Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

thực tập thiên nhiên: tìm hiểu đa dạng sinh học của dương xỉ tại nơi thực tập, vai trò của dương xỉ đối với môi trường xung quanh và đề xuất biện pháp quản lý và bảo tồn nhóm sinh vật này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.37 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề thực tập.............................................................2
2. Mục tiêu của chuyên đề thực tập......................................................................2
3. Nội dung thực hiện chuyên đề thực tập...........................................................2
PHẦN I: LỘ TRÌNH, ĐIỂM KHẢO SÁT VÀ CÁC NỘI DUNG THỰC TẬP
1.1 Tuyến lộ trình và địa điểm khảo sát...............................................................4
1.2. Các nội dung thực tập....................................................................................6
PHẦN II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NGOÀI THỰC ĐỊA
2.1. Phương pháp quan sát...................................................................................7
2.2. Phương pháp chụp ảnh, ghi chép..................................................................7
2.3. Phương pháp đo đạc, định vị.........................................................................8
2.4. Phương pháp mô tả........................................................................................8
PHẦN III: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN THIÊN
NHIÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Giới thiệu chung về Tam Đảo.........................................................................9
3.2. Đặc điểm tự nhiên...........................................................................................9
3.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường........................................................10
3.4. Kinh tế - Xã hội............................................................................................16
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Giới thiệu chung về dương xỉ.......................................................................17
4.2. Dương xỉ Tam Đảo.......................................................................................18
4.3. Vai trò của cây dương xỉ...............................................................................22
4.4. Đề xuất các biện pháp bảo tồn và quản lý nhóm Dương xỉ.......................24
KẾT LUÂN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận và kiến nghị về mặt chuyên môn.....................................................27
2. Đề xuất ý kiến của nhóm về chuyến đi thực tập thiên nhiên tại Tam Đảo. .28
1


MỞ ĐẦU


Thực tập thiên nhiên là một trong những học phần quan trọng và bổ ích đối với
sinh viên hệ Đại học chuyên ngành Quản lí Tài nguyên và Môi trường.
1. Tính cấp thiết của chuyên đề thực tập
Dương xỉ là loài cây mọc hoang dại ở các rừng nhiệt đới, chúng rất dễ sống và
có khả năng phát tán nhanh nhờ gió vì vậy chúng có số lượng tương đối đông đúc.
Ngành Dương xỉ (danh pháp khoa học: Pteridophyta) là một nhóm gồm khoảng 12.000
loài với nhiều tác dụng có lợi với môi trường tự nhiên và một số loài hiện nay được
mang về trồng nhiều trong gia đình bởi vẻ đẹp hoang dã và màu sắc phong phú. Không
chỉ là cây cảnh hoang dại, cây dương xỉ còn nhiều công dụng thú vị khác như: làm
thuốc, khử độc tố asen có trong đất và nước thải ở những vùng khai thác khoáng sản.
Cụ thể tại địa điểm thực tập, khu vực núi Rùng Rình (Tam Đảo - Vĩnh Phúc),
Vườn quốc gia Tam Đảo với 57 loài dương xỉ khác nhau, chúng có vai trò quan trọng
trong việc thanh lọc môi trường không khí và làm sạch môi trường nước nơi đây.
Vì vậy, tính cấp thiết của việc tìm hiểu đa dạng sinh học của dương xỉ
(Polypodiophyta) ở khu vực thực tập đối với sinh viên ngành Quản lý Tài nguyên và
Môi trường là biết được số lượng loài dương xỉ ở địa điểm thực tập và nắm bắt được
vai trò của chúng đối với môi trường địa phương. Từ đó cùng đưa ra các biện pháp để
bảo vệ, phát triển loài này một cách hợp lý, tận dụng được tối đa lợi ích của chúng đặc
biệt là với môi trường tự nhiên.
2. Mục tiêu của chuyên đề thực tập
- Tìm hiểu vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên khu vực thực tập và sự phong phú đa
dạng của tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng của
địa phương.
- Tìm hiểu đa dạng sinh học của dương xỉ (Polypodiphyta) tại Vườn quốc gia
Tam Đảo, khu vực núi Rùng Rình
- Tìm hiểu sâu hơn về vai trò của dương xỉ đối với con người và tự nhiên, đặc
biệt là môi trường khu vực thực tập, từ đó đề xuất giải pháp quản lý và bảo tồn nhóm
sinh vật này.
3. Nội dung thực hiện chuyên đề thực tập
- Tiến hành thực tế tại khu vực núi Rùng Rình, Vườn quốc gia Tam Đảo.

2


- Tìm hiểu đa dạng sinh học của dương xỉ tại khu vực thực tập.
- Tìm hiều các thông tin cụ thể về loài dương xỉ: đa dạng về loài, số lượng, vai
trò đối với môi trường địa phương.
- Đưa ra các kiến nghị, biện pháp bảo tồn và phát triển loài dương xỉ hợp lí.

3


PHẦN I: LỘ TRÌNH, ĐIỂM KHẢO SÁT VÀ CÁC NỘI DUNG THỰC TẬP
1.1 Tuyến lộ trình và địa điểm khảo sát.
1.1.1. Tuyến lộ trình
Từ Hà Nội, theo hướng đi Vĩnh Phúc, qua khu công nghiệp Nam Thăng Long,
chừng hơn 2 giờ đồng hồ đi ô tô, chúng ta sẽ có mặt tại Vườn quốc gia Tam Đảo, nơi
có các đặc điểm địa lý, khí hậu đặc trưng cùng hệ động thực vật phong phú, đa dạng,
rất thích hợp cho việc nghiên cứu khoa học và học tập của sinh viên.

Hình 1: Bản đồ tuyến lộ trình Hà Nội - Tam Đảo
(Ảnh: Nguyễn Hà Trang)
Với những đặc điểm về địa hình, khí hậu, vị trí địa lý cùng với cảnh quan môi
trường tự nhiên phong phú và đa dạng, cùng với lộ trình (chỉ khoảng 80km từ Hà Nội,
mất chừng 2 giờ đồng hồ trên ô tô), đặc điểm kinh tế xã hội phù hợp, Tam Đảo thực sự
là địa điểm lý tưởng để thực tập thiên nhiên. Dọc theo quốc lộ 3, đến đại phận tỉnh
Vĩnh Phúc, rồi từ Thành phố Vĩnh Yên men theo tỉnh lộ 302C ta lên đến Tam Đảo.
1.1.2. Địa điểm khảo sát
Điểm khảo sát đầu tiên tại vườn quốc gia Tam Đảo đó là Trạm kiểm lâm Tam Đảo, với
tọa độ là 21o27’ Bắc, 105o38’ Đông. Với hệ động thực vật phong phú, đặc biệt là sự
xuất hiện của nhiều loài dương xỉ mọc ven đường lên đỉnh Rùng Rình. Mật độ xuất

hiện cùng độ đa dạng và phong phú của các loài dương xỉ ngày càng dày đặc tính từ
Trạm kiểm lâm Tam Đảo (21o27’B,105o38’Đ) đến đỉnh núi Rùng Rình

4


(21o31’B,105o40’Đ). Tại đây ta thấy rõ sự có mặt và phân bố đông đảo của dương xỉ
túi bào tử nhỏ, hay dương xỉ thật sự (Polypodiphyta).

Hình 2: Trạm kiểm lâm Tam Đảo (Nguồn: Internet)
Điểm khảo sát thứ hai đó là vùng có tọa độ 21 o29’B, 105o39’Đ, trên đoạn đường
từ Trạm kiểm lâm Tam Đảo lên đỉnh núi Rùng Rình (gần trạm dừng chân cách bìa
rừng khoảng 3km). Tại đây ta thấy rõ sự đa dạng của ngành dương xỉ, với nhiều chủng
loại mọc xen kẽ nhau.
Điểm khảo sát thứ ba đó là khu vực gần Tháp truyền hình Tam Đảo, có tọa độ
21 22’B, 104o58’Đ. Tại đây sự có mặt của dương xỉ cũng khá dày đặc nhưng chủ yếu
là dương xỉ túi bào.
o

Các địa điểm khảo khát được thể hiện rõ trên hình sau:

Hình 3: Sơ đồ tuyến du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo (Nguồn: Internet).
5


1.2. Các nội dung thực tập
- Thực tế tại khu vực núi Rùng Rình, Vườn quốc gia Tam Đảo, cụ thể là đoạn
đường từ Trạm kiểm lâm Tam Đảo lên đến đỉnh Rùng Rình (chú ý ba điểm khảo sát
chính).
- Chụp ảnh, ghi chép cụ thể về sự đa dạng, phong phú và vai trò của dương xỉ

trong khu vực thực tập qua những gì quan sát được và lĩnh hội được từ giáo viên
hướng dẫn và các cán bộ phụ trách tại Vườn quốc gia Tam Đảo. Chú ý chú thích cẩn
thận, cụ thể những thông tin quan trọng, cần thiết cho bài báo cáo thực tập.
- Tìm hiểu về các biện pháp bảo tồn và phát triển nhóm sinh vật này mà các cán
bộ của Vườn quốc gia đang áp dụng, từ đó đưa ra thêm được các biện pháp khác để tận
dụng được tối đa lợi ích của chúng đối với môi trường.

6


PHẦN II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NGOÀI THỰC ĐỊA
2.1. Phương pháp quan sát
Đây là phương pháp quan trọng để đánh giá và có những kết luận ban đầu để
ghi chép trong nhật kí, tạo cơ sở để đánh giá và báo cáo sau này. Phương pháp này đòi
hỏi sự kết hợp nhuần nhuyễn và nhạy bén của các giác quan như thị giác, thính giác
và ghi chép lại các yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu, nhằm mô tả, phân tích,
nhận định và đánh giá vấn đề.
Phương pháp quan sát, đặc biệt là quan sát nhanh là phương pháp nghiên cứu
ngoài thực địa rất hữu ích, vì nó cung cấp cho ta lượng thông tin cần thiết về vấn đề
cần nghiên cứu ngoài thực tiễn. Muốn việc quan sát đạt hiệu quả cao nhất, cần nhanh
nhạy trong các giác quan để có thể thu thập được bằng chứng, tài liệu để phục vụ cho
công tác nghiên cứu, báo cáo. Ngoài ra cần xác định rõ mục tiêu, đối tượng, nội dung,
phạm vi cần quan sát, đưa ra các tiêu chí, chỉ dẫn khi quan sát cụ thể ngoài thực địa.
Người quan sát cần ghi chép lại những thông tin chính về nội dung, đối tượng quan
sát, đồng thời cần có sự liên hệ so sánh giữa thông tin ta quan sát được với các thông
tin khác.
Phương pháp quan sát về cơ bản có thể chia thành quan sát trực tiếp và quan sát
gián tiếp. Quan sát trực tiếp đó là quan sát trực tiếp hành vi của con người, sự vật sự
việc, đối tượng cần quan sát ngay tại bối cảnh và thời gian thực tế diễn ra. Quan sát
gián tiếp là không quan sát trực tiếp hành vi mà đi thu thập các dấu vết còn sót lại

ngoài thực địa (ví dụ như vết lông chim, dấu chân,...)
2.2. Phương pháp chụp ảnh, ghi chép
Phương pháp chụp ảnh, ghi chép cũng là một phương pháp quan trọng khi thực
tập ngoài thực địa, đây là phương pháp giúp chúng ta có thêm những bằng chứng, tài
liệu để hoàn thiện và củng cố vững chắc bản báo cáo.
Phương pháp chụp ảnh là phương pháp quan trọng nhằm bổ sung những dẫn
chứng cụ thể, sinh động bằng hình ảnh cho bài báo cáo ngoài thực địa của chúng ta.
Đối với phương pháp này, khi tác nghiệp ngoài thực địa, ta cũng cần lưu ý về độ sáng
tối, độ nét, đặc điểm đối tượng cần chụp ảnh; đồng thời cần đề cao tính chính xác và
chân thực lên hàng đầu. Tuy những bức ảnh chụp đối tượng ngoài thực địa phục vụ
cho công tác nghiên cứu khoa học và học tập, nhưng cũng đòi hỏi tính chất nghệ thuật
trong mỗi tấm hình, làm sao để bức hình phải thật sáng rõ, chân thực, tạo cơ sở để làm
dẫn chứng khoa học cho những bản báo cáo sau này.
Đối với phương pháp ghi chép, vì đây là công tác thực tập thiên nhiên, ghi chép
ngoài thực địa, nên cần lưu ý việc ghi chép hết sức khẩn trương, ghi ngắn gọn, tránh
dài dòng, việc ghi chép có thể sử dụng các ký tự, ký hiệu đặc biệt, viết tắt, miễn sao có
thể hiểu được để tạo cơ sở dẫn chứng làm báo cáo. Việc ghi chép không cần phải tuân
7


theo các quy tắc nhất định, cần ghi tốc ký, ghi những đặc điểm đặc trưng nhất, khái
quát nhất và quan trọng nhất về đối tượng, nội dung và phạm vi cần nghiên cứu, tránh
ghi chép nhiều, lặp ý, dài dòng. Cần xác định rõ những thông tin cần thiết để ghi chép,
không nên ghi thừa thông tin hoặc thiếu thông tin, cần biết vừa đủ lượng thông tin cần
để ghi chép, làm báo cáo.
2.3. Phương pháp đo đạc, định vị
Phương pháp đo đạc, định vị là một phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa,
giúp chúng ta định vị trực tiếp, xác định vị trí chính xác địa điểm cần khảo sát, nghiên
cứu ngoài thực địa. Ngoài ra, phương pháp này còn cung cấp cho ta những số liệu
chính xác từ việc đo đạc các thông số của đối tượng ngoài hiện trường thực địa, tạo

dẫn chứng cụ thể để so sánh, lập báo cáo. Công tác đo đạc và định vị cũng cần tuân thủ
các quy tắc nhất định của việc đo đạc, định vị ngoài thực địa. Việc đo đạc hay định vị
phụ thuộc nhiều vào các máy móc, thiết bị cụ thể vì có độ chính xác cao hơn. Sau khi
quan sát tại hiện trường, chúng ta cần thêm các số liệu cụ thể, vị trí cụ thể của đối
tượng nghiên cứu, ta sử dụng phương pháp định vị và đo đạc để cung cấp thêm những
dẫn chứng quan trọng. Phương pháp ghi chép lúc này sẽ có nhiệm vụ ghi lại nhanh
những thông số mà phương pháp đo đạc và định vị vừa xác định xong.
Đối với phương pháp định vị, ta có thể định vị bằng điện thoại có GPS, định vị
toàn cầu, để lấy tọa độ cụ thể. Nếu không thể lấy được tọa độ trực tiếp, ta có thể lấy
một cách gián tiếp, đó là lấy tọa độ của khu vực gần đấy và ước lượng tọa độ cho khu
vực khảo sát của mình. Ngoài ra, để tăng tính chính xác, ta có thể mô tả thêm những
điểm mốc xung quanh để người đọc dễ hình dung.
2.4. Phương pháp mô tả
Khi lập báo cáo, việc chúng ta chỉ nêu ra tọa độ, vị trí phạm vi khảo sát hay chỉ
đưa ra những số liệu từ việc đo đạc đối tượng cần nghiên cứu, khảo sát thì sẽ khiến
người đọc khó hình dung. Vì vậy, phương pháp mô tả có vai trò làm sáng tỏ hơn, khiến
người đọc hình dung rõ ràng về đối tượng, phạm vi, nội dung vấn đề cần nghiên cứu,
nhằm cụ thể hóa hình ảnh bằng việc mô tả những nét cơ bản, những đặc điểm, điểm
mốc của đối tượng cần nghiên cứu. Ví dụ khi nói đến khu vực khảo sát ở tọa độ
21o29’B, 105o38’Đ, rất khó hình dung vị trí cụ thể của điểm khảo sát này, vì vậy, vai
trò của phương pháp mô tả sẽ cụ thể hóa điểm khảo sát này bằng những vật mốc cụ
thể, rằng điểm khảo sát này cách Trạm kiểm lâm Tam Đảo chừng 40m. Phương pháp
mô tả cũng chính là sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau, như phương pháp
quan sát, đánh giá, ghi chép, định vị, hay đo đạc…

8


PHẦN III: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN THIÊN
NHIÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU

3.1. Giới thiệu chung về Tam Đảo
Tam Đảo là tên gọi của 3 đỉnh núi cao (so mặt nước biển): Thiên Thị (1.375m),
Thạch Bàn (1.388m), Phù Nghĩa (1.375m). Dãy núi Tam Đảo kéo dài trên 80km, với
khoảng 20 đỉnh núi cao, cao nhất là đỉnh Tam Đảo Bắc (1.592m). Huyện Tam Đảo mới
thành lập theo nghị định số 153/2003/NĐ-CP, ngày 9 tháng 12 năm 2003 của Chính
phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở các xã: Yên Dương, Đạo
Trù, Bồ Lý của huyện Lập Thạch, các xã: Đại Đình, Tam Quan, Hồ Sơn, Hợp Châu
của huyện Tam Dương, xã Minh Quang của huyện Bình Xuyên và thị trấn Tam Đảo
của thành phố Vĩnh Yên.
Tam Đảo nằm ở phía Đông - Bắc tỉnh
Vĩnh Phúc, gần ngã ba ranh giới của Vĩnh Phúc
với hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên. Phía
Đông Nam và Nam của huyện Tam Đảo giáp
huyện Bình Xuyên, phía Nam và Tây Nam giáp
huyện Tam Dương, phía Tây giáp huyện Lập
Thạch, phía Tây Bắc giáp huyện Sơn Dương của
tỉnh Tuyên Quang, phía Bắc và Đông Bắc giáp
huyện Đại Từ của tỉnh Thái Nguyên. Tam Đảo
cách Thành phố Vĩnh Yên 10 km và cách Thành
phố Hà Nội 70 km, những nơi có dân số đông,
có sự phát triển kinh tế năng động, có sức lan
tỏa lớn. Vì vậy, Tam Đảo có những điều kiện
nhất định trong việc khai thác các tiềm năng về
khoa học công nghệ, về thị trường cho các hoạt
động nông, lâm sản, du lịch và các hoạt động
kinh tế khác.

Hình 4: Bản đồ hành chính huyện
Tam Đảo - Vĩnh Phúc
( Nguồn: Internet)


3.2. Đặc điểm tự nhiên
3.2.1. Địa hình
Tam Đảo là huyện miền núi, nằm trên phần chính, phía Tây Bắc của dãy núi
Tam Đảo, nơi bắt nguồn của sông Cà Lồ (sông này nối với sông Hồng và sông Cầu).
Địa hình của Tam Đảo khá phức tạp, đa dạng vì có cả vùng cao và miền núi, vùng gò
đồi và vùng đất bãi ven sông. Vùng miền núi và núi cao với diện tích khoảng 11.000
ha, chủ yếu do Vườn Quốc gia Tam Đảo và Lâm trường Tam Đảo quản lý. Diện tích
còn lại bao gồm các vùng núi thấp, vùng bãi do các xã quản lý và sử dụng.
9


Các vùng của huyện chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, mỗi vùng đều
có những điều kiện tự nhiên, những nguồn lực kinh tế đặc thù tạo nên những sắc thái
riêng trong phát triển Kinh tế - Xã hội, nhất là kinh tế nông, lâm nghiệp và dịch vụ du
lịch. Tam Đảo nổi bật với địa hình vùng núi bởi dãy núi Tam Đảo, vùng rừng quốc gia
tạo cảnh quan và những điều kiện đặc thù về yếu tố lịch sử, tín ngưỡng cho sự phát
triển du lịch, nhất là du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái và du lịch tâm linh.
3.2.2. Khí hậu
Do địa hình phức tạp, nhất là sự khác biệt về địa hình giữa vùng núi cao với
đồng bằng thấp ven sông nên khí hậu, thời tiết của huyện Tam Đảo được chia thành 2
tiểu vùng rõ rệt. Cụ thể:
- Tiểu vùng miền núi, gồm toàn bộ vùng núi Tam Đảo thuộc trị trấn Tam Đảo và
các xã Minh Quang, Hồ Sơn, Tam Quan, Đại Đình, Đạo Trù... có khí hậu mát mẻ,
nhiệt độ trung bình 18oC-19oC, độ ẩm cao, quanh năm có sương mù tạo cảnh quan đẹp.
Khí hậu tiểu vùng miền núi mang sắc thái của khí hậu ôn đới, tạo lợi thế trong phát
triển nông nghiệp với các sản vật ôn đới và hình thành các khu nghỉ mát, phát triển du
lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng vào mùa hè.
- Tiểu vùng khí hậu vùng thấp, bao gồm phần đồng bằng của các xã Minh
Quang, Hồ Sơn, Tam Quan, Đại Đình, Đạo Trù và toàn bộ diện tích của các xã còn lại.

Tiểu vùng khí hậu của vùng mang các đặc điểm khí hậu gió mùa nội chí tuyến vùng
Đông Bắc Bắc Bộ. Nhiệt độ của tiểu vùng trung bình ở mức 22 oC-23oC, độ ẩm tương
đối trung bình khoảng 85-86%, lượng mưa trung bình 2.570 mm/năm và thường tập
trung vào tháng 6 đến tháng 9 trong năm.
Tam Đảo nằm trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc nên chịu ảnh hưởng
của chế độ nhiệt đới gió mùa ẩm. Mưa bão có sự tác động tiêu cực đến sản xuất và đời
sống. Chế độ gió theo mùa, mùa hè chủ đạo là gió Đông Nam, mùa đông chủ đạo là
gió mùa Đông Bắc.
3.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Tam Đảo có phong cảnh núi non hùng vĩ, bao quát cả một vùng đồng bằng Bắc
bộ rộng lớn và có khí hậu mát mẻ quanh năm. Không chỉ vậy, Tam Đảo còn có một
nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú và độc đáo.
3.3.1. Tài nguyên sinh vật
Hệ thực vật rất đa dạng và phong phú, với nhiều thành phần loài, chủng loại,
nguồn gen. Vườn quốc gia Tam Đảo có 1.282 loài thực vật, trong đó có các loài điển
hình cho vùng cận nhiệt đới. Có 42 loài đặc hữu và 64 loài quý hiếm cần được bảo tồn
và bảo vệ như hoàng thảo Tam Đảo (Dendrobium daoensis), trà hoa dài (Camellia

10


longicaudata), trà hoa vàng Tam Đảo (Camellia petelotii), hoa tiên (Asarum petelotii),
chùy hoa leo (Molas tamdaoensis), trọng lâu kim tiền (Paris delavayi).
Dọc hai bên đường lên đỉnh Rùng Rình là sự xuất hiện dày đặc của dương xỉ,
càng lên cao, sự phong phú và đa dạng của các loài dương xỉ càng gia tăng. Ta thấy có
sự xuất hiện của nhiều loài dương xỉ hơn, có những loài dương xỉ rất quý và hiếm, ít
gặp, ví dụ như những cây dương xỉ cổ đại; những cây dương xỉ thuộc Bộ dương xỉ
mộc (Cyatheales) với đủ hình hài, màu sắc; hay có những cây dương xỉ thuộc nhóm
Marattiopsida (Dương xỉ tòa sen)… Ngoài dương xỉ, các loài thực vật khác cũng xuất
hiện nhiều, góp phần làm gia tăng tính đa dạng sinh học của Vườn quốc gia Tam Đảo

như: địa y, rêu tản, rêu than,…; các loài cây thuốc quý cũng xuất hiện nhiều trên
đường lên đỉnh Rùng Rình, ví dụ như cây dứa rừng (quả dứa rừng điều trị bệnh sỏi
thận rất tốt), cây la hán quả (quả la hán có tác dụng thanh nhiệt, giải độc), cây hoa sơn
trà… Ngoài ra, các cây cổ thụ với tán lá rộng và rậm rạp cũng phân bố rộng khắp cánh
rừng, tạo điều kiện cư trú phù hợp cho các loài động vật, côn trùng sinh sống.

Hình 5: Dương xỉ cổ đại trên đường lên đỉnh Rùng Rình
(Ảnh: Nguyễn Hà Trang)
Hệ động vật cũng rất phong phú và đa dạng, với nhiều loài quý hiếm, đa dạng
cả về số lượng loài lần thành phần loài. Sự có mặt của nhiều loài côn trùng khác như
chuồn chuồn, bướm, xén tóc, bọ hung, vòi voi, bỏ củi, kẹp kìm, ốc cạn… cũng tạo nên
sự đa dạng sinh học cho vùng này.
11


Vườn quốc gia này cũng có 163 loài động vật thuộc 158 họ của 39 bộ, trong 5
lớp là: thú (Mammalia); chim (Aves); bò sát (Reptilia); ếch nhái (Amphibia) và côn
trùng (Insecta). Vườn có tới 239 loài chim với nhiều loài có màu lông đẹp như vàng
anh, sơn tiêu trắng, sơn tiêu hồng, sơn tiêu đỏ, có những loài quý hiếm như gà tiền, gà
lôi trắng; có 64 loài thú với những loài có giá trị như sóc bay, báo gấm, hổ, gấu ngựa,
cầy mực, vượn, voọc đen, v.v. Có 39 loài động vật đặc hữu, trong đó có 11 loài loài
đặc hữu hẹp chỉ có ở Vườn quốc gia Tam Đảo như rắn sãi angen (Amphiesma angeli);
rắn ráo thái dương (Boiga multitempolaris); cá cóc Tam Đảo (Paramerotriton
deloustali) và 8 loài côn trùng.

Hình 6: Cá cóc Tam Đảo (Nguồn: Internet)
3.3.2. Tài nguyên nước
Chất lượng nguồn nước ở đây
tương đối sạch, nước có nguồn gốc
từ các sông suối qua các khe đá chảy

ra. Ta có thể sử dụng luôn nguồn
nước ở đây mà không cần phải
thông qua bất cứ thiết bị lọc nước
nào khác. Trên đường từ Trạm kiểm
lâm Tam Đảo lên điểm dừng chân số
2, khu rừng tự nhiên, ta nhận thấy
trải dài theo con đường là các đường
ống cáp, trong đó có những đường
ống dẫn nước ngầm, chất lượng
nước ngầm ở đây tuy chưa có số liệu
Hình 7: Nước sạch từ khe đá chảy xuống
cụ thể nhưng có thể nhận thấy chất lượng nguồn nước khá sạch, ít bị ô nhiễm do không
(Ảnh: Nguyễn Hà Trang)
tiếp xúc nhiều với các nguồn gây ô nhiễm trực tiếp.
Tóm lại, tài nguyên nước ở đây khá dồi dào với chất lượng nước khá cao và ổn
định, đây là điều kiện quan trọng để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, sản xuất và tưới
12


tiêu của nhân dân sinh sống quanh vùng. Các cơ quan quản lý cần bảo tồn hơn nữa
nguồn nước ngọt nơi đây, tránh việc sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên nước, đồng
thời ngăn ngừa những hành vi gây ô nhiễm môi trường nói chung, những hành vi gây
ô nhiễm nguồn nước nói riêng.
3.3.3. Tài nguyên du lịch
Từ điều kiện thời tiết, khí hậu và các cảnh quan tự nhiên đẹp, đầu thế kỷ XX,
người Pháp đã phát hiện và xây dựng ở vùng núi Tam Đảo một khu nghỉ mát ở độ cao
900 - 950m và từ đó đến nay, Tam Đảo đã trở thành một địa danh du lịch nổi tiếng ở
Việt Nam.
Đỉnh Rùng Rình
Ở đây cây cối, núi non đẹp như trong cổ tích. Xa hơn nữa là Tam Ðảo 2, nơi mà

vào thời Pháp cũng là điểm du lịch nghỉ mát lý tưởng, mang vẻ đẹp hoang dã, cô liêu.
Vùng này đặc trưng cho sự đa dạng sinh học của VQG Tam Đảo. Với nhiều loài động
thực vật phong phú và đa dạng cả về loài và cả những nguồn gen quý. Với những đặc
điểm địa hình, địa chất, khí hậu đặc trưng, thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây những
nguồn tài nguyên quý giá.
Đỉnh Rùng Rình có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình 18 oC-19oC, độ ẩm cao,
quanh năm có sương mù tạo cảnh quan đẹp, tạo lợi thế trong phát các khu nghỉ mát,
du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng vào mùa hè. Tuy nhiên, đường lên đỉnh Rùng
Rình khá dốc và khó đi.

Hình 8: Đường lên đỉnh Rùng Rình (Ảnh: Đỗ Phương Dung)
Tháp truyền hình
Tháp truyền hình nằm trên đỉnh Thiên Thị có độ cao 1.375 m. Ðường đi lên tuy
vất vả nhưng lãng mạn, nên thơ. Dọc đường lên là hoa phong lan, hoa cúc quỳ và các
13


loài hoa dại không tên khác nở đầy lối đi, tỏa hương thơm lạ, mầu sắc rực rỡ... Lên tới
đỉnh, đứng dưới chân ngọn tháp truyền hình cao hơn 100 m, phóng tầm mắt ra bốn
phía

mênh
mông trời,
đất,
gió, mây...

Hình 9: Tháp truyền hình Tam Đảo (Nguồn: Internet)
Đền Bà Chúa Thượng Ngàn
Đoạn đường lên tháp truyền hình có một địa danh văn hóa tâm linh mà không
thể không nhắc tới, đó chính là Đền Bà chúa Thượng Ngàn. Ngôi đền là nơi lưu giữ

một truyền thuyết đẹp. Với khung cảnh mộng mơ của thị trấn miền mây trắng vẫn còn
nguyên vẹn. Đây là một trong những điểm đặc sắc của khu du lịch VQG Tam Đảo. Với
những công trình kiến trúc độc đáo, cùng nguồn tài nguyên sinh vật phong phú (chủ
yếu là tre, trúc) tạo một khung cảnh trang nghiêm, cổ kính và rất đỗi linh thiêng, góp
phần thu hút khách hành hương ở khắp nơi đến với Tam Đảo. Đây chính là một trong
những điều kiện phát triển kinh tế xã hội của vùng chân núi Thiên Thi.
Su su Tam Đảo
Thị trấn Tam Ðảo được thiên nhiên ưu đãi chất đất màu mỡ, khí hậu mát mẻ,
nhất là ở độ cao 1.500 m so với mặt nước biển và gần hồ Xạ Hương, hồ Làng Hà nên
độ ẩm cao, việc tưới tiêu thuận lợi, không cần phun thuốc kích thích để phát triển
nhanh. Cây su su rất phù hợp với chất đất, khí hậu trên đỉnh núi Tam Ðảo, cho nên
sinh trưởng tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Ngọn, quả su su có độ giòn, vị ngon
ngọt khó quên với ai đã từng thưởng thức. Su su được người dân trồng rất nhiều dọc
trên đường tham quan của du khách.

14


Hình 10: Những dàn su su được trồng bên đường lên đỉnh Rùng Rình
(Ảnh: Nguyễn Hà Trang)
Các địa điểm khác
Đến Tam Đảo ta còn có thể khám phá nhiều địa danh nổi tiếng tiếng khác như
Thác Bạc, Nhà thờ cổ, cổng trời,...

Hình 11: Toàn cảnh Tam Đảo
(Ảnh: Nguyễn Hà Trang)
15


Hình 12: Khung cảnh nhìn ra từ Nhà thờ đá Tam Đảo

(Ảnh: Nguyễn Hà Trang)
3.4. Kinh tế - Xã hội
Thế mạnh kinh tế của Tam Đảo là du lịch. Huyện đang hoàn thiện quy hoạch
tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội, quy hoạch ngành và chọn lĩnh vực ưu tiên. Đối
với Tam Đảo, việc thu hút vốn đầu tư, hình thành các khu du lịch, khu vui chơi giải trí
tầm cỡ quốc gia tại sân golf, khu Tam Đảo I, Tam Đảo II, đa dạng hóa các loại hình du
lịch, các sản phẩm du lịch sẽ quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Hình 13: Chợ đêm Tam Đảo (Nguồn: Internet)
16


PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Giới thiệu chung về dương xỉ
Ngành Dương xỉ (danh pháp khoa học: Pteridophyta) là một nhóm gồm khoảng
12.000 loài thực vật có mạch, không có hạt, sinh sản thông qua các bào tử.
4.1.1. Cấu tạo của dương xỉ gồm các phần chính như sau:
- Thân: Phần lớn thường là thân rễ mọc bò ngầm dưới lòng đất, nhưng đôi khi
và thân bò lan mọc bò trên mặt đất (như Polypodiaceae), hoặc thân cột bán hóa gỗ mọc
thẳng trên mặt đất (như Cyatheaceae) cao tới 20 m ở một số loài (như Cyatheabrownii
trên đảo Norfolk và Cyathea medullaris ở New Zealand).
- Lá: Phần màu xanh, có khả năng quang hợp của cây. Ở các loài dương xỉ nó
thường được nói tới như là lá lược,nhưng điều này là do sự phân chia lịch sử giữa
những người nghiên cứu dương xỉ và những người nghiên cứu thực vật có hạt, chứ
không phải là do các khác biệt trong cấu trúc.Các lá mới thông thường nở ra bằng cách
trải ra đầu lá non cuộn chặt. Sự bung ra của lá như vậy gọi là kiểu xếp lá hình thoa. Lá
được chia ra thành ba kiểu:
+ Lá dinh dưỡng (Trophophyll): Là lá không sinh ra bào tử, thay vì thế nó chỉ
sản xuất các chất đường nhờ quang hợp. Nó là tương tự như các lá xanh điển hình của

thực vật có hạt.
+ Lá bào tử (Sporophyll): Lá sinh ra bào tử. Lá này là tương tự như các vảy của
nón thông ở thực vật hạt trần hay như nhị và
nhụy ở thực vật hạt kín. Tuy nhiên, không
gióng như thực vật có hạt, các lá bào tử của
dương xỉ thông thường không chuyên biệt
hóa, trông tương tự như các lá dinh dưỡng
và cũng sản xuất các chất đường nhờ quang
hợp, giống như các lá dinh dưỡng.
+ Brophophyll: Lá sinh ra một lượng
lớn bất thường các bào tử. Các lá thuộc kiểu
này cũng lớn hơn các kiểu lá khác nhưng
giống với các lá dinh dưỡng.
- Rễ: Các cấu trúc không quang hợp
mọc ngầm dưới đất, có chức năng hút nước
Hình 14: Cấu tạo của dương xỉ
và các chất dinh dưỡng từ trong đất. Chúng luôn luôn là rễ chùm và về cấu trúc thì
(Nguồn: Internet)
tương tự như rễ của thực vật có hạt.
17


4.1.2. Phân loại
Dương xỉ về cơ bản có thể phân loại thành những lớp sau đây: lớp Mộc tặc
(Equisetopsida), lớp Dương xỉ tòa sen (Marattiopsida), lớp Quyết lá thông
(Psilotopsida), lớp Dương xỉ thật sự (Pteridopsida).
- Lớp Mộc tặc: Bộ Mộc tặc (danh pháp khoa học: Equisetales) là một bộ trong
lớp Mộc tặc (Equisetopsida) của nhành Dương xỉ (Pteridophyta) với chỉ một chi còn
loài sinh tồn là mộc tặc (Equisetum) xếp trong họ Equisetaceae.
- Lớp Quyết lá thông: Lớp Quyết lá thông (danh pháp khoa học: Psilotopsida) là

một lớp thực vật trông tương tự như dương xỉ, nó chứa 2 họ là Psilotaceae và
Ophioglossaceae . Mối quan hệ thân thuộc của hai nhóm này trước đây được coi là
không rõ ràng và chỉ được xác nhận gần đây trông qua các nghiên cứu hệ thống hóa ở
mức phân tử.
- Lớp Dương xỉ tòa sen: Lớp Dương xỉ tòa sen hay lớp Tòa sen (danh pháp
khoa học: Marattiopsida) là một nhóm dương xỉ chỉ chứa một bộ với danh pháp
Marattiales và một họ có danh pháp Marattiaceae. Lớp Marattiopsida đã rẽ nhánh ra
khỏi các nhóm dương xỉ khác từ rất sớm trong lịch sử tiến hóa của mình và hoàn toàn
khác biệt với nhiều loại thực vật quen thuộc đối với những người ở khu vực ôn đới.
Nhiều loài trong lớp này có thân rễ to, nhiều thịt và có các lá lược lớn nhất trong số
các loài dương xỉ. Họ Marattiaceae là một trong số hai họ dương xỉ túi bào tử thật,
nghĩa là túi bào tử được hình thành từ một nhóm tế bào chứ không phải túi bào tử giả
(trong đó túi bào tử sinh ra từ một tế bào ban đầu). Hiện nay, người ta công nhận 4 chi
còn sinh tồn là Angiopteris, Christensenia,Danaea và Marattia.
- Lớp Dương xỉ thật sự: là nhóm lớn nhất trong số các nhóm dương xỉ còn sinh
tồn. Chúng thường được coi là lớp có danh pháp khoa học Pteridopsida hay
Polypodiopsida, trong tiếng Việt gọi là lớp Dương xỉ, mặc dù các phân loại khác gán
nhóm này ở các cấp bậc phân loại khác nhau. Các loài dương xỉ này được gọi là túi
bào tử nhỏ là do các túi bào tử của chúng sinh ra từ một tế bào biểu bì mà không từ
một nhóm các tế bào như của các loài dương xỉ túi bào tử thật. Các túi bào tử thường
được một lớp vảy gọi là màng bao túi bào tử che phủ. Lớp màng bao này có thể che
phủ toàn bộ ổ túi bào tử, nhưng cũng có thể bị suy giảm mạnh. Nhiều loài dương xỉ túi
bào tử nhỏ có vòng nẻ xung quanh túi bào tử, có tác dụng đẩy bật các bào tử ra.
4.2. Dương xỉ Tam Đảo
Với khí hậu cùng dạng địa hình phù hợp, Tam Đảo là nơi lý tưởng để những
loài dương xỉ sinh sôi và phát triển.
Dương xỉ thật sự (hay dương xỉ thường) là nhóm loài lớn nhất trong số các
nhóm dương xỉ còn tồn tại, nó được tìm thấy rộng rãi ở các vùng nhiệt đới Châu Á,
chúng phát triển trên những tảng đá hoặc khe suối, đôi khi chúng cũng được tìm thấy
18



trên cạn ở khu vực ẩm ướt. Dương
xỉ thật sự ta có thể dễ dàng tìm thấy
ở khắp Tam Đảo. Cây dương xỉ sống
ở rừng đất thấp, ẩm ướt, thích hợp
nơi thiếu ánh sáng. Cao không quá
3m. Loài dương xỉ này chiếm ưu
thế, chúng có mặt ở hầu hết khắp
Vườn quốc gia Tam Đảo.

Hình 15: Dương xỉ thường ở
đường lên đỉnh Rùng Rình, Tam
Đảo (Ảnh: Đỗ Phương Dung)
Loài Cyathea bao gồm những họ dương xỉ có thân cao nhất trên thế giới. Loài
này được xem là Loài Dương xỉ cổ đại vì sự tồn tại của chúng trong những cánh rừng
là rất lâu, chúng cũng là các loài thực vật rất cổ, xuất hiện trong các hóa thạch vào Jura
muộn, mặc dù các chi hiện đại có vẻ như xuất hiện vào Đệ tam. Cyatheaceae là một họ
lớn gồm các loài dương xỉ thân gỗ với khoảng 500 loài. Cyatheaceae và
Dicksoniaceae, cùng với Metaxyaceae và Cibotiaceae là nhóm đơn ngành và hợp
thành nhóm dương xỉ thân gỗ có lõi. Trong VQG Tam Đảo, Cyathea không mọc ở
những ở những vùng thấp, mà chúng tập trung chủ yếu ở những vùng núi cao, hoặc
những vùng núi còn nguyên sơ, càng lên cao, than của loài dương xỉ này càng vươn
cao, thậm chí có những cây dương xỉ thuộc loài này cao đến 20m.

Hình 16: Dương xỉ Cyathea với tán vươn rộng (Ảnh: Đỗ Phương Dung)
19


Danaea là đặc hữu của khu vực nhiệt đới Tân thế giới. Chúng có các lá lông

chim kép với các lá chét mọc đối, là các loài có tính lưỡng hình, các lá sinh sản thu
nhỏ lại hơn và được che phủ ở mặt dưới bằng các cụm túi bào tử lõm xuống. Do khí
hậu thuận lợi, Tam Đảo cũng chính là nơi lý tưởng để loài dương xỉ Danaea phát triển.

Hình 17: Dương xỉ Danaea mọc trên đoạn đường lên VQG Tam Đảo
(Ảnh: Đỗ Phương Dung )
Họ Ráng Đà Hoa Davalliaceae: họ này mọc ở Tam Đảo nhưng không nhiều,
chủ yếu là chi Nephrolepis, loài này có rễ mang nhiều củ mọng nước chứa nhiều bột,
ăn được, có thể giải khát nên còn gọi là củ khát nước.

Hình 18: Davalliaceae mọc ở Tam Đảo
(Ảnh: Đỗ Phương Dung)
20


Dương xỉ tòa sen: là một nhóm
dương xỉ chỉ chứa một bộ với danh
pháp Marattiales và một họ có danh
pháp Marattiaceae. Ở Tam đảo hiện
nay, một số đại diện của nhóm Dương
xỉ tòa sen có thể kể ở đây, đó là:
Marratia, Danaea, Archangiopteris,
Macroglossum,
Protangiopteris,…
Nhìn chung, sự phân bố của nhóm
dương xỉ này ở Tam Đảo khá đồng
đều. Tuy nhiên, cũng giống như nhóm
Dương xỉ thật sự, một số họ dương xỉ,
hoặc loài đặc trưng thường không phân
bố rộng khắp, thông thường là phân bố

vùng núi cao, nơi có ít sự khai thác của
con người.


Hình 19: Một lớp lá của dương xỉ tòa sen
trên Tam Đảo
(Ảnh: Nguyễn Tiến Thành)

Dương xỉ châu Phi lùn - Bolbitis difformis: Đặc điểm: cây ngắn , nhiều lá , thân
và lá màu xanh. Sống được cả môi trường trên cạn và dưới nước. Ở môi trường nước
lá nhỏ và thưa hơn trên cạn.

Hình 20: Dương xỉ châu Phi lùn (Ảnh: Nguyễn Tiến Thành)
21


Hình 21: Một số loài dương xỉ khác mọc ở Tam Đảo
(Ảnh: Đỗ Phương Dung)
Hệ thực vật: Theo các báo cáo đã được thực hiện, Tam Đảo có đến 904 loài
thuộc 478 chi, 213 họ thực vật bậc cao. Trong đó ngành thông đất 2 loài, ngành cỏ
tháp bút 1 loài, ngành dương xỉ 57 loài, thực vật hạt trần 12 loài và thực vật hạt kín
832 loài, 64 loài thực vật ở Tam Đảo là những loài quý hiếm. Do điều kiện tìm hiểu có
giới hạn, chúng em tìm kiếm được như những loài Dương Xỉ trên, vẫn chưa hoàn
thành được mục tiêu khám phá được 57 loài. Nhưng với những hình ảnh, tư liệu mà
nhóm thu thập được để tổng kết trong bài làm này, chúng ta cũng có thể thấy mức độ
phong phú và đa dạng của ngành dương xỉ nói riêng và của toàn hệ động thực vật Tam
Đảo nói chung.
4.3. Vai trò của cây dương xỉ
4.3.1. Đối với con người:
- Dương xỉ dùng làm thuốc: Theo Đông y, dương xỉ được xem là nhóm cây

thuốc quý làm thuốc chữa thận hư, ỉa chảy, bong gân, tụ máu, sai khớp, phong thấp và
cầm máu...
- Dương xỉ dùng làm thức ăn: Theo cư dân sống ở VQG Tam Đảo, một số loài
dương xỉ có thể làm thức ăn rất tốt cho cơ thể. Những loài dương xỉ không có lông
bám thường được sử dụng làm thức ăn coi như một loại rau xanh cung cấp chất xơ và
vitamin.

22


- Dương xỉ còn có tác dụng làm cây cảnh: Dương xỉ là một loài cây đẹp, có giá
trị thẩm mĩ cao cho nên ở một số nơi kể cả ở Tam Đảo người ta thường trồng dương xỉ
trong nhà như cây cảnh, vừa tạo cảnh quan đẹp gẫn gũi với thiên nhiên, vừa có thể sử
dụng dương xỉ vào những vai trò khác của nó.
4.3.2. Đối với hệ sinh thái tự nhiên, môi trường và đa dạng sinh học:
- Đối với môi trường: Các nhà khoa học đã tìm thấy loài dương xỉ có khả năng
lớn rất nhanh và hấy thụ asen. Họ cho rằng loài thực vật này(Pteris vittata) có thể sử
dụng để làm sạch đất và nước đã bị ô nhiễm bởi các nguyên tố độc hại hay các hợp
chất của chúng. Các nhà khoa học khi phân tích lá của chúng, họ phát hiện nồng độ
asen lớn gấp 200 lần so với vùng đất
xung quang. Trên những vùng đất
không bị ô nhiễm, hàm lượng asen
trong dương xỉ thay đổi từ 11.8 - 64
phần triệu. Tuy nhiên những cây dương
xỉ mọc trong vùng đất bị ô nhiễm lại có
nồng độ cao từ 1.442 – 7.526 phần
triệu. Asen phần lớn tập trung trên
những chiếc lá xanh dải hay lá hình
lược của dương xỉ. Các nhà nghiên cức
cho biết loài dương xỉ này cứng và phát

triển rất nhanh. Chúng có tiềm năng lớn
trong việc khắc phục ô nhiễm asen trên
các vùng đất nông nghiệp. Dương xỉ
diều hâu có thể hấp thu asen và các hợp
chất của nó trong thới gian rất ngắn.
Các cuộc kiểm tra cho thấy hàm lượng asenHình
trong22:
dương
xỉ tăng
lầnxử
chỉlí sau
Dương
xỉ cólên
khả126
năng
asen2
tuần kho được chuyển sang vùng đất ô nhiểm.
trong đất và nước.
Nguyễn
Tiến Thành)
- Đối với sự đa dạng sinh học: Sự phát triển(Ảnh:
của các
loài dương
xỉ ở tam đảo
càng làm phong phú thêm sự đa dạng sinh học ở nơi đây, làm gia tăng thành phần loài
dương xỉ, tăng thêm giá trị nguồn gen trong đó có những loại quý hiếm.
- Đối với hệ sinh thái tự nhiên: Vai trò của dương xỉ đối với hệ sinh thái tự
nhiên vừa có mặt tiêu cực vừa có mặt tích cực. Tích cự là sự đa dạng của dương xỉ có
đóng góp không nhỏ vào dự trữ sinh quyển không chỉ riêng của Việt Nam mà còn của
toàn thế giới. Đông thời dương xỉ cũng là một loài thực vật, nó đóng góp rất lớn và

lưới thức ăn và chuỗi thức ăn góp phần làm cân bằng hệ sinh thái. Tuy nhiên mặt tiêu
cực của dương xỉ đối với hệ sinh thái là nhiều loài dương xỉ đeo bám vào các cây thân
gỗ khác, nhiều cây xanh ở Tam Đảo có lớp vỏ xù xì liên là nơi thích hợp cho dương xỉ
sinh sôi và phát triển.
4.4. Đề xuất các biện pháp bảo tồn và quản lý nhóm Dương xỉ
23


Từ những kinh nghiệm thực tập thiên nhiên trong chuyến đi Tam Đảo vừa rồi,
kết hợp với những kiến thưc thầy cô giảng trên lớp và sự tìm hiểu qua sách báo,
internet, nhóm chúng em nhận thấy việc bảo tồn, quản lý và phát triển nhóm Dương xỉ
ở VQG Tam Đảo là hết sức quan trọng và cần thiết vì nó có tác động tới con người, hệ
sinh thái và Môi trường nơi đây. Với những gì mà chúng em tìm hiểu được về vai trò
đặc điểm của một số loài dương xỉ ở Tam Đảo, qua thảo luận, nhóm chúng em xin đề
xuất một số giải pháp sau nhằm tăng cường bảo tồn và quản lý nhóm Dương xỉ, qua đó
nhằm bảo vệ hệ sinh thái, thiên nhiên và môi trường nơi đây. Các biện pháp đề xuất
bao gồm:
- Vẫn còn tồn tại hình ảnh khách du lịch thiếu ý thức vứt rác bừa bãi ở nhiều
nơi trong VQG Tam Đảo, thậm chí là trên tận đỉnh Rùng Rình chúng em còn phát hiện
thấy rác thải của du khách vứt không đúng nơi quy định, nằm ngổn ngang bừa bãi
khắp nơi. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sống của nhiều loài, trong
đó có dương xỉ; rác thải làm ô nhiễm môi trường, hệ sinh thái, làm ảnh hưởng tới sự
phát triển của loài dương xỉ. Vì vậy, nhóm chúng em đề nghị, ban quản lý VQG Tam
đảo và UBND huyện Tam Đảo cần có những biện pháp hữu hiệu, ngặn chặn những
hành vi gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm rừng, gây ảnh hưởng tới loài dương xỉ nói
riêng và các sinh vật khác trong VQG Tam Đảo nói chung.

Hình 23: Du khách vứt rác gần đỉnh Rùng Rình
(Ảnh: Nguyễn Thị Tơ)


24


Hình
Sinh

24:
viên
dọn rác ở khu vực trạm nghỉ gần Đỉnh Rùng Rình
(Ảnh: Nguyễn Thị Tơ)

- Ban quản lý VQG Tam Đảo cần lên danh mục những loài dương xỉ quý hiếm
nhằm có những biện pháp bảo tồn hiệu quả. Cần mời chuyên gia, các nhà khoa học
đến nghiên cứu để đưa ra biện pháp bảo tồn, quản lý các loài dương xỉ và nguồn gen
của chúng, đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát triển tự nhiên của chúng. Cần nhân
rộng và phát triển những loài, nguồn gen quý hiếm.

Hình 25: Dương xỉ cổ đại ( Ảnh: Đỗ Phương Dung)
- Ban quản lý VQG Tam Đảo cũng cần kiên quyết xử lý hoặc lên phương án
bảo tồn những loài dương xỉ dây leo, sống bám vì chúng gây ảnh hưởng tới sự tồn tại
và phát triển của các sinh vật khác. Những loài dương xỉ sống bám thuộc diện quý
25


×