưới dạng một hệ thống tổng thể những yếu tố văn hoá được khái quát trong phạm trù môi
trường văn hoá. Với tư cách yếu tố riêng lẻ, sự tác động của văn hoá thường chỉ nhất thời và
thoả mãn một nhu cầu nào đó, nhưng khi hợp thành môi trường văn hoá thì có tầm quan trọng
đặc biệt đối với con người và cộng đồng. Đó là sự tác động một cách liên tục, từ hoạt động
sản xuất vật chất, các quan hệ tinh thần đến đời sống tâm linh.



Như vậy, để tiếp cận quá trình xây dựng môi trường văn hoá cơ sở dưới góc độ phương
pháp luận mácxít, trước hết cần làm rõ những khía cạnh bản chất, quy luật phát triển của văn
hoá và môi trường văn hoá.
1. Văn hoá và môi trường văn hoá
Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ thời cổ đại và không ngừng được hoàn thiện cả về nội
hàm cùng ngoại diên của nó. Theo nghĩa Hán - Việt, thuật ngữ "văn hoá" là sự kết hợp hai từ:
"vẻ đẹp" và "giáo hoá", thường được các nhà tư tưởng phong kiến dùng để chỉ sự thống trị
của một triều đại dưới hình thức đẹp đẽ - "văn trị", tức là sự thống trị dựa trên cơ sở thuyết
phục con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại thì có thuật ngữ "cultus" là gieo trồng, ngoài nghĩa gieo
trồng ngoài đồng ruộng (cultus agree) còn được dùng với nghĩa gieo trồng tinh thần (cultus
animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu, nuôi dưỡng bản chất, phẩm giá con người theo những
cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ, cái văn minh...
Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phức tạp. Năm 1952, A.L.Kroeber và
C.L.Kluckhohn đã trích lục được khoảng ba trăm định nghĩa văn hoá của các tác giả ở nhiều
nước khác nhau. Đến nay, đã có thêm hàng trăm định nghĩa cùng cách tiếp cận khác về văn
hoá. Nhưng, đại đa số các tác giả đều quan niệm văn hoá gắn với con người, coi đó không
những là hệ thống giá trị tinh thần mà còn là hệ thống giá trị vật chất do con người tạo ra, trở
thành bộ phận cơ bản của đời sống xã hội.
"Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa: "Văn hoá - toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu
cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, người ta vẫn quen
nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hoá tinh thần
(khoa học, nghệ thuật và văn học, triết học, đạo đức, giáo dục, v.v..). Văn hoá là một hiện
tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội"([2]).
Hiện nay, Tổ chức văn hoá Liên hiệp quốc (UNESCO) đang nhìn nhận văn hoá với ý nghĩa
rộng rãi nhất, như một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, trí
thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm, làng, vùng miền,
quốc gia, xã hội. UNESCO còn đưa ra cách hiểu hẹp hơn: văn hoá là "một tổng thể những hệ
thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến
cộng đồng ấy có đặc thù riêng... Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự



việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai...) theo
cộng đồng ấy"([3]).
Đại Bách khoa thư Xôviết coi văn hoá là "trình độ phát triển nhất định về mặt lịch sử của
xã hội và con người biểu hiện trong các dạng thức tổ chức đời sống và hoạt động của con
người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do họ sáng tạo ra. Khái niệm văn hoá
dùng để phân định trình độ phát triển vật chất và tinh thần của các thời đại lịch sử nhất định,
các hình thái kinh tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (chẳng hạn văn hoá cổ đại,
văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá Maya...), cũng như để chỉ một lĩnh vực đặc thù của hoạt
động hay đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ thuật, văn hoá đời sống…). Theo nghĩa
hẹp hơn, thuật ngữ "văn hoá" chỉ liên quan tới lĩnh vực đời sống tinh thần của con người"( 1).
Ở Việt Nam, từ năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một định nghĩa văn hoá hết sức
hàm súc tại "Mục đọc sách", viết xen trong bản thảo "Nhật ký trong tù". Người viết: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn"(2).
Gần đây, một số học giả Việt Nam cũng đưa ra các quan niệm khác nhau về văn hoá. Có
quan niệm cho rằng tất cả những gì không phải thiên nhiên đều là văn hoá, song có quan niệm
lại cho rằng không nên nhìn nhận văn hoá theo những góc độ quá rộng, "văn hoá không phải
là kỹ thuật, cũng không phải là bản thân sản xuất... không phải là hoạt động tinh thần ở tự bản
thân nó... không phải là hoạt động xã hội, chính trị... cũng không phải là phong tục... Văn hoá
là cái dấu ấn của một thể cộng đồng lên mọi hiện tượng tinh thần, vật chất, mọi sản phẩm của
thể cộng đồng này từ tín ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghiệp, bán ra thị
trường"([4]).
Những định nghĩa khái niệm văn hoá đa dạng nói trên có thể được khái quát lại ở những
phương diện sau:

Thứ nhất, văn hoá tồn tại trong tổng thể những sản phẩm do con người sáng tạo ra. Tất
nhiên, không phải bất cứ cái gì con người tạo ra cũng là văn hoá, mà chỉ trong những sản


phẩm phản ánh, chứa đựng những cái chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, văn hoá không phải là bản
thân sản phẩm, mà chỉ là "dấu ấn" biểu hiện trình độ sáng tạo, trình độ người trên đó mà thôi.
Do vậy, phạm trù văn hoá bao gồm cả lĩnh vực văn hoá vật chất, lĩnh vực văn hoá tinh thần và
lĩnh vực văn hoá tổ chức xã hội.
Thứ hai, văn hoá tồn tại trong tổng thể các quan hệ người, không những là quan hệ giữa
con người với tự nhiên, với xã hội (và với người khác) mà còn là quan hệ giữa con người với
chính bản thân mình (trong đó có cả đời sống tâm linh). Tuy nhiên, chỉ có các quan hệ nhân
văn của con người mới được bao hàm trong phạm trù văn hoá, và bao giờ quan hệ nhân văn
cũng giữ vai trò chi phối, chế ước, quyết định quan hệ bản năng. Thành thử, hạt nhân của văn
hoá chính là tổng hoà các quan hệ nhân văn chứa đựng bản chất người trong quá trình phát
triển, hoàn thiện không ngừng. Và dưới góc độ này, phạm trù văn hoá bao gồm cả văn hoá cá
nhân và văn hoá cộng đồng ở các cấp độ rộng hẹp khác nhau.
Thứ ba, văn hoá biểu hiện ra như những hệ giá trị nhân văn bao gồm hệ tư tưởng khoa học;
sự khôn ngoan, hiểu biết, mặt bằng dân trí; chuẩn mực, cách thức ứng xử, giao tiếp; phong
tục, tập quán, thói quen sinh sống; hình thái sinh hoạt vật chất, hình thái sinh hoạt tinh thần...
có tính khuôn mẫu nhất định. Những hệ giá trị đó được con người sáng tạo và phát triển trong
quá trình quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính mình, đánh dấu trình độ hoàn thiện bản chất
người trong lịch sử và chi phối trở lại đời sống cộng đồng. Có thể nói, các hệ giá trị nhân văn
khác nhau luôn hình thành nên các nền văn hoá và các môi trường văn hoá mang bản sắc khác
nhau.
Thứ tư, cái đỉnh điểm, cái "thăng hoa" của văn hoá là trí tuệ được kết tinh trong quá trình
tư duy của con người từ nhiều phương thức: tư duy khái niệm hình thành nên các ngành khoa
học, tư duy hình tượng hình thành nên các loại hình nghệ thuật, tư duy ảo tưởng dẫn đến hiện
tượng tín ngưỡng, tôn giáo... Xã hội càng văn minh thì trí tuệ con người càng trở thành chìa
khoá của sự phát triển văn hoá, mặc dù văn hoá không chỉ bao gồm trí tuệ. Chính vì có trí tuệ
mà con người trở thành động vật văn hoá duy nhất, và cũng do đó mà các nền văn hoá dù hết

sức phong phú, đa dạng và mang bản sắc riêng cũng có thể mở thông với nhau. Với ý nghĩa
này, văn hoá thể hiện cả ở tầng hệ tư tưởng - khoa học, cả ở tầng tâm lý xã hội và cả ở các
biểu tượng nghệ thuật, tâm linh…


Thứ năm, bản chất cốt lõi của văn hoá là sáng tạo và nhân văn, hay có thể nói văn hoá là
dấu ấn sáng tạo và nhân văn theo tiêu chí chân, thiện, mỹ của mỗi cộng đồng người. Dấu ấn
sáng tạo và nhân văn là mặt định tính quan trọng nhất để nhìn nhận một hiện tượng, một quá
trình, một mối quan hệ, một dạng thức hoạt động... nào đó có mang ý nghĩa văn hoá hay
không. Con người sáng tạo văn hoá không những trong đời sống tinh thần mà cả trong lĩnh
vực sản xuất vật chất, lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội. Song, chỉ có những dấu ấn sáng tạo
mang tính nhân văn, tức là xuất phát từ con người, phục vụ lợi ích chính đáng của con người
và góp phần giải phóng con người mới được bao hàm trong phạm trù văn hoá.
Như vậy, chúng ta có thể tiếp cận văn hoá dưới nhiều góc độ khác nhau. Song, dưới góc độ
phương pháp luận nhằm xây dựng môi trường văn hoá cơ sở thì cần tiếp cận văn hoá như
tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao các giá trị mang tính nhân văn do con người sáng tạo
theo tiêu chí chân, thiện, mỹ trong tiến trình lịch sử và trở thành nhân tố nuôi dưỡng, hoàn
thiện, phát triển phẩm chất con người cùng đời sống cộng đồng.
Quan điểm mácxít đó không những cho phép khắc phục góc nhìn hạn hẹp coi văn hoá chỉ
gồm lĩnh vực đời sống tinh thần của con người và cộng đồng, hoặc góc nhìn quá rộng coi tất
cả những gì không phải tự nhiên đều là văn hoá, mà còn cho phép vạch ra những định hướng
cơ bản, sát thực tế để xây dựng nền văn hoá Việt Nam đúng với bản chất, vai trò xã hội và quy
luật phát triển khách quan của nó. Để hiện thực hoá những vấn đề mang ý nghĩa khái quát ấy,
cần tiếp cận rất nhiều dạng thức tồn tại phong phú, sinh động của văn hoá, trong đó cần đặc
biệt phân định rõ văn hoá vật thể với văn hoá phi vật thể; văn hoá vật chất với văn hoá tinh
thần và với văn hoá tổ chức xã hội. Sự sai lầm trong hoạt động thực tiễn xây dựng, phát triển
văn hoá thường do sự phân định không rõ ràng đối với những tiêu chí này gây nên.
Văn hoá vật thể bao gồm những giá trị văn hoá tồn tại dưới dạng hữu hình, đánh dấu trình
độ, tính chất và bộ mặt phát triển của một cộng đồng hoặc một quốc gia dân tộc trong tiến
trình lịch sử. Đó là các di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, công cụ sản xuất, hệ

thống giao thông, thuỷ lợi, làng mạc, đô thị, công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật tạo
hình... Còn văn hoá phi vật thể thì bao gồm những giá trị văn hoá tồn tại dưới dạng các biểu
hiện tượng trưng vô hình, được lưu truyền và biến đổi qua thời gian do quá trình bảo tồn, tái
tạo, trùng tu của con người và cộng đồng. Chẳng hạn như: bí quyết công nghệ truyền thống,
văn học dân gian, nghệ thuật biểu diễn, tiếng nói, chữ viết, thuần phong mỹ tục, nghệ thuật
ẩm thực, nguyên tắc y lý và phương pháp chữa bệnh...


Sự phân định văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể chỉ là tương đối. Trên thực tế, chúng
gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau. Một cuốn tiểu thuyết là văn hoá vật thể khi được xem
xét dưới góc độ tiến bộ kỹ thuật sản xuất giấy, mực, trình độ in ấn, đồng thời là văn hoá phi
vật thể với những nội dung tư tưởng chứa đựng trong đó. Văn hoá vật thể - kết quả quá trình
vật thể hoá văn hoá - đã hàm chứa cả những giá trị văn hoá phi vật thể. Còn văn hoá phi vật
thể - được coi như thước đo giá trị của văn hoá, kể cả văn hoá vật thể - cũng không thể tồn tại
ở đâu khác ngoài những vật thể mang văn hoá. Cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể đều
phản ánh lĩnh vực đời sống vật chất và lĩnh vực đời sống tinh thần; đều là đối tượng sử dụng,
là phương tiện, công cụ để trực tiếp thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần; và đều
qua đó bồi bổ vốn văn hoá của mỗi con người, mỗi cộng đồng.
Văn hoá vật chất là tổng thể các giá trị văn hoá nảy sinh trong quá trình sản xuất vật chất
và quá trình tổ chức đời sống vật chất của xã hội, đánh dấu một giai đoạn phát triển nhất định
của lịch sử xã hội trong việc sáng tạo ra "giới tự nhiên thứ hai". Văn hoá tinh thần là tổng thể
các giá trị văn hoá phản ánh quá trình sáng tạo tinh thần và quá trình tổ chức đời sống tinh
thần của con người và cộng đồng, bao gồm tất cả những thành tựu của triết học, khoa học,
nghệ thuật, pháp luật, đạo đức, tôn giáo... hợp thành lĩnh vực tinh thần của từng xã hội nhất
định. Còn văn hoá tổ chức xã hội là tổng thể các giá trị văn hoá phản ánh trình độ người trong
tổ chức đời sống cộng đồng, từ thời đại mông muội, dã man đến thời đại trung cổ, và từ thời
đại trung cổ đến thời đại văn minh.
Đây cũng chỉ là sự phân định tương đối, bởi ngay trong một sản phẩm văn hoá có thể đồng
thời chứa đựng văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá tổ chức xã hội. Thanh "thượng
phương bảo kiếm" vừa đánh dấu trình độ chế tạo kiếm (văn hoá vật chất), vừa khơi dậy tinh

thần thượng võ (văn hoá tinh thần), vừa đại biểu cho quyền uy của một vị vua trong chế độ
phong kiến (văn hoá tổ chức xã hội). Văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá xã hội
đều tồn tại cả ở hình thái vật thể và phi vật thể. Phương thức sản xuất không chỉ quy định
cách thức sản xuất ra của cải vật chất mà còn quy định cả cách thức sáng tạo ra những sản
phẩm tinh thần và cách thức tổ chức đời sống xã hội. Đến lượt nó, những sản phẩm vật chất
và tinh thần cũng như cách thức tổ chức đời sống xã hội do con người sáng tạo ra bao giờ
cũng hàm chứa dấu ấn văn hoá, trở thành thước đo trình độ phát triển giá trị người của một
phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử.


Nói đến văn hoá là nói đến con người, và quan hệ giữa văn hoá với con
người được khái quát trong phạm trù "môi trường văn hoá". Về vấn đề này
cho đến nay vẫn còn có nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, thậm chí có
những cách nhìn nhận trái ngược nhau. Song rõ ràng là, việc nắm vững
quan hệ hữu cơ giữa môi trường văn hoá với sự phát triển con người và
xây dựng đời sống cộng đồng xã hội trở thành một trong những nội dung cơ
bản hàng đầu của lý luận triết học - văn hoá. Quan niệm khoa học về môi
trường văn hoá cần được tiếp cận từ cả hai khía cạnh: nhìn nhận toàn bộ
môi trường sống của con người và cộng đồng dưới góc độ văn hoá; và, nhìn
nhận toàn bộ các quan hệ giữa con người với văn hoá trong tư cách hoàn
cảnh sinh sống, hoạt động của con người.
Trước hết, quan hệ giữa văn hoá và con người biểu hiện ở việc con người tác động vào tự
nhiên một cách có văn hoá. Như mọi sinh vật, con người cũng sống trong những điều kiện tự
nhiên như địa lý, khí hậu, từ lực, trọng lực, ánh sáng... Tuy nhiên, con người luôn lao động
sáng tạo để cải biến những điều kiện ấy cho phù hợp với mình chứ không chỉ thích ứng một
cách đơn thuần. Hơn nữa, thông qua quá trình sáng tạo mang tính nhân văn mà con người
sáng tạo ra chính bản thân mình với tư cách "động vật văn hoá" duy nhất. Quan hệ giữa văn
hoá và con người còn phải được hiểu như là quan hệ giữa bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân
với những giá trị người được hình thành và phát triển thông qua quá trình nhập thân văn hoá,
tức là thông qua các quan hệ nhân tính mà con người tự phát triển, hoàn thiện hệ thống giá trị

văn hoá như những tố chất căn bản bên trong của mình.
Sẽ là phiến diện nếu nhận thức văn hoá như là sự phát triển các quan hệ nhân tính của con
người trong sự đối lập tuyệt đối với bản năng tự nhiên, nằm ngoài giới hạn sự thể hiện bản
tính tự nhiên. Khi nghiên cứu về nhân cách, C.Mác luôn chỉ ra sự thống nhất biện chứng giữa
cái tự nhiên và cái xã hội trong con người, rằng cái tự nhiên (bản năng) ở con người bao giờ
cũng là bản năng được ý thức. Chỉ có quan niệm như thế mới thấy con người được hình thành
như một nhân cách trong tiến trình sinh thể, trong đó những yếu tố di truyền, sinh lý, tâm lý
và xã hội xoắn xuýt với nhau. Việc giải quyết đúng đắn quan hệ giữa "cái sinh vật" với "cái xã
hội" chính là hướng con người theo đúng quỹ đạo Người. Đây là cơ sở phương pháp luận để
giải quyết quan hệ con người tự nhiên - con người xã hội - con người giai cấp - con người dân
tộc.


Trong quá trình sinh sống và hoạt động, con người không chỉ thiết lập và thực hiện quan hệ
với môi trường tự nhiên mà còn tạo ra môi trường xã hội với tư cách là tổng hoà những quan
hệ giữa người và người. Không những thế, con người còn kết hợp giữa môi trường tự nhiên
với môi trường xã hội để sáng tạo nên môi trường văn hoá - môi trường sống đặc biệt chỉ có ở
cộng đồng người. Nếu tiếp cận văn hoá như sự phát triển những giá trị người theo cái chân,
thiện, mỹ trong tiến trình lịch sử, thì môi trường sống của con người bao quát toàn bộ môi
trường xã hội và những gì thuộc môi trường tự nhiên nhưng được con người văn hoá hoá, là
môi trường được "lấp đầy" bằng những cái văn hoá - tức là môi trường văn hoá. Bởi vì, quan
hệ giữa văn hoá với con người chủ yếu được biểu hiện ở toàn bộ quá trình con người sáng tạo
ra tự nhiên thứ hai - tự nhiên được "người hoá". C.Mác đã từng nhấn mạnh rằng: "Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"([5]).
Môi trường văn hoá được thiết lập từ tổng thể các quan hệ giữa con người với văn hoá
trong tính toàn vẹn và tính lịch sử. Ở mỗi thời đại nhất định, văn hoá thấm vào tất cả các yếu
tố thuộc phẩm chất, năng lực của từng cá nhân, trong đó trình độ học vấn, cả tri thức lý luận
và tri thức kinh nghiệm, tuy không đồng nhất với văn hoá nhưng là chìa khoá để con người
nhận thức, cải tạo thế giới. Hơn nữa, sự phát triển những giá trị người ở từng cá nhân, đến
lượt nó, lại đóng góp cái bản sắc riêng có vào văn hoá cộng đồng, không ngừng phấn đấu để

làm giàu thêm văn hoá cộng đồng và làm cho các nền văn hoá không ngừng phát triển theo
tiến trình lịch sử.
Quan hệ giữa con người với văn hoá còn thể hiện ở một quá trình mà các yếu tố khách
quan và chủ quan, khách thể và chủ thể… tác động xoắn xuýt với nhau. Nội dung và hình
thức cụ thể của quá trình ấy biểu hiện trong sự tương tác biện chứng giữa một bên là hoạt
động cải tạo thế giới của con người với một bên là ảnh hưởng của các điều kiện khách quan.
Vì vậy, sự hình thành và phát triển văn hoá trong mỗi con người vừa phụ thuộc vào các hình
thức hoạt động cụ thể của con người trong tiến trình lịch sử như những tiền đề cơ bản; vừa
phụ thuộc vào quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá nhân với thế giới bên ngoài cũng như với
cộng đồng, tập đoàn, giai cấp, xã hội...; vừa phụ thuộc sự giáo dục có mục đích, có tổ chức
của các cộng đồng xã hội và sự tự giáo dục của mỗi cá nhân.
Với ý nghĩa hiện thực của các cách tiếp cận nói trên, có thể khẳng định rằng, quan hệ giữa
con người với văn hoá bao giờ cũng dẫn đến sự hình thành một kiểu môi trường sống của con
người và cộng đồng mà ở đó, mỗi thành viên xác định được toạ độ văn hoá của mình trong


không gian, thời gian rộng lớn của nền văn hoá dân tộc và nhân loại, thấy được sự hữu hạn
của bản thân, cảm nhận được hạnh phúc đang có và phấn đấu hết mình để thực hiện những
mục tiêu, lý tưởng cao đẹp.
Như vậy, có thể hiểu môi trường văn hoá là tổng hoà các giá trị văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần tác động đến con người và cộng đồng trong một không gian và thời gian xác
định. Nói cách khác, môi trường văn hoá bao hàm những mặt, những bộ phận của môi trường
sống có khả năng tác động theo những đường dẫn văn hoá đến con người. Các đường dẫn văn
hoá chính là hạt nhân cốt lõi của môi trường văn hoá, mặc dù nói đến đường dẫn văn hoá thì
không chỉ bao gồm những tương tác văn hoá giữa con người với ngoại cảnh, mà còn là những
tương tác văn hoá giữa con người với đời sống nội tâm của mình. Tuy nhiên, để đi sâu nghiên
cứu thực chất của môi trường văn hoá thì nhất thiết phải tập trung làm rõ những đường dẫn
văn hoá giữa con người và hoàn cảnh.
Phương pháp luận mácxít khẳng định rằng, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình đều tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến. Song, bản thân những mối liên hệ này không hình thành một cách

ngẫu nhiên, lộn xộn mà luôn tuân theo tính quy luật, đồng thời chỉ xuất hiện rõ nét trong một
hệ quy chiếu nhất định, giữa ít nhất các khách thể thuộc cùng loại nhất định, và phải gây nên
sự ràng buộc, tác động ảnh hưởng lẫn nhau đủ lớn. Xem xét cả về mặt chiều hướng, cả về tính
chất sự ràng buộc và tác động ảnh hưởng thì có thể phân định thành các kiểu liên hệ: tiếp
nhận hoặc tác động, hội nhập hoặc phân cực, liên kết hoặc biến đổi, đơn tuyến hoặc đa
tuyến... Tổng hợp sự tác động và hấp dẫn lẫn nhau về mặt văn hoá giữa một bên là con người,
cộng đồng người với một bên là các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, trong xã hội
và trong đời sống nội tâm mỗi người luôn được coi như những đường dẫn văn hoá đến với
con người và xuất phát từ con người.
Xét ở góc độ lấy các yếu tố văn hoá làm điểm xuất phát để thiết lập hệ quy chiếu, thì mỗi
sự vật hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay trong xã hội, thuộc phạm trù vật chất hay
phạm trù tinh thần, đều toả ra quanh nó không phải là một, mà là vô số mối liên hệ tác động.
Tuy nhiên, chỉ có những tác động về mặt văn hoá của sự vật, tức là cái khía cạnh phản ánh sự
phát triển những giá trị người trong đó, và chỉ đối với con người có văn hoá, thì mới hợp
thành đường dẫn văn hoá. Một cuốn sách quý góp phần nâng cao hiểu biết, khả năng thẩm
mỹ, giáo dục lối sống, nền nếp ứng xử... của người đọc; nhưng đối với nhà kinh doanh sách,
nó toả ra sức hấp dẫn của một môi trường kinh tế; còn đối với những con mối thì đó chỉ đơn


thuần là môi trường... thức ăn(!) không hơn không kém. Những người có nhiệt tâm luôn chắt
lọc được các giá trị văn hoá dù ở môi trường còn đang nghèo chất văn hoá; còn với những
người vô cảm thì dù sống trong môi trường chứa đầy giá trị văn hoá, họ cũng dửng dưng,
không hề rung động.
Xét ở góc độ lấy con người làm điểm xuất phát để xác lập hệ quy chiếu, thì mỗi con người
và cộng đồng đều hình thành xung quanh mình một "sức hút" văn hoá, thiết lập và thực hiện
các quan hệ văn hoá có thể được với tất cả các sự vật, hiện tượng, quá trình trong không gian
và thời gian tồn tại, phát triển của mình. Tất nhiên, ngoài quan hệ văn hoá, con người còn
thiết lập và thực hiện các quan hệ khác, nhưng chỉ có các quan hệ ảnh hưởng đến sự phát triển
những giá trị người của họ mới hình thành đường dẫn văn hoá. Hơn nữa, con người luôn
đóng vai trò chủ thể tích cực trong việc tạo ra đường dẫn văn hoá chứ không phải những đối

tượng chịu ảnh hưởng một cách thụ động.
Rõ ràng, dù tiếp cận theo hệ quy chiếu nào thì cũng đều thấy văn hoá
luôn gắn chặt với con người, đóng vai trò cầu nối tiếp dẫn giữa con người
với ngoại cảnh cũng như với đời sống nội tâm của mình. Đặc biệt, các
đường dẫn văn hoá giữa môi trường và con người không tồn tại đơn lẻ,
riêng rẽ mà luôn nằm trong tổng thể sức tác động, hấp dẫn của một loạt sự
kiện, hiện tượng, quá trình, vòng cộng đồng văn hoá. Đó là một hệ đường
dẫn mang tính chỉnh thể, bao gồm các yếu tố văn hoá có quan hệ hữu cơ
với nhau, phản ánh sự tác động lẫn nhau về mặt văn hoá giữa môi trường
với con người. Quan niệm về môi trường văn hoá không thể không xuất
phát từ quan niệm đúng đắn về hệ đường dẫn mang tính chỉnh thể đó.
Từ những điểm tựa lý luận trên đây, có thể thấy môi trường văn hoá
chứa đựng rất nhiều yếu tố được tập hợp thành các hệ thống nhất định. Đó
là hệ thống những giá trị văn hoá (cái giá trị), hệ thống những quan hệ văn
hoá (cái mang giá trị), hệ thống những hình thái hoạt động văn hoá (cái
thực hiện giá trị) và hệ thống những thiết chế văn hoá (cái định hướng giá
trị). Mỗi hệ thống ấy đều tồn tại trong tiến trình phát triển không ngừng chứ
không phải là những tiêu chí cứng đờ, bất biến. Xây dựng môi trường văn


hoá cơ sở thực chất là xây dựng, phát triển và phát huy tác dụng của từng
hệ thống nói trên trong cấu trúc tổng thể của chính môi trường văn hoá đó.
Về hệ thống những giá trị văn hoá
Giá trị là đặc trưng cơ bản hàng đầu quy định đặc điểm, nội dung và quy luật phát triển
mang tính đặc thù của văn hoá. Đó còn là tiêu chí hàng đầu để xem xét, đánh giá một hiện
tượng, ở thời điểm lịch sử nhất định và theo hệ chuẩn nhất định, là văn hoá hay phản văn hoá,
mức độ văn hoá hay phản văn hoá đến đâu... Giá trị văn hoá phản ánh sự kết tinh những thành
tựu của con người trong quá trình sáng tạo ra đời sống xã hội và sáng tạo ra chính bản thân
mình. Không chỉ đơn thuần đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con
người và cộng đồng như các giá trị xã hội khác, giá trị văn hoá còn chủ yếu nhằm đáp ứng

nhu cầu hình thành và phát triển nhân cách, đòi hỏi mọi người sống sao cho ra hồn người, sao
cho xứng đáng là con người có nhân tính.
Xét một cách chung nhất thì giá trị tồn tại trong tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế,
chính trị, đạo đức, lối sống... và có thể được xác định bằng các hệ chuẩn khác nhau. Nhưng,
nếu như giá trị kinh tế nghiêng về cái lợi, khoa học nghiêng về cái đúng, đạo đức nghiêng về
cái thiện, nghệ thuật nghiêng về cái đẹp, thì giá trị văn hoá đòi hỏi phải được phân định bằng
cả ba chuẩn cơ bản: cái chân, cái thiện và cái mỹ trong sự thống nhất hữu cơ không tách rời
nhau. Phạm trù chân - thiện - mỹ phản ánh mối quan hệ đặc biệt giữa con người với tự nhiên,
xã hội và bản thân về mặt văn hoá, là kết quả sự phân cực quá trình hoạt động nhận thức cùng
thái độ, hành vi ứng xử và khả năng cảm thụ, sáng tạo văn hoá của con người. Sự phân cực về
hướng tích cực thì hình thành giá trị, còn về hướng tiêu cực thì nảy sinh các phản giá trị: đối
lập với chân là cái phản chân (nguỵ), đối lập với thiện là cái phản thiện (ác), đối lập với mỹ là
cái phản mỹ (xú).
Giá trị văn hoá được biểu hiện ở cả mặt chủ thể và mặt khách thể của phạm trù chân - thiện mỹ. Chân - thiện - mỹ chủ thể bao gồm những hệ thống giá trị cá nhân của con người về:
chuẩn mực mà hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn phù hợp với hiện thực khách quan
(chân); chuẩn mực mà thái độ, hành vi ứng xử được coi là hợp lòng người, đáng noi theo
(thiện); chuẩn mực mà khả năng cảm thụ cũng như khả năng sáng tạo văn hoá của con người
được xã hội thừa nhận và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển (mỹ). Chân - thiện - mỹ khách
thể bao gồm những hệ thống giá trị xã hội về: cái khách quan, đúng đắn, trung thực, chính


đáng, hợp quy luật... (chân); cái tốt lành, nhân đạo, vị tha, cao thượng, khiêm ái... (thiện ); cái
đẹp đẽ, cao quý, hoàn hảo, hài hoà, đáng yêu... (mỹ).
Trong thực tiễn, giữa hai mặt chủ thể và khách thể của phạm trù chân - thiện - mỹ luôn có
sự liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Các giá trị văn hoá được hình thành trong từng nhân cách cụ thể luôn có xu hướng
được xã hội hoá để gia nhập hệ tiêu chí văn hoá chung; và ngược lại, các giá trị văn hoá
chung của xã hội chỉ mang ý nghĩa hiện thực khi thâm nhập và chuyển hoá thành giá trị bên
trong của mỗi con người. Đồng thời, sự thống nhất giữa cái chân, cái thiện và cái mỹ là bản
chất của giá trị văn hoá. Chẳng hạn, những cái được coi là tốt, là đẹp trước hết phải là cái

mang tính chân lý, mặt khác, cái chân lý chỉ có ý nghĩa tích cực khi đồng thời được coi là hợp
đạo đức, gây mỹ cảm, được trân trọng, tán thưởng.
Với tư cách thành tố của môi trường văn hoá, hệ thống giá trị văn hoá được phân định ở
nhiều cấp độ: có các giá trị gốc giữ vai trò nền tảng cho toàn bộ hệ thống giá trị văn hoá,
mang tính định hướng chung và ổn định tương đối; có các giá trị chuẩn mực là sự thể hiện giá
trị nền tảng vào điều kiện lịch sử đặc thù; có các giá trị cụ thể, thường gắn với tiêu chuẩn, quy
định, yêu cầu nhất định trong đời sống cộng đồng, là sự chi tiết hoá giá trị nền tảng và giá trị
chuẩn mực. Giá trị văn hoá có tính lịch sử và không ngừng chuyển đổi, phát triển. Hiểu biết
sâu sắc về giá trị văn hoá giúp con người nhận thức chiều sâu những khía cạnh bản chất của
văn hoá, trên cơ sở đó tự điều chỉnh ý thức, hành vi phù hợp với các hệ chuẩn sáng tạo và
nhân văn của nhân loại, dân tộc, tập thể, dòng họ, nghề nghiệp và gia đình trong một môi
trường văn hoá nhất định.
Giá trị văn hoá chính là các "tế bào sống" của môi trường văn hoá, chi phối các yếu tố
khác. Tính chất của hệ thống những giá trị văn hoá luôn quyết định tính chất của môi trường
văn hoá: lành mạnh hay ô nhiễm; phong phú, đa dạng hay đơn điệu, nghèo nàn... Cũng như
văn hoá nói chung, hệ thống những giá trị văn hoá trong một môi trường văn hoá nhất định
cần được nhìn nhận ở cả hai dạng thức: những giá trị văn hoá vật thể và những giá trị văn hoá
phi vật thể. Tất cả các giá trị văn hoá chứa đựng trong cơ sở vật chất - văn hoá, trong hoạt
động xã hội, trong nhân cách mỗi người, trong các quan hệ cộng đồng đều trực tiếp hay gián
tiếp tham gia vào hệ thống giá trị văn hoá của từng môi trường văn hoá nhất định.


Trên thực tế ở nước ta, có rất nhiều hiện tượng xa rời các chuẩn mực của nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là do nguyên nhân từ sự nhận
thức không đúng đắn về những khía cạnh trên. Hoặc chỉ nhận thấy giá trị văn hoá tồn tại dưới
dạng thái hệ tiêu chí chung mà không quan tâm đến giá trị văn hoá chứa đựng ngay trong
nhân cách con người; hoặc ngược lại. Đặc biệt, sự nhầm lẫn giữa giá trị văn hoá vật chất với
văn hoá vật thể, giá trị văn hoá tinh thần với văn hoá phi vật thể chắc chắn dẫn đến tình trạng
bỏ sót giá trị văn hoá trong quá trình xây dựng môi trường văn hoá cơ sở, hoặc tình trạng "văn
hoá hoá" vô nguyên tắc.

Về hệ thống những quan hệ văn hoá
Nói đến văn hoá là nói đến con người và cộng đồng người cùng những
quan hệ đa dạng, phong phú của họ. Tính đa dạng, phong phú ấy không
những biểu hiện ở chỗ mỗi người cùng lúc có thể tham gia nhiều mối quan
hệ với nhiều người khác nhau, nhiều vòng cộng đồng xã hội khác nhau, mà
còn biểu hiện ở chỗ có nhiều mối quan hệ chằng chịt trong chính đời sống
nội tâm của họ. Các quan hệ người khác nhau cả về nội dung, tính chất, cấp
độ, phạm vi, thời điểm: có quan hệ về sinh học, kinh tế, chính trị, tín
ngưỡng... và có quan hệ về văn hoá; có quan hệ bình đẳng và có quan hệ
phụ thuộc; có quan hệ cơ bản, lâu dài và có quan hệ tạm thời; có quan hệ
sâu sắc và có quan hệ "xã giao" hời hợt... Quan hệ văn hoá là một thành tố
biểu hiện hình thái quan hệ người của môi trường văn hoá và đem lược quy
"chất văn hoá" trong toàn bộ các quan hệ người vào phạm trù môi trường
văn hoá.
Những quan hệ văn hoá, trong tổng hoà các quan hệ xã hội, không nằm đơn lẻ, rời rạc mà
liên kết thành hệ thống với tư cách thành tố của môi trường văn hoá. Tuỳ góc tiếp cận mà có
cách khái quát khác nhau về hệ thống này. Theo chủ thể quan hệ thì có cấu trúc thứ - bậc với
quan hệ dọc như: giữa người cao tuổi với thiếu niên, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ
với quần chúng... và quan hệ ngang như: quan hệ đồng chí, quan hệ đồng nghiệp, quan hệ bạn
bè... Theo lĩnh vực quan hệ thì có cấu trúc đa diện tuỳ theo sự thâm nhập của văn hoá vào các
phương diện xã hội khác như: quan hệ văn hoá sản xuất, quan hệ văn hoá tiêu dùng, quan hệ
văn hoá chính trị, quan hệ văn hoá giao tiếp, quan hệ văn hoá nghệ thuật... Hệ thống những


quan hệ văn hoá một mặt luôn chứa đựng những giá trị văn hoá đương đại, mặt khác luôn làm
nảy sinh các giá trị văn hoá mới và hợp thành nền tảng của môi trường văn hoá.
Trong quan hệ xã hội, con người bao giờ cũng vươn tới những khuôn mẫu ứng xử nhất
định. Con người ứng xử với tự nhiên không giống như với đồng loại, ứng xử với bản thân
không giống như với người khác, ứng xử với một cá nhân không giống như với cả cộng đồng,
ứng xử đơn phương khác với song phương, đa phương. Chính sự khác nhau đó làm cho

những giá trị người vĩnh hằng của văn hoá biểu hiện một cách đa dạng, sinh động ở mỗi cá
nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quan hệ cụ thể. Tuy nhiên, trong một môi trường văn hoá nhất định
thì hệ thống những quan hệ văn hoá luôn thể hiện ra như những cách thức ứng xử của con
người theo khuôn mẫu, tiêu chí nhất định sao cho đúng với tư cách con người và ngày càng
người hơn, đồng thời cộng đồng có thể chấp nhận được.
Hệ chuẩn chân, thiện, mỹ được đưa vào quan hệ ứng xử của con người và cộng đồng càng
nhuần nhụy thì môi trường xã hội càng giàu chất văn hoá, thực sự tạo nên không - thời gian
lành mạnh để con người hoà mình vào thiên nhiên, bác ái với đồng loại và làm trọn vai trò
một nhân cách văn hoá cao đẹp đối với chính mình. Hơn nữa, với tư cách thành tố của môi
trường văn hoá, hệ chuẩn chân, thiện, mỹ trong quan hệ xã hội còn mang rất đậm dấu ấn riêng
của từng cộng đồng dân tộc về phong tục, tập quán, cách thức ứng xử, giao tiếp... Cho nên,
giữ gìn, tôn tạo, phát huy và phát triển hệ chuẩn chân thiện, mỹ trong quan hệ xã hội luôn
được thể hiện tập trung nhất ở quá trình kế thừa những thuần phong mỹ tục của truyền thống
văn hoá dân tộc và bản sắc dân tộc của văn hoá.
Về hệ thống những hình thái hoạt động văn hoá và cảnh quan văn hoá
Hoạt động của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định và trước
mỗi đối tượng, mỗi lĩnh vực nhất định luôn hình thành những dạng thức
nhất định. Và trong quá trình tổ chức thực tiễn, con người luôn có xu hướng
xây dựng những hình thái hoạt động chuẩn mực để quy trình hoạt động tiếp
theo đạt hiệu quả cao hơn. Với tư cách thành tố của môi trường văn hoá,
các hình thái hoạt động tiêu biểu trong hiện thực sẽ được điển hình hoá
thành "khuôn vàng thước ngọc" cho hệ thống thang giá trị xã hội mà mỗi
cá nhân cố gắng noi theo.


Hệ thống những hình thái hoạt động văn hoá là biểu hiện tập trung, sinh
động những giá trị văn hoá, những quan hệ văn hoá và có thể được khái
quát thành hai hình thái cơ bản. Hình thái gián tiếp gồm các hoạt động xã
hội chứa đựng những yếu tố văn hoá như: văn hoá trong tổ chức cộng đồng,
văn hoá trong lao động sản xuất, văn hoá trong tổ chức đời sống gia đình...

Hình thái trực tiếp chính là các hoạt động thuần văn hoá biểu hiện dưới hai
dạng thái: những hoạt động thường xuyên như tự học tập, giao tiếp, trao
đổi thông tin, thưởng thức nghệ thuật... và những hoạt động tập trung theo
chương trình nhất định như diễn đàn thanh niên, tham quan, đại hội thể dục
thể thao, hội diễn nghệ thuật... Một môi trường văn hoá phong phú, đa
dạng phải là môi trường chứa đựng những hình thái hoạt động văn hoá đa
dạng, phong phú.
Cùng với những hình thái hoạt động văn hoá, hệ thống cảnh quan văn hoá hợp thành "bề
nổi", thành diện mạo đặc trưng của môi trường văn hoá. Cảnh quan văn hoá, với ý nghĩa là
thành tố của môi trường văn hoá, là sự khái quát hình thái quan hệ người - tự nhiên của môi
trường văn hoá, tức là sự phản ánh tổng hợp các tác động văn hoá giữa cảnh quan với con
người. Cách thức xử sự của con người trước tự nhiên là một bộ phận hợp thành môi trường
văn hoá. Một mặt, nó phản ánh chất văn hoá của quá trình con người chinh phục tự nhiên,
mặt khác, nó phản ánh sự phát triển giá trị người trước sức tác động, hấp dẫn, truyền cảm của
cảnh quan, cả cảnh quan nguyên sơ của thiên nhiên và cảnh quan được con người cải tạo.
Hơn nữa, cần thấy rằng, cảnh quan văn hoá không đơn thuần chỉ là tự nhiên nguyên sơ mà
ngày càng là cảnh quan được bàn tay con người đẽo gọt, sắp xếp để đáp ứng nhu cầu đời sống
vật chất và tinh thần của mình. Môi trường văn hoá cũng ngày càng phản ánh quan hệ giữa
một bên là cái tự nhiên gắn với lịch sử loài người, tự nhiên ít nhiều đã được "người hoá", với
một bên là văn hoá như là những lực lượng sáng tạo và nhân văn trong quá trình nhận thức,
cải tạo, chiếm lĩnh giới tự nhiên của con người. Thậm chí, có nơi điều kiện tự nhiên không
mấy thuận lợi, con người vẫn dựng nên những kỳ quan vĩ đại. Đến lượt nó, cái cảnh quan
được "nhân hoá" ấy lại trở thành điểm tựa tinh thần không thể thiếu để bồi đắp cái chân, cái
thiện, cái mỹ trong mỗi con người và mỗi cộng đồng.


Với tư cách thành tố của môi trường văn hoá, hoạt động văn hoá và cảnh quan văn hoá
luôn gắn chặt với nhau. Những hình thái hoạt động văn hoá càng phong phú, đa dạng, cảnh
quan văn hoá càng lành mạnh, hài hoà bao nhiêu, thì môi trường văn hoá càng có sức sống
bấy nhiêu.

Về hệ thống những thiết chế văn hoá
Hệ thống những thiết chế văn hoá được coi là "trung khu thần kinh" của nền văn hoá,
nhằm bảo đảm đời sống văn hoá, tạo thuận lợi cho quá trình "sản xuất", "trao đổi", "phân
phối" và "tiêu dùng" văn hoá của xã hội. Hệ thống này bao gồm các thiết chế cơ sở vật chất văn hoá và các thiết chế xã hội - văn hoá.
Các hệ thống thiết chế cơ sở vật chất - văn hoá như thư viện, nhà văn hoá, bảo tàng, câu
lạc bộ, kinh phí công tác văn hoá, phương tiện thông tin đại chúng... Đây là hệ thống thiết chế
có vai trò trực tiếp đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân, đồng thời thông qua đó
giáo dục chính trị tư tưởng, bồi đắp trình độ văn hoá, nâng cao mặt bằng dân trí. Trong thời
đại hiện nay, các quốc gia dân tộc muốn phát triển vững chắc và lâu bền đều phải đặc biệt
quan tâm đến vấn đề xây dựng và sử dụng hiệu quả các hệ thống thiết chế cơ sở vật chất - văn
hoá, nếu không muốn đánh mất trận địa tư tưởng, đánh mất nền tảng văn hoá dân tộc, bị "xâm
lăng văn hoá".
Các hệ thống thiết chế xã hội - văn hoá hợp thành thể chế xã hội được mọi cá nhân thừa
nhận và tuân thủ, bao gồm hệ thống chính trị - xã hội, hệ thống giáo dục và truyền bá văn hoá,
hệ thống tổ chức cộng đồng - văn hoá, đóng vai trò cầu nối tiếp dẫn giữa môi trường văn hoá
với từng con người và từng cộng đồng xã hội; định hướng chính trị - xã hội cho quá trình lựa
chọn giá trị văn hoá; điều chỉnh các quan hệ văn hoá; quản lý, tôn tạo, giữ gìn, nâng cấp, phát
huy vai trò tích cực của các hình thái hoạt động văn hoá và cảnh quan văn hoá.
Hệ thống chính trị - xã hội là hạt nhân của các hệ thống tổ chức xã hội, đồng thời cũng là
hạt nhân của các hệ thống thiết chế xã hội - văn hoá. Trong tổng thể môi trường văn hoá, hệ
thống thiết chế này không những tạo nên những điều kiện thuận lợi và những phương thức
đặc thù để Đảng lãnh đạo, Nhà nước tổ chức điều hành quản lý và Nhân dân làm chủ về văn
hoá, mà còn đưa hệ chuẩn chân, thiện, mỹ vào nhằm văn hoá hoá toàn bộ hoạt động của các tổ
chức xã hội trong hệ thống chính trị. Nghĩa là, nó đòi hỏi và góp phần quan trọng trực tiếp


xây dựng văn hoá lãnh đạo của Đảng, văn hoá quản lý của Nhà nước và văn hoá làm chủ của
Nhân dân, của các đoàn thể chính trị quần chúng, các tổ chức cộng đồng.
Hệ thống giáo dục và truyền bá văn hoá bao gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước
như các cơ sở giáo dục, các cơ quan phát thanh, truyền hình, thông tấn, báo chí, các nhà xuất

bản, các đoàn nghệ thuật... Đây là những thiết chế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tổ chức đời
sống văn hoá trong xã hội, bảo đảm các nhu cầu, lợi ích và sự thực hiện nghĩa vụ văn hoá của
mỗi công dân. Với tư cách thành tố của môi trường văn hoá, nội dung, phương hướng hoạt
động, cách thức hoạt động của hệ thống giáo dục và truyền bá văn hoá được quy định và điều
chỉnh nhằm tập trung thực hiện dân chủ về văn hoá, đưa văn hoá đến với mỗi người, tạo điều
kiện phát huy khả năng sáng tạo văn hoá vô tận của từng cá nhân và cộng đồng.
Hệ thống tổ chức cộng đồng - văn hoá gồm các hình thức cộng đồng người theo huyết
thống (gia đình, dòng họ); theo ý thích, nghề nghiệp, lứa tuổi; theo làng xã, vùng miền... Hệ
thống này tuy không nằm trong bộ máy hành chính nhà nước, song phản ánh rất đa dạng,
phong phú đời sống văn hoá xã hội và có sức thu hút mọi người do phương thức tổ chức và
hoạt động mang tính tự nguyện và dân chủ cao. Hơn nữa, đó chính là những thiết chế xã hội
trực tiếp nối văn hoá với quá trình hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người. Trong tư
cách thành tố của môi trường văn hoá, chức năng đó được nâng lên rất nhiều lần, đồng thời
nối liền được với các hệ thống thiết chế xã hội - văn hoá khác nhằm thực hiện chức năng
chung của toàn bộ hệ thống thiết chế xã hội - văn hoá.
Với ý nghĩa là tổng hoà các thành tố trên đây, môi trường văn hoá cơ sở có vai trò cực kỳ
quan trọng đối với đời sống cộng đồng và quá trình xây dựng con người, làm cho văn hoá
thực sự "trở thành nhân tố thúc đẩy con người hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống
cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc"(1).
2. Vai trò của môi trường văn hoá cơ sở trong xây dựng đời sống cộng đồng
Trong thực tiễn lịch sử xã hội, sự tác động của văn hoá đến đời sống cộng đồng và quá
trình xây dựng con người bao giờ cũng là sự tác động toàn diện, sâu sắc với rất nhiều phương
thức và góc độ khác nhau. Xây dựng môi trường văn hoá tốt đẹp nhằm định hướng đúng đắn
và lành mạnh hoá, năng động hoá sự tác động đó trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển con người và cộng đồng theo hướng ngày một văn hoá hơn.


Bởi vì, nói đến vai trò của môi trường sống là nói đến tổng thể những điều kiện phát triển con
người cả về vật chất và tinh thần; song, nói đến vai trò của môi trường văn hoá thì chủ yếu là

nói đến tác động tổng thể của những yếu tố, điều kiện từ đời sống vật chất và tinh thần của
con người và cộng đồng nhằm nuôi dưỡng, vun đắp, phát triển những giá trị văn hoá của
chính họ.
Môi trường văn hoá do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử xã hội. Từng môi
trường văn hoá cụ thể mà con người đang tồn tại và hoạt động trong đó là do nhiều thế hệ kế
tiếp để lại, và xét đến cùng, con người đóng vai trò chủ thể trong suốt quá trình phát sinh,
hình thành, vận động và phát triển của môi trường văn hoá. Song, đến lượt nó, môi trường văn
hoá lại trở thành chiếc nôi nuôi dưỡng, "nhào nặn" con người cùng đời sống cộng đồng, phát
huy bản chất người một cách toàn diện trong tất cảc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hiện nay, vai trò của môi trường văn hoá càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của
xã hội và con người. Nhân loại ngày càng nhận thức được rằng sự tăng trưởng kinh tế là hết
sức cần thiết đối với mỗi quốc gia dân tộc, nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với làm lành
mạnh môi trường văn hoá thì xã hội mới thực sự phát triển và phát triển vững bền. Trên thực
tế, có những quốc gia dân tộc mặc dù đã gặt hái được rất nhiều về phương diện tăng trưởng
kinh tế, trở thành những "siêu cường", nhưng vẫn rất bế tắc về phương diện phát triển văn hoá
xã hội, xây dựng đời sống cộng đồng lành mạnh. Ngược lại, có những quốc gia dân tộc vẫn là
hình mẫu đáng học tập về bề dày văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, mặc dù tốc
độ tăng trưởng kinh tế chưa cao.
Những thành tựu nhảy vọt trong cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm cho môi
trường văn hoá xã hội có những bước phát triển mới, đặc biệt là sự tăng nhanh chỉ số và hàm
lượng trí tuệ trong đó. Mặt khác, sự phát triển nhảy vọt này cũng đem lại những cách nhìn
lệch lạc về văn hoá. Thậm chí, đã có người đưa ra những lý thuyết tuyệt đối hoá vai trò của
khoa học và công nghệ đến mức ảo tưởng vào "văn hoá điện tử", "nhất thể hoá văn hoá",
"toàn cầu hoá văn hoá"… Tuy nhiên, do những quy luật phát triển khách quan của văn hoá,
nên xu hướng trở lại với cội nguồn dân tộc, trở lại các giá trị nhân văn truyền thống, đề cao vị
trí con người trong thực tiễn đời sống xã hội đã và đang dần dần chiếm ưu thế tuyệt đối.
Vấn đề xây dựng môi trường văn hoá, do đó, đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của quá trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta. Hơn nữa,



ý nghĩa của việc xây dựng môi trường văn hoá càng trở nên đặc biệt quan trọng ở địa phương,
cơ sở - nơi trực tiếp quản lý, giáo dục và đáp ứng nhu cầu văn hoá toàn diện của nhân dân,
đồng thời là nơi nhân dân trực tiếp tiếp nhận ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Theo một
góc độ nhất định, có thể nói xây dựng môi trường văn hoá thực chất là xây dựng môi trường
văn hoá cơ sở. Đó là môi trường văn hoá làng xã, môi trường văn hoá phường phố, môi
trường văn hoá buôn bản, môi trường văn hoá ở từng cơ sở sản xuất và kinh doanh, môi
trường văn hoá ở các công sở nhà nước, môi trường văn hoá ở các đơn vị cơ sở trong lực
lượng vũ trang...
Từ vai trò của văn hoá đối với con người nói chung, cho thấy tác động của môi trường văn
hoá cơ sở đối với đời sống cộng đồng là không thể phủ nhận.
Trước hết, cần khẳng định vai trò của môi trường văn hoá cơ sở trong xây dựng đời sống
cộng đồng ở việc tạo ra điều kiện tổng thể thuận lợi để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào mọi
lĩnh vực xã hội, nhất là góp phần nâng cao hàm lượng trí tuệ và nhân văn trong đó.
Toàn bộ lịch sử phát triển đời sống xã hội của con người nói chung và từng quốc gia dân
tộc nói riêng thực chất chính là lịch sử phát triển từ con người - động vật đến con người - văn
hoá và ngày một văn hoá hơn. Đó là con đường tự nhiên và tất yếu mà con người và cộng
đồng dù muốn hay không, dù nhận thức được hay chưa nhận thức được, cũng đều phải trải
qua để xã hội phát triển bình thường. Điều làm cho tính cộng đồng của con người khác hẳn
với tính bầy đàn của động vật ở chỗ: quá trình tập hợp thành bầy đàn của động vật chỉ nhằm
duy trì sự tồn tại sinh học trước ngoại cảnh, còn quá trình tập hợp thành cộng đồng xã hội của
con người chủ yếu nhằm làm biến đổi thế giới bằng hoạt động thực tiễn. Đó chính là văn hoá
và chỉ được hiện thực hoá khi con người làm cho môi trường sống của mình trở thành môi
trường văn hoá.
Văn hoá luôn là cái đọng lại trong mỗi con người sau những biến động của cuộc sống, là
cái kết tinh vĩnh hằng trong mỗi dân tộc, cộng đồng qua những thăng trầm của lịch sử, thể
hiện trình độ được vun trồng ngày càng đầy đủ, ngày càng toàn diện của con người cả về thể
lực, trí lực và nhân cách… hướng tới chân, thiện, mỹ. Môi trường văn hoá cơ sở đóng vai trò
hệ điều tiết khiến cho đời sống xã hội ở từng địa phương, cơ sở ngày một đổi mới đúng
hướng, ngày một tiến bộ và văn minh hơn. Môi trường văn hoá cơ sở còn xác định các tiêu



chí để mỗi con người cũng như mỗi cộng đồng tự khẳng định vị thế xã hội và tự đánh giá
trình độ phát triển của chính mình.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay suy cho cùng là nâng cao chất lượng
cuộc sống của con người, bao gồm cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, một cuộc sống
ổn định và bền vững. Trong tiến trình phấn đấu đến mục tiêu đó, sự tăng trưởng kinh tế là cực
kỳ quan trọng và cần thiết. C.Mác đã chỉ ra rằng, "trước hết con người phải ăn, uống, ở và
mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có
thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học..."( [6]). Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời cũng chỉ có
một ham muốn tột bậc là, cùng với được độc lập tự do, "đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành"(1). Phải tăng trưởng kinh tế mới nâng cao được mức sống của con
người, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, điều hệ
trọng hơn là từ cuộc sống đó, con người phải được tồn tại, phát triển trong yêu thương, bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau, trong cái đẹp không ngừng được nhân lên, trong ổn định để phát
huy hết tiềm năng, tự do khẳng định mình, góp phần thúc đẩy xã hội vươn đến đỉnh cao của
cái đẹp.
Thể hiện tinh thần đó, môi trường văn hoá cơ sở tạo ra sự kết hợp hài hoà giữa điều kiện
vật chất và điều kiện tinh thần để nâng cao chất lượng đời sống xã hội, đồng thời kết hợp hài
hoà giữa mức sống cao và lối sống đẹp, vừa an toàn vừa bền vững, không chỉ cho một số ít
người mà cho tất cả mọi người, không chỉ cho thế hệ hiện nay mà còn cho các thế hệ mai sau.
Được xây dựng và phát triển đúng hướng, môi trường văn hoá cơ sở luôn thấm sâu vào tất cả
các thành tố của sự phát triển, trở thành sức mạnh thực hiện mục tiêu phát triển đời sống xã
hội theo hướng ngày càng đề cao tính sáng tạo và tính nhân văn. Từ bản chất của nó, văn hoá
bao giờ cũng là cái đích cuối cùng và là thước đo giá trị của mọi sự phát triển, con người phải
được coi là cứu cánh chứ không phải là phương tiện duy trì và phát triển đời sống cộng đồng.
Hơn nữa, dưới tác động của môi trường văn hoá, quá trình xây dựng đời sống cộng đồng ở
từng địa phương, cơ sở luôn trở nên bền vững, có chiều sâu, vì con người và do con người.
Động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội đã, đang và ngày càng chủ yếu là tiềm năng
sáng tạo to lớn của nguồn lực con người - đó là tiềm lực văn hoá. Là biểu hiện của phương
thức tồn tại người và là tổng thể các giá trị người, môi trường văn hoá cơ sở góp phần tích

cực nâng cao hàm lượng văn hoá trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, làm cho khả năng
phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, cơ sở trở thành hiện thực và đúng hướng. Nâng


cao chất lượng người, cũng có nghĩa nâng cao tính văn hoá trong hoạt động của con người, là
chức năng cố hữu của môi trường văn hoá. Bởi lẽ, bản chất của văn hoá nằm ở thái độ và cách
thức hoạt động của con người. Mọi hoạt động cải biến xã hội của con người và cộng đồng đều
phải bắt đầu từ văn hoá, bằng văn hoá, dựa vào văn hoá và thông qua môi trường văn hoá.
Sức mạnh của văn hoá là sức mạnh giải phóng tiềm năng sáng tạo của con người và cộng
đồng. Sống trong một môi trường văn hoá lành mạnh, con người và cộng đồng không những
được giải phóng mọi năng lực vật chất, mà còn được giải phóng mọi năng lực tinh thần - đó là
sức mạnh thức tỉnh lương tâm và tính thiện. Với ưu thế ấy, môi trường văn hoá cơ sở tác động
và thẩm thấu một cách sâu sắc, tinh tế vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của đời sống cộng đồng,
tạo nên những hệ thống động lực sâu xa, căn bản để thúc đẩy xã hội phát triển và phát triển
bền vững. Văn hoá còn là hệ tiêu chí cơ bản có khả năng kích thích, thúc đẩy tiến trình tự vận
động theo xu hướng đi lên của đời sống cộng đồng, từ xã hội mang tính bầy đàn nguyên thuỷ
đến xã hội văn minh, hiện đại.
Trong thực tiễn đời sống xã hội hiện đại, tất cả những gì được coi là động lực xã hội đều ít
nhiều vận động theo lôgíc của văn hoá. mặt khác, văn hoá luôn thể hiện vai trò định hướng
nhân văn cho sự tác động của các yếu tố khác của đời sống xã hội đến quá trình phát triển của
con người và cộng đồng. Các giá trị văn hoá vật chất và giá trị văn hoá tinh thần trong môi
trường văn hoá cơ sở đều thể hiện tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với đời sống cộng
đồng trên các lĩnh vực: văn hoá lao động sản xuất, văn hoá tổ chức đời sống vật chất và tinh
thần, văn hoá chính trị, văn hoá khoa học, văn hoá giáo dục, văn hoá đạo đức, văn hoá pháp
luật, văn hoá thẩm mỹ... Đặc biệt, các hoạt động văn hoá nghệ thuật, nếu được định hướng
đúng đắn trong một môi trường văn hoá lành mạnh và năng động, sẽ không chỉ là nguồn sinh
lợi trực tiếp, không chỉ là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cổ vũ các
hoạt động thương mại, khuyến khích du lịch, thu hút các sáng kiến làm ăn mới…, mà còn là
nguồn sinh lợi lâu bền thông qua việc bồi đắp con người.
Môi trường văn hoá cơ sở không những thể hiện một cách sinh động, phong phú, đa dạng

vai trò động lực của văn hoá đối với đời sống cộng đồng, mà còn làm cho văn hoá thực sự trở
thành một trong những mục tiêu quan trọng bậc nhất của quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới tiến bộ. Việc quán triệt quan điểm của Đảng coi văn hoá là mục tiêu của sự phát
triển kinh tế - xã hội luôn tạo tiền đề cần thiết và là điều kiện không thể thiếu để môi trường
văn hoá cơ sở phát huy khả năng thúc đẩy, kích thích sự phát triển của mọi lĩnh vực đời sống


xã hội hướng đến hoàn thành các kế hoạch phát triển của từng địa phương, cơ sở. Nếu mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của từng địa phương, cơ sở nói riêng không tính
đến văn hoá, tách rời các chỉ số văn hoá thì sẽ tự làm triệt tiêu nguồn động lực căn bản của sự
phát triển.
Ngay bản thân sự tăng trưởng kinh tế ngày nay cũng không chỉ được nhìn nhận ở tốc độ
tăng trưởng, mà còn phải được đong do bởi chất lượng đời sống văn hoá. Nếu không đồng
thời nắm được văn hoá thì thành tựu về kinh tế cũng không bền, tình hình chính trị và trật tự
an ninh sẽ không ổn định. Trên thực tế, ở địa phương, cơ sở nào việc xác lập phương hướng
phát triển văn hoá và môi trường văn hoá, đề xuất các giải pháp quan trọng để điều chỉnh các
thang bậc giá trị văn hoá, quan hệ văn hoá, hoạt động văn hoá, thiết chế văn hoá trong môi
trường văn hoá cơ sở… được chú trọng cùng với các kế hoạch phát triển kinh tế, thì địa
phương, cơ sở đó luôn hoàn thành thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Chính từ nhận thức đúng đắn về vai trò của môi trường văn hoá trong việc tạo ra điều kiện
tổng thể thuận lợi để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào mọi lĩnh vực xã hội, Đảng và Nhà nước
đã có chiến lược văn hoá đúng đắn, bảo đảm cho toàn bộ đời sống xã hội phát triển toàn diện,
hài hoà, đồng bộ. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội luôn được đặt trên cơ sở nền tảng văn
hoá, chú trọng phát triển văn hoá cả tầm vĩ mô lẫn vi mô. Đảng ta đã khẳng định: "Tăng
nhanh mức đầu tư của Nhà nước và của xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hoá"( [7]). Ngay
trong quy hoạch một đô thị, một đường phố, một làng xã, một đơn vị... thì văn hoá cũng luôn
được tính đến như là thành tố không thể thiếu, là thước đo quan trọng đối với tính khả thi của
toàn bộ quy hoạch. Những người kinh doanh giỏi, quản lý giỏi cũng đang cố gắng phấn đấu

để đồng thời là người có trình độ văn hoá, có ý thức sâu sắc về cái đẹp... Và ngay trong lĩnh
vực tiêu dùng, cả về nhu cầu và cách thức của nó, tính văn hoá cũng đang dần dần biểu hiện
rõ nét.
Về phương thức tác động, vai trò môi trường văn hoá cơ sở trong xây dựng đời sống cộng
đồng thể hiện ở việc làm cho văn hoá trở thành giá trị cơ bản hàng đầu luôn chứa đựng một
cách sống động trong mọi lĩnh vực xã hội, đồng thời thấm vào từng "tế bào" xã hội.


Dưới tác động của môi trường văn hoá cơ sở, sự phát triển đời sống cộng đồng ở từng địa
phương, cơ sở không chỉ chạy theo tốc độ, mà điều chủ yếu là phải lấy đạo lý nhân văn làm
nền tảng và mục tiêu; phát triển phải đặt con người vào vị trí trung tâm - vì con người, cho
con người và do con người. Chỉ khi nhận thức đầy đủ điều đó, chúng ta mới tìm ra được cách
thức phù hợp để khai thác, phát huy và điều tiết các tiềm năng, nguồn lực và động lực cho sự
phát triển lâu bền của đất nước cũng như từng địa phương, cơ sở. Giải phóng con người và
cộng đồng thoát khỏi tình trạng nghèo đói phải gắn liền với giải phóng họ thoát khỏi tình
trạng dốt nát; phát triển các giá trị nhân văn trong mối quan hệ giữa người với người phải gắn
liền với phát triển các giá trị nhân văn trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa cá
nhân với xã hội.
Đảng ta đã khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng
cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất
nước"(1). Môi trường văn hoá cơ sở tạo điều kiện, đồng thời đặt ra yêu cầu khách quan để
hiện thực hoá quan điểm đó của Đảng theo hướng: các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước nói chung, cũng như của từng địa phương, cơ sở nói riêng, phải được xây dựng và
thực hiện trên cơ sở sự tôn trọng nhân cách, nhân phẩm, tính độc lập, độc đáo và tự do sáng
tạo của từng con người và cả cộng đồng xã hội. Các tiêu chí phát triển xã hội đều phải tính
đến yếu tố văn hoá, nhằm đáp ứng các nhu cầu của đời sống văn hoá, khơi thác và phát huy
sức mạnh của văn hoá, đồng thời xuất phát từ yêu cầu xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh.
Môi trường văn hoá cơ sở tạo điều kiện để khắc phục quan điểm sai lầm coi con người chỉ

thuần tuý là lực lượng sản xuất vật chất, là phương tiện để thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Văn hoá là trình độ người, những giá trị văn hoá nằm ngay trong con người,
được tích hợp trong lịch sử và cần được bồi dưỡng, phát huy trong hiện tại cũng như trong
tương lai. Khi được nhìn nhận trong tổng thể môi trường văn hoá cơ sở, các giá trị văn hoá sẽ
có điều kiện nhân bội sức mạnh và vai trò của chúng đối với quá trình bồi dưỡng phẩm chất,
năng lực và bản lĩnh của từng con người cũng như phát huy sức mạnh của cả cộng đồng. Môi
trường văn hoá cơ sở không chỉ góp phần trực tiếp nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lưu
trữ và xử lý thông tin, trình độ phát triển tư duy, trí tuệ, trình độ quan hệ, trình độ sáng tạo của


con người trong đời sống và hoạt động xã hội, từ lao động sản xuất, giao tiếp đến sinh hoạt
gia đình, mà còn huy động và phát huy sức mạnh làm chủ tiềm tàng của mỗi cá nhân và của
cả cộng đồng. Sức mạnh đó phần lớn và chủ yếu được phát triển trong môi trường văn hoá cơ
sở.
Có một môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, xã hội hoàn toàn có đủ sức mạnh để vươn
lên. Phản ánh sâu sắc những đặc điểm của từng địa phương, cơ sở, môi trường văn hoá ở đây
đóng vai trò tích cực tạo ra những điều kiện thuận lợi để giáo dục con người và xây dựng
cộng đồng xã hội một cách toàn diện, trong đó trước hết và chủ yếu là xây dựng những phẩm
chất và năng lực hoạt động cũng như hoàn thiện những quan hệ văn hoá trong đời sống cộng
đồng. Môi trường văn hoá cũng là nơi đáp ứng nhu cầu văn hoá toàn diện của các tầng lớp
nhân dân, cũng như tạo ra những điều kiện thuận lợi để quần chúng nhân dân "sản xuất", "trao
đổi", "phân phối" văn hoá. Mặt khác, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của những đặc điểm của từng
địa phương, cơ sở nên môi trường văn hoá cơ sở luôn mang những nét riêng trong cả phương
thức, tính chất và cơ chế tác động. Song nhìn chung, môi trường văn hoá cơ sở tác động đến
con người chủ yếu bằng phương thức văn hoá hoá, nghĩa là tác động vào nhận thức, ý chí,
tâm hồn tình cảm của mỗi người thông qua việc đáp ứng nhu cầu văn hoá chính đáng của họ.
Thông qua vai trò quan trọng đặc biệt trong xây dựng đời sống cộng đồng, môi trường văn
hoá cơ sở còn góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
chính trị - xã hội của từng địa phương, cơ sở. Hơn nữa, môi trường văn hoá cơ sở không
những tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân, mà còn đóng vai

trò quan trọng trong việc huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân đẩy mạnh sản xuất, phát
triển kinh tế; thực hiện đúng quan điểm, đường lối của Đảng, tuân thủ chính sách và pháp luật
của Nhà nước một cách tự giác, có nền nếp; giữ vững trật tự an ninh và an toàn xã hội; làm
cho tổ chức và hoạt động xã hội ở từng địa phương, cơ sở được đặt trên nền tảng vững chắc,
có chiều sâu: nền tảng văn hoá.
Xây dựng môi trường văn hoá cơ sở thực chất là quá trình xây dựng tất cả những yếu tố
hợp thành điều kiện tổng thể cho quá trình văn hoá hoá đời sống cộng đồng ở các làng xã,
phường phố, buôn bản, cơ quan nhà nước, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị cơ sở trong lực
lượng vũ trang... Đó là quá trình làm cho mỗi địa phương, cơ sở trở thành một pháo đài chính
trị - tư tưởng, thành cái nôi nuôi dưỡng, hoàn thiện những giá trị văn hoá và hạn chế, loại bỏ
các phản giá trị trong đời sống xã hội. Hơn nữa, môi trường văn hoá, với cơ chế tác động


"mềm" vào nhu cầu văn hoá và sự hấp dẫn, chinh phục con người bằng sức mạnh "uyển
chuyển" của văn hoá, luôn góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của các địa
phương, cơ sở một cách đặc biệt hiệu quả.
Trong thực tiễn, môi trường văn hoá cơ sở ở nước ta đã, đang và sẽ thể hiện vai trò quan
trọng trong việc tạo điều kiện tổng thể thuận lợi xây dựng đời sống cộng đồng ở từng địa
phương, cơ sở theo hướng "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". "Tiên tiến”, "bản sắc dân tộc"
thực chất là những đặc trưng cho giá trị văn hoá của nền văn hoá Việt Nam trong thời đại Hồ
Chí Minh, nên đòi hỏi phải được xây dựng bằng con đường văn hoá hoá và trên nền tảng văn
hoá để thấm sâu bền vững vào nhân cách con người Việt Nam mới. Môi trường văn hoá cơ sở
còn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong việc giải quyết mâu thuẫn khách quan giữa
yêu cầu nâng cao tính trí tuệ và nhân văn của mọi hoạt động xã hội với thực trạng còn bất cập,
yếu kém trong đời sống văn hoá và công tác quản lý văn hoá ở một số địa phương, cơ sở một trong những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện nay.
Về nội dung tác động, vai trò của môi trường văn hoá cơ sở đối với quá trình xây dựng đời
sống cộng đồng được thể hiện trực tiếp trong xác lập và thực hiện hệ thống các thang bậc giá
trị văn hoá, hệ thống các tiêu chí quan hệ văn hoá và hệ thống các chuẩn mực hoạt động văn
hoá.
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử bao

giờ cũng gắn liền với việc xác lập và thực hiện hệ thống các thang bậc giá trị văn hoá nhằm
định hướng và điều chỉnh hành vi của con người trong cộng đồng. Thang bậc giá trị văn hoá
là sự chế định hoá các chuẩn chân, thiện, mỹ trong sự thống nhất hữu cơ của chúng, tạo nên ở
mỗi cá nhân hay cộng đồng một định hướng chung thống nhất trong lựa chọn và thực hiện giá
trị. Tuy nhiên, quá trình xác lập và thực hiện hệ thống này không hề diễn ra theo thể thức "ban
bố" một cách áp đặt, mà hoàn toàn dưới tác động của môi trường văn hoá, tức là theo phương
thức văn hoá hoá.
Đời sống chung của xã hội luôn đòi hỏi việc đáp ứng các nhu cầu đa dạng và theo nhiều
phương thức khác nhau của từng cá nhân phải có sự lựa chọn tối ưu; mặt khác, việc từng
thành viên đánh giá nhân cách văn hoá người khác nhằm định đoạt lợi ích chung cho cộng
đồng cũng phải dựa trên một hệ chuẩn mang tính phổ quát. Với việc thực hiện các thang bậc
giá trị văn hoá, môi trường văn hoá cơ sở đóng vai trò định hướng chủ yếu đối với nhu cầu đa


×