Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN KẾT QUẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.08 KB, 7 trang )

Đề tài nghiên cứu :

Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả

Như chúng ta đã biết tất cả các mối liên hệ nhân quả hầu như là mối liên hệ được
lặp đi lặp lại nhiều nhất, phổ biến nhất. Do đó chúng ta có thể nói, mối liên hệ nhân
quả là một trong những mối liên hệ tự nhiên đầu tiên được phản ánh vào trong đầu
óc của con người. Chúng ta thường nói rằng, phạm trù là kết quả của những quá
trình phản ánh những mối liên hệ được lặp đi lặp lại của đời sống, và trong trường
hợp này, phạm trù nguyên nhân và kết quả là những phạm trù chứng minh cho quan
niệm đó. Mối liên hệ nguyên nhân và kết quả, hay còn được gọi tắt là mối liên hệ
nhân - quả là mối liên hệ vốn có của thế giới vật chất. Nó không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người.Thực ra, chính những tác động của các sự vật hiện
tượng trong thế giới vật chất, nó được phản ánh ở trong nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến đã làm cho thế giới vận động, sự tác động đó nếu đặt trong mối quan hệ
với kết quả thì đó là nguyên nhân. Vì vậy, bất kỳ một sự vận động nào ở trong thế
giới vật chất suy cho cùng đều là những mối liên hệ nhân quả, xét ở những phạm vi
khác nhau, những thời điểm khác nhau và những hình thức khác nhau. Nói một cách
khác, nếu như vận động là thuộc tính của thế giới vật chất, là phương thức tồn tại
của vật chất thì vận động luôn luôn là sự tác động, hoặc là sự tác động giữa những
bộ phận khác nhau ở trong cùng một một sự vật hiện tượng, hoặc là sự tác động lẫn
nhau giữa các sự vật hiện tượng. Từ những điều đã nói trên chúng ta đi sâu vào
nghiên cứu cặp phạm trù nguyên nhân kết quả.

1, KHÁI NIỆM
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định
nào đó. Kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác
động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây
ra. Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày đưa lại cho chúng ta nhận
thức đầu tiên rất quan trọng, đó là sự vật hiện tượng không bao giờ là chính bản


thân nguyên nhân, chỉ có sự tác động của các sự vật hiện tượng mới là nguyên
nhân. Cho nên, nếu ta ở gần một thằng lưu manh thì bản thân thằng lưu manh
chưa là tai họa cho ta, chỉ khi nó có những hành động lưu manh xâm hại đến
chính bản thân ta, bấy giờ hành động xâm hại đó mới là nguyên nhân gây ra tai
họa cho chúng ta. Có rất nhiều ví dụ để cho người ta quán triệt được nhận thức
sâu sắc này. Ví dụ bản thân cái nhân chứa ở trong hạt không phải là nguyên


nhân của cái mầm, mà những quá trình sinh học và hóa học (quá trình sinh học,
hóa học này mới chính là nguyên nhân làm nảy sinh nên mầm chứ không phải
bản thân cái nhân). Do đó trong trường hợp này có thể liên hệ sang lĩnh vực
khác, một cặp phạm trù khác đó là khả năng và hiện thực. Trong trường hợp
này, cái nhân ở trong hạt mới chỉ là khả năng mà thôi, chỉ bao giờ nó hóa thành
hiện thực là những quá trình sinh hóa ở trong cái hạt, bấy giờ nó mới là sự tác
động và nó mới làm nảy sinh mầm. Tóm lại, cái mầm là kết quả sinh ra từ
những quá trình sinh học, hóa học ở trong cái nhân chứ không phải bản thân cái
nhân là nguyên nhân của nó. Vấn đề thứ hai là trong thế giới luôn luôn có sự tác
động qua lại của các sự vật hiện tượng với nhau. Suy cho cùng, mỗi một sự tác
động đều đưa lại những hệ quả nào đó, một kết quả nào đó, nhưng như vậy mọi
tác động của bản thân nó đều chưa được xem xét như là những nguyên nhân.
Nguyên nhân chỉ là nguyên nhân trong mối quan hệ với kết quả. Nếu không có
kết quả thì cũng không gọi sự tác động đó là nguyên nhân. Hay nói cách khác,
nếu không quy kết quả như là hậu quả của một quá trình tác động thì tác động
đó cũng không được gọi là nguyên nhân. Còn bây giờ chúng ta nói đến vấn đề
kết quả. Kết quả vốn là sự xuất hiện của một sự vật hiện tượng nào đó. Như vậy,
sự xuất hiện đó chỉ được xem là kết quả nếu xem xét nó sinh ra từ những nhân
tố nào. Các nguyên nhân là sự tác động thì kết quả có thể là sự vật hiện tượng.
2, TÍNH CHẤT CỦA MỐI QUAN HỆ NGUYÊN NHÂN KẾT QUẢ
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính
phổ biến và tính tất yếu. Tính khách quan của mối liên hệ nhân - quả thể hiện ở chỗ,

mối liên hệ nhân - quả là cái vốn có của bản thân sự vật, nó không phụ thuộc vào ý
thức của con người. Chúng ta biết rằng, mọi sự vật trong thế giới là luôn luôn vận
động, tác động lẫn nhau, và sự tác động đó tất yếu sẽ dẫn đến một sự biến đổi nhất
định. Do đó có thể nói mối liên hệ nhân - quả luôn mang tính khách quan. Còn tính
phổ biến của mối quan hệ này thì điều đầu tiên chúng ta có thể thấy là mối liên hệ
phổ biến có tính phổ biến như thế nào thì mối liên hệ nhân quả cũng có tính phổ
biến như thế. Chúng ta có thể nhận thấy mối liên hệ nhân quả tồn tại ở khắp mọi
nơi, trong cả tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy của con người. Không có một hiện
tượng nào không có nguyên nhân, nhưng vấn đề là ở chỗ nguyên nhân đó đã được
nhận thức hay chưa mà thôi. Ví dụ mối liên hệ nhân - quả được thể hiện trong
trường hợp khi trời mưa, độ ẩm cao, làm cho con chuồn chuồn không bay được lên
cao. Ngược lại, nếu trời nắng, độ ẩm thấp đã tạo điều kiện cho chuồn chuồn bay cao
hơn. Hay như trong xã hội, nếu như luật pháp càng lỏng lẻo thì an ninh trật tự của
xã hội đó sẽ bất ổn. Tính tất yếu thể hiện ở một điểm là cùng một nguyên nhân như


nhau, trong những điều kiện giống nhau sẽ nhất định nảy sinh những kết quả như
nhau. Ta có thể lấy một ví dụ là tất cả những cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược ở
trong lịch sử nhân loại dù sớm hay dù muộn đều có kết thúc giống nhau. Kẻ đi xâm
lược nhất định sẽ bị thất bại. Nói riêng về quan hệ nhân quả ở trong trường hợp này
thì chúng ta sẽ thấy được sự thất bại của chiến tranh xâm lược với tư cách là một kết
quả bắt nguồn từ những tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội, do tính phi
nghĩa của cuộc chiến tranh đó đem lại. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đó và sự tác
động của tính chất đó làm cho nhân dân ở trong bản thân các nước đi xâm lược đều
là chán ghét cuộc chiến tranh, đứng lên phản đối cuộc chiến tranh dẫn đến quân lính
ở trong một đội quân xâm lược cũng như vậy, sớm muộn họ cũng nhận ra tính chất
phi nghĩa của cuộc chiến, và tinh thần của họ sẽ bị giảm sút. Đó là một trong những
lý do làm cho quân xâm lược bị thất bại. Ở trên chúng ta đã nói rằng, với cùng một
nguyên nhân và với cùng những điều kiện giống nhau, những kết quả sinh ra sẽ
giống nhau. Điều này cũng là một nguyên tắc để chúng ta rút ra một kết luận khác

đó là, thực ra ở trong thế giới vật chất không bao giờ có những tác động hoàn toàn
giống nhau, cũng không bao giờ có những điều kiện hoàn toàn giống nhau. Cho
nên, thực tế là mỗi một sự vật hiện tượng với tư cách là kết quả đều được sinh ra từ
những nguyên nhân khác biệt, ngay cả khi nguyên nhân đó có thể giống nhau về
mặt chủng loại. Mặt khác, những điều kiện cũng không bao giờ có thể được lặp lại
hoàn toàn, do đó kết quả bao giờ cũng rất độc đáo. Nguyên nhân tác động trong
những điều kiện, hoàn cảnh ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra
giống nhau bấy nhiêu. Tuy nhiên, sự ít khác nhau lại cực kỳ hiếm, do đó bao giờ
cũng như vậy, mỗi một kết quả là một thực tại độc đáo, không lặp đi lặp lại trong
bất kỳ một thời gian, không gian nào. Ví dụ, trong chiến tranh, bộ đội ta có một kết
luận rất thực tế là, rất ít khi hai quả bom rơi vào cùng một chỗ. Vì vậy, các chiến sĩ
ta hay tránh bom địch ở chính những hố bom mà quả bom trước đã đào lên.
3, MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả có thể được khái quát thành
năm vấn đề sau đây. 1. Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có
trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Ở đây vấn đề là tự bản thân nó đã rõ ràng, không cần phải luận chứng gì thêm, chỉ
cần phải phân biệt không phải một sự vật nào đó có trước sự vật thứ hai, thì tác
động của nó đã được coi là nguyên nhân của hiện tượng thứ hai. Ví dụ, ngày là sự
nối tiếp của đêm nhưng không phải là nguyên nhân của đêm. Ở đây sự phân biệt
không phải là thời gian mà là mối liên hệ hiện thực giữa nguyên nhân và kết quả.
Hai hiện tượng, hiện tượng trước không phải là nguyên nhân của hiện tượng sau chỉ


là ở chỗ sự tác động của nó không có liên quan gì đến sự xuất hiện của hiện tượng
sau. Còn trong quan hệ nhân quả, thì bao giờ sự tác động của nguyên nhân là cái
sinh ra kết quả. Sự kế tục giữa các mùa ở trong năm cũng như vậy. Đó là hậu quả
của những vị trí khác nhau của trái đất so với mặt trời trong vòng quay của trái đất
xung quanh mặt trời, chứ không phải mùa xuân sinh ra mùa hè, mùa hè sinh ra mùa
thu… Vấn đề thứ hai cần chú ý là sự kế tiếp nhau của nguyên nhân và kết quả trong

mối quan hệ nhân quả không có nghĩa là nguyên nhân sinh ra xong rồi thì kết quả
mới nảy sinh. Trái lại, nguyên nhân vừa tác động thì sự hình thành của kết quả đã có
thể được coi như là bắt đầu, cho đến khi kết quả hình thành như một sự vật, hiện
tượng nó vẫn còn nhận tác động của nguyên nhân, và như vậy nó vẫn còn đang tiếp
tục biến đổi do tác động của nguyên nhân. Tóm lại, người ta không thể nhìn quan hệ
nhân quả như là sự đứt đoạn mà là trong sự vận động biến đổi liên tục của thế giới
vật chất, của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng. Việc nguyên
nhân sinh ra kết quả còn có một yếu tố nữa, đó là điều kiện. Không phải cứ có sự
tác động là có ngay kết quả, phải ở trong những điều kiện nhất định thì có thể mới
có kết quả. Ví dụ, trở lại các quá trình sinh - hóa ở trong hạt cây nảy mầm chúng ta
thấy rằng, nếu một hạt tốt có đầy đủ khả năng để sinh ra một cái mầm tốt, nhưng
nếu có được độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ đầy đủ thì cũng không bao giờ có cái mầm
xuất hiện. Điều kiện có vai trò rất quan trọng, làm cho nguyên nhân nào sinh ra kết
quả nào. Có thể cùng một nguyên nhân, cùng một khả năng tác động như nhau,
nhưng ở trong những điều kiện khác nhau thì nó đưa lại những hậu quả khác nhau.
Ví dụ, hai cái nhân tốt như nhau, nhưng với những điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm,
ánh sáng khác nhau thì hai cái mầm mọc ra cũng có chất lượng khác nhau. Vấn đề
còn trở nên phức tạp hơn khi có nhiều nguyên nhân cùng tác động một lúc, khi đó
thì kết quả ra sao còn tùy thuộc ở việc mối quan hệ giữa các nguyên nhân với nhau
là như thế nào. Ví dụ, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của chúng ta sẽ
hoàn thành trong tương lai, chắc chắn phải chịu sự tác động của các nguyên nhân
như quá trình phát triển kinh tế bên trong, đồng thời là nguyên nhân của thị trường
thế giới nói chung, tức là nhịp độ phát triển của kinh tế thế giới, những điều kiện
thuận lợi mà kinh tế thế giới đem lại cho chúng ta, những thách thức mà chúng ta
phải vượt qua để xây dựng nền kinh tế tự chủ trong hòa nhập. Vì vậy, xem xét kết
quả này chúng ta vừa phải xem xét trước hết là sự tác động qua lại giữa hai nguyên
nhân là sự phát triển, vận động của nền kinh tế ở trong nước và diễn biến của nền
kinh tế toàn cầu, mỗi bên có những vai trò riêng biệt. Và đương nhiên chúng ta
khẳng định rằng, nguyên nhân ở bên trong, những tác động nội tại của nền kinh tế
nước ta, tinh thần độc lập tự chủ và những kết quả do bản thân nỗ lực của nền kinh



tế Việt Nam đem lại mới là những nguyên nhân chủ yếu, đóng góp vào sự phát triển
của đất nước, sự hoàn thành quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước
ta. Xét nền kinh tế trong nước, chúng ta lại còn có thể tiếp tục phân chia nguyên
nhân đó thành những nguyên nhân như là: sự tác động, vai trò của mỗi thành phần
kinh tế trong thời kỳ đổi mới và trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Hiện
nay, năm thành phần kinh tế cơ bản của chúng ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập
thể, kinh tế tư bản tư nhân, trong đó gồm cả tư bản nước ngoài, kinh tế sản xuất
hàng hóa nhỏ và kinh tế tự cung tự cấp ở những vùng còn chưa phát triển được kinh
tế hàng hóa, tất cả những thành phần kinh tế này đều có những vai trò nhất định
trong sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng, nền kinh tế
quốc doanh bao giờ cũng nắm vai trò chủ yếu do chỗ chúng ta định hướng phát triển
kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa, những ngành kinh tế chủ chốt có vai trò cơ
bản tác động đến nền kinh tế quốc dân đều thuộc khu vực quốc doanh, do đó hiển
nhiên thành phần kinh tế này luôn đóng vai trò chủ đạo, phát huy những tác dụng
của nó làm cho kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có
khả năng tác động trở lại nguyên nhân. Cần chú ý là tác động này là hai nghĩa, cả
tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Ví dụ, trình độ dân trí thấp là do nền kinh
tế kém phát triển gây ra, nếu không đủ đầu tư cho việc nâng cao dân trí của nhân
dân, đầu tư giáo dục không đầy đủ. Đến lượt mình, dân trí thấp với tư cách là kết
quả lại tác động trở lại với quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, làm
cho kinh tế kém phát triển và dân trí sẽ lại tiếp tục thấp xuống. Ngược lại, trình độ
dân trí cao vốn là kết quả của sự phát triển xã hội cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…
làm cho nền giáo dục quốc dân cũng phát triển đầy đủ, khi đó nó sẽ đem lại một kết
quả là tầng lớp trí thức và một đội ngũ lao động với trình độ cao, tay nghề vững và
điều đó chắc chắn làm cho kinh tế quốc dân càng phát triển tốt hơn. Vấn đề tác
động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân có một ý nghĩa thực tiễn rất quan
trọng. Nó làm cho người ta phải dự kiến rất đầy đủ những hậu quả của một chính

sách xã hội chẳng hạn, đặc biệt trong vấn đề đầu tư, một trong những yếu tố tạo ra
nguyên nhân phát triển nền kinh tế đất nước. Việc đầu tư rất có thể mang lại những
hậu quả lớn, làm cho kinh tế phát triển rất cao nếu đúng đắn. Ví dụ, người ta đầu tư
vào những ngành mũi nhọn có tác dụng làm thay đổi căn bản nền kinh tế, vì chỉ một
thời gian ngắn sau, nền kinh tế quốc dân đã có một động lực lớn như là công nghệ
thông tin, bưu chính viễn thông, công nghệ tin học… Những kết quả do sự đầu tư
đúng đắn đó làm cho các ngành kinh tế như công nghiệp, thủy sản, nông nghiệp…
có những sự phát triển vượt bậc, khi đó nó lại tạo điều kiện cho việc tái đầu tư ngày


càng tốt hơn với lực lượng tài chính, lực lượng vật chất ngày càng to lớn hơn. Rồi
khi đó, trong một chu kỳ khác, sự đầu tư đúng đắn lại làm cho các ngành khoa học
mới ra đời, cứ như thế một chu trình đầu tư mang lại một kết quả và bản thân kết
quả đó làm cho quá trình đầu tư ngày càng có ý nghĩa kinh tế xã hội sâu sắc hơn.
Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có những hiện tượng đầu tư bất hợp lý. Sự
đầu tư bất hợp lý như vào một nhà máy mía ở vùng không có nguyên liệu, những
nhà máy xi măng lò đứng với hàng chục triệu đôla đã gây ra những hậu quả tai hại.
Những hậu quả này lại làm cho bản thân những ngành đó không phát triển hoặc
phát triển rất chậm, thậm chí có những bước thụt lùi. Ngày nay toàn bộ chiến lược
xi măng đang phải tính toán lại cơ cấu đầu tư. Nhà máy mía cũng phải lựa chọn
những vùng có nguyên liệu lâu bền, vừa làm thay đổi bộ mặt của một vùng nông
thôn, vừa đem lại những bước tiến vững chắc cho ngành mía đường toàn quốc.
Nguyên nhân - kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Nguyên nhân và kết quả có
thể hoán đổi vị trí cho nhau theo hai ý nghĩa dưới đây: Thứ nhất, nguyên nhân sinh
ra kết quả, nhưng bản thân nguyên nhân khi sinh ra kết quả lại đã là kết quả ở một
mối quan hệ nhân - quả trước đó. Ngược lại, kết quả với tư cách là kết quả được
sinh ra từ một nguyên nhân nhưng bản thân nó không dừng lại. Nó lại tiếp tục tác
động, và sự tác động của nó lại gây ra những kết quả khác. Nói một cách khác, có
thể tóm lại trong chuỗi nhân – quả: A sinh ra B, B sinh ra C, C sinh ra D… thì mỗi
cái đều là nguyên nhân ở trong một mối quan hệ này, nhưng đồng thời lại là kết quả

ở một mối quan hệ khác. Ví dụ, sự phân phối thu nhập không công bằng dẫn tới
mâu thuẫn trong xã hội. Những mâu thuẫn xã hội làm nảy sinh những tệ nạn xã hội.
Những tệ nạn xã hội lại làm cho nền kinh tế xã hội phát triển chậm lại. Thứ hai, đó
chính là ý nghĩa đã được xét ở khía cạnh trên, tức là nguyên nhân sinh ra kết quả,
nhưng kết quả lại có khả năng tác động trở lại đối với nguyên nhân. Trong mối quan
hệ này, khi kết quả tác động trở lại với nguyên nhân thì kết quả lại có tư cách là
nguyên nhân chứ không phải là kết quả nữa. Do đó có thể nói có sự hoán đổi vị trí
giữa nguyên nhân và kết quả ngay trong cùng một mối quan hệ nhân – quả. Chúng
ta có thể lấy lại những ví dụ về dân trí và giáo dục đối với sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân vừa được dẫn ra ở trên. Vì vậy, Ph. Ăng – ghen nói rằng, nguyên nhân
và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp
dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Hay nói cách khác, một hiện tượng
nào đấy được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác
định cụ thể. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết
quả có thể được ra đời từ rất nhiều nguyên nhân. Ví dụ trường hợp chặt phá rừng
bừa bãi ở trên đầu nguồn có thể sinh ra nhiều kết quả. Sự thay đổi sinh thái ở bản


thân vùng đó làm cho quỹ gien động vật và thực vật bị biến đổi, sự cân bằng sinh
thái bị phá vỡ gây ra sự thay đổi khí hậu ở chính bản thân vùng rừng đầu nguồn.
Thứ hai, nó là nguyên nhân gây ra những trận lụt, thậm chí là những trận lũ quét
gây ra rất nhiều thiệt hại cho đời sống kinh tế – xã hội không chỉ ở vùng cao mà còn
ở vùng đồng bằng. Thứ ba, nó gây ra những hậu quả làm xáo trộn đời sống xã hội
của cư dân, làm ảnh hưởng đến tình hình xã hội chung của toàn quốc. Thứ tư, nó
làm cho ngân sách quốc gia bị ảnh hưởng do phải chi trả cho những thiệt hại mà
thiên nhiên và xã hội đã đưa đến. Như thế là một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều
kết quả. Một kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Ví dụ, thành công
của công cuộc đổi mới ở trên đất nước ta bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân. Thứ
nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng. Khi thực tiễn đã nảy sinh những
hiện tượng mới, khi cảm thấy nền kinh tế quốc dân đang bị trì trệ, không còn lối

thoát, chúng ta đã nghiên cứu lý luận, đúc kết thực tiễn và đề ra chính sách đổi mới.
Chính sách này còn được bắt nguồn từ những thúc ép của đời sống xã hội, nền kinh
tế với cơ chế hành chính quan liêu bao cấp đã làm cho sức sản xuất của xã hội Việt
Nam bị cản trở rất lớn, thậm chí có những khi đẩy đất nước đến bờ vực thẳm, như
tình trạng năm 1985. Đồng thời, ngày đó chúng ta cũng thực hiện một công việc ở
tầm vĩ mô rất sai lầm, đó là liên tiếp thực hiện những cuộc đổi tiền. Điều này đã làm
cho nền tài chính quốc gia bị đảo lộn, càng ngày càng mất cân bằng thu - chi, làm
cho đồng tiền Việt Nam ngày càng mất giá và sức sống của toàn bộ nền kinh tế bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Tất cả những cái đó đã dồn ép chúng ta và bắt buộc chúng
ta phải thay đổi một cách cơ bản đường lối kinh tế của đất nước. Và kết quả là sự ra
đời của đường lối đổi mới. Thành công của công cuộc đổi mới còn bắt nguồn trực
tiếp từ sự chỉ đạo tầm vĩ mô của Đảng và Chính phủ rất đúng đắn và kịp thời. Đặc
biệt là còn bắt nguồn từ những hoạt động kinh tế của một cộng đồng cư dân sáu,
bảy chục triệu người, quyết tâm ra khỏi tình trạng khủng hoảng, quyết tâm thoát
nghèo, thoát đói, thoát nghèo nàn, lạc hậu.



×