Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hiệu trưởng với công tác xã hội hoá giáo dục tại trường mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.09 KB, 21 trang )

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Xã hội hoá giáo dục là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân,
của toàn xã hội vào sự phát triển giáo dục, nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ
về giáo dục và sự phát triển về chất và tinh thần của nhân dân. Do đó, Xã hội hoá
giáo dục là một trong những quan điểm phát triển giáo dục của Đảng và nhà nước ta.
Nó không đơn thuần chỉ là việc huy động nhân dân đóng góp tiền của, vật chất mà nó
còn là một chủ trương mang tính toàn diện và đồng bộ.
Đến nay, xã hội hoá giáo dục đã được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước,
xã hội hoá giáo dục đã góp phần xây dựng một nền xã hội học tập, một xã hội toàn
dân tham gia vào các hoạt động giáo dục. Nhân dân hiến đất làm trường học, các
đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm hăng hái mở trường
học, từ những trường học tình thương, đến các trường mầm non, tiểu học, trung học,
dạy nghề và đại học. Rõ ràng xã hội hoá giáo dục đã và đang là sự hợp tác có hiệu
quả giữa các tổ chức xã hội để thực hiện một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại và giàu
bản sắc dân tộc.
Xã hội hoá giáo dục là một truyền thống tốt đẹp vốn có từ ngàn xưa của dân tộc
ta trải qua đấu tranh và phát triển, truyền thống đó luôn luôn được bảo tồn và nhân
rộng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng truyền thống đó được tiếp thu, phát triển ở tầm cao
mới. Xuất phát từ quan điểm cơ bản cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng ta
khẳng định giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội. Sự nghiệp ấy đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải chăm lo tốt nhất cho sự
nghiệp giáo dục, muốn vậy bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật chất mở mang trường lớp,
xác định mục tiêu phát triển, xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp giáo
dục, chuẩn bị đội ngũ giáo viên, sách giáo khoa. Nhà nước còn phải huy động mọi
lực lượng, mọi tiềm năng của xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Toàn dân và
toàn xã hội tự nguyện tham gia xây dựng trường lớp, tham gia chăm sóc và giáo dục
tuổi trẻ với mọi khả năng của mình và trước nhất là luôn luôn nêu gương tốt cho tuổi
trẻ làm theo, tất cả mọi việc làm của mọi công dân trong xã hội đều hướng tới xây
dựng một môi trường giáo dục trong sáng, lành mạnh để thế hệ trẻ học tập và trưởng
thành. Như vậy có thể nói xã hội hoá giáo dục là hoạt động nằm trong hệ thống


chung các hoạt động của nền giáo dục quốc gia và có mối quan hệ chặt chẽ, khăng
khít với tất cả các hoạt động giáo dục khác và rộng hơn, xã hội hoá giáo dục còn có
mối quan hệ khăng khít với các nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Nó
bao gồm nhiều việc làm, mang tính toàn diện và đồng bộ. Trước nhất, xã hội hoá giáo
dục là phải huy động toàn dân tham gia vào sự nghiệp giáo dục toàn diện thế hệ trẻ
đang theo học trong các nhà trường. Việc dạy và học trong nhà trường không đơn
thuần là việc của các thầy cô giáo, mà đó còn là việc của cha mẹ và các tổ chức đoàn
thể ngoài xã hội. Cha mẹ, người lớn sống gương mẫu, tôn trọng pháp luật, giữ gìn kỷ
cương phép nước, có đời sống lành mạnh chính là sự đóng góp tốt nhất cho việc xây
1


dựng lý tưởng và giáo dục đạo đức cho học sinh. Bởi vậy điều đáng quan tâm số một
trong việc thực hiện xã hội hoá giáo dục ở từng địa phương chính là việc phải xây
dựng bằng được môi trường sống lành mạnh, có văn hoá, trẻ em phải được tạo mọi
điều kiện tốt nhất để được đến trường, cơ sở vật chất trường học ngày càng phải được
quan tâm đầu tư. Xã hội hoá giáo dục còn được thể hiện ở phong trào toàn dân đi
học, toàn dân tự học, tự nâng cao trình độ văn hoá của mình, tất cả nhằm góp phần
nâng cao trình độ dân trí của toàn xã hội. Những năm qua nhiều địa phương, nhiều bộ
ngành, nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhiều dòng họ đã khởi xướng, duy trì và
mở rộng phong trào xã hội học tập. Hội khuyến học Việt Nam đi đầu trong việc tổ
chức các trung tâm giáo dục cộng đồng, các hội trong Liên hiệp các hội khoa học kỹ
thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam và nhiều hội khác đã
mở nhiều trung tâm đào tạo, mở nhiều khoá đào tạo, phổ biến, nâng cao kiến thức
cho mọi tầng lớp nhân dân ở từng địa phương trong phạm vi toàn quốc. Phải khẳng
định đây là một trong những thành công nổi trội của hoạt động xã hội hoá giáo dục
trong thời gian qua.Trong hoàn cảnh hiện nay của nước ta, việc huy động tiền của,
vật chất, đất đai, sức lực của toàn dân, của toàn xã hội vào phát triển giáo dục là hết
sức cần thiết, và đây có thể xem như là một trong những nhiệm vụ cụ thể của xã hội
hoá giáo dục. Trên thực tế những năm qua nhiệm vụ này đã được triển khai rất hiệu

quả, góp phần xây thêm nhiều trường học, bảo đảm có chỗ học cho con em chúng ta.
Tuy nhiên ở một số địa phương vẫn còn trẻ em đến độ tuổi chưa được đến trường
nhất là các cháu mầm non ở các thôn, buôn xa trung tâm về phòng học cũng không
đủ để đáp ứng nhu cầu học tập hiện nay.
Với giáo dục mầm non là bậc giáo dục mang tính chất giáo dục gia đình, giáo dục
trẻ suốt tuổi ấu thơ, giáo dục bằng tấm gương, bằng môi trường, giáo dục trẻ ở mọi
lúc, mọi nơi, luôn thống nhất quá trình nuôi và dạy trẻ, vừa chăm sóc, vừa bảo vệ và
giáo dục trẻ,…Do đó Giáo dục mầm non mang tính chất xã hội hoá và tính tự nguyện
cao, giáo dục con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của
mỗi người đối với xã hội, đối với cộng đồng, giáo dục mầm non là trách nhiệm của
toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả trên thì vẫn còn những bất cập: Trong những năm qua,
quan điểm “ Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” chưa được nhận thức đầy đủ
trong xã hội, chưa thực sự chi phối sự chỉ đạo tổ chức thực tiễn của nhiều cán bộ
quản lý và các cấp quản lý, việc đầu tư cho giáo dục còn nhiều hạn chế. Trong quản
lý về giáo dục chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực
lượng xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Hiện nay, xã hội hoá giáo dục chưa phát huy được thế mạnh bởi vì trong xã hội
còn tồn tại nhiều nhận thức chưa thật tinh tế, toàn diện. Có quan điểm cho rằng xã hội
hoá giáo dục chỉ đơn thuần là sự đa dạng hoá các hình thức tham gia của nhân dân,
của xã hội mà ít chú trọng tới nâng mức hưởng thụ của người dân. Vì vậy, có nơi xã
hội hoá giáo dục chỉ đơn thuần về mặt huy động tài chính, huy động cơ sở vật chất,
Nhà nước khoán cho dân, dân thì lại trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước.
2


Đối với giáo dục mầm non nhiều người vẫn còn thờ ơ với nền giáo dục này.
Nguyên nhân của những tồn tại trên đó chính là do tuyên truyền để nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về giáo dục nhất là giáo dục mầm non còn hạn chế, chất lượng
chăm sóc giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo

xã hội hoá giáo dục cũng chưa thực sự có chiều sâu và đạt hiệu quả cao.
Thực tế cho thấy, công tác xã hội hoá giáo dục trong thời gian qua chủ yếu là vận
dụng nên nhìn chung chưa có cơ chế, chưa có phương pháp chung. Nơi nào biết làm,
được nhân dân ủng hộ thì xã hội hoá phát huy được tốt tác dụng, nơi nào cấp uỷ
chính quyền ít quan tâm thì sự nghiệp giáo dục chỉ bó hẹp trong trách nhiệm của
ngành giáo dục và đương nhiên là hiệu quả giáo dục thấp.
Bên cạnh đó, còn không ít cán bộ và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về bản chất
của xã hội hoá giáo dục và cho rằng nội dung cốt lõi của xã hội hoá là huy động tiền
của trong nhân dân để giảm bớt ngân sách của Nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Vì
thế, xã hội hoá được hiểu là chuyển gánh nặng từ vai Nhà nước sang nhân dân, nhiều
cán bộ chỉ thiên về hô hào, vận động, chưa quan tâm đổi mới cơ chế chính sách.
Không những thế, rất nhiều người còn nhận thức xã hội hoá đồng nghĩa với việc
thu tiền của dân làm nảy sinh tâm lý sợ hãi trong nhân dân mỗi khi nghe nói tới xã
hội hoá. Thực tế trong quá trình chỉ đạo cơ sở, mỗi khi triển khai được những hoạt
động lớn đòi hỏi phải có kinh phí, không ít cán bộ đã biến thuật ngữ “xã hội hoá”
thành những câu nói cửa miệng và đẩy chủ trương xã hội hoá thành những giải pháp
tình thế, những cứu cánh trong lúc khó khăn.
Có thể nói XHHGD có vai trò rất lớn, ảnh hưởng rất nhiều đến các thành tựu của
ngành giáo dục. Để nhà trường phát triển theo kịp với sự phát triển của thời đại cần
làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục có nghĩa là “ huy động toàn xã hội làm giáo dục,
động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp công sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
dưới sự quản lý của nhà nước”
Từ những vấn đề trên, để làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục nhằm góp phần
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ và đưa trường ngày càng được đi lên đáp
ứng được nhu cầu giáo dục hiện nay, tôi đã chọn đề tài “ Hiệu trưởng với công tác
xã hội hoá giáo dục tại trường Mẫu giáo ...” để tìm ra các giải pháp, biện pháp tốt
nhất tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục nhằm xây dựng cơ sở vật chất trong
trường Mẫu giáo ... đáp ứng yêu cầu đổi mới và thực hiện mục tiêu, chiến lược phát
triển của trường Mẫu giáo ..., phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia theo kế hoạch đề ra.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:

a.Mục tiêu: Để tuyên truyền về ngành học, Nhằm giúp mọi người hiểu hơn về
ngành học mầm non, để có cái nhìn khác hơn về ngành học chứ không chỉ đơn thuần
là hát múa
- Để các cấp ngành quan tâm hơn nữa đến giáo dục nói chung và giáo dục mầm
non nói riêng
3


- Nhằm phát huy được thế mạnh của toàn xã hội tham gia vào công tác giáo dục
- Nhằm Phối hợp tốt giữa các cấp, ngành, các tổ chức để cùng chăm lo cho giáo
dục
- Thiết lập và xây dựng được quy trình để từng bước xây dựng cơ sở vật chất để
có đủ khả năng đáp ứng đòi hỏi của yêu cầu đổi mới giáo dục và sự phát triển kinh tế
xã hội của địa phương
- Mục tiêu quan trọng nhất của đề tài là để đưa giáo dục mầm non của xã nhà nói
chung và trường mẫu giáo ... nói riêng từng bước đi lên, đáp ứng được nhu cầu giáo
dục hiện nay.
b.Nhiệm vụ của đề tài:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xã hội hoá giáo dục đến
toàn nhân dân trên địa bàn xã.
- Nêu ra được bản chất của xã hội hoá giáo dục và tầm quan trọng của ngành học
mầm non
- Đưa ra những biện pháp làm cho cộng đồng xã hội, nhận rõ lợi ích và trách
nhiệm của mình đối với giáo dục từ đó tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng cơ sở
vật chất cho trường Mẫu giáo .... Xem xét thực trạnh về cơ sở vật chất trong nhà
trường hiện nay.
- Xác định được đối tượng nào trong cộng đồng có khả năng tham gia vào xây
dựng và phát triển giáo dục.
I.3. Đối tượng nghiên cứu: Chính quyền địa phương, các đoàn thể, cha mẹ học
sinh…

I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu : Nghiên cứu thực trạng công tác xã hội hoá
giáo dục và cơ sở vật chất của trường Mẫu giáo ...
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực trạng, nêu vấn đề và giải quyết vấn đề;
- Phương pháp điều tra
- Phuơng pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp tham khảo tài liệu
PHẦN II: NỘI DUNG
II. 1. Cơ sở lý luận:
NQ TW4 khoá VII, NQ TW2 khoá VIII, và luật giáo dục đã xác định nội hàm của
khái niệm xã hội hoá giáo dục ( XHHGD). Theo đó XHHGD là phương thức làm

4


giáo dục, là việc huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân
góp phần xây dựng nền giáo dục dưới sự quản lý của Nhà nước;
Luật giáo dục ( Điều 93) quy định: Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp
với gia đình và xã hội để thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục, Điều 19 Nghị định
69/2008/NĐ-CP của Chính phủ về “chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường”
Xây dựng và phát triển tốt mối quan hệ với cộng đồng có một ý nghĩa quan trọng,
nó ảnh hưởng khá nhiều và tích cực đến kết quả cuối cùng của mỗi nhà trường. Mối
quan hệ ấy tạo thành một sức mạnh cộng hưởng, như dân gian đã đúc kết “ Một cây
làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Điều ấy không chỉ có ý
nghĩa trong hoàn cảnh nguồn ngân sách của Nhà nước dành cho giáo dục được ưu
tiên vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu giáo dục mà ngay cả khi nền kinh tế
nước nhà vững mạnh, nguồn ngân sách cho giáo dục được nâng lên, sự hợp tác ấy
vẫn cần thiết và quan trọng.

Trong điều kiện hiện tại, khi nhiều trường học, nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu
thốn, nghèo nàn, nhiều học sinh chưa được đến trường do thiếu phòng học, nhiều cha
mẹ học sinh ( CMHS) không kham nổi các khoản đóng góp cho nhà trường thì các sự
giúp đỡ, hỗ trợ của cộng đồng càng thêm nhiều ý nghĩa. Sự giúp đỡ đó sẽ giúp nhà
trường nâng cao cơ sở vật chất, giúp các cháu trong độ tuổi có điều kiện đến
trường…, ngoài ra, việc tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà trường với cộng đồng
còn thể hiện được truyền thống yêu thương, đoàn kết và chia sẻ của người Việt bao
đời nay.
XHHGD phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã
hội chăm lo sự nghiệp giáo dục. Theo nghĩa rộng xã hội hoá giáo dục có nghĩa là nhà
nước phải tạo ra không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một
khu vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực
hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội. Do
đó xã hội hoá giáo dục cần phải chỉ ra vai trò của xã hội trong sự nghiệp xã hội hoá
giáo dục. Nói cách khác, xã hội phải tham gia vào việc hình thành chương trình giáo
dục thông qua "xã hội hoá".
Bản chất của xã hội hoá giáo dục ( XHHGD) là mọi người làm giáo dục để giáo
dục phục vụ cho mọi người. Trách nhiệm của ngành giáo dục và nhà trường là phải
làm cho mọi người thấy rõ vai trò, lợi ích của giáo dục đối với đời sống cộng đồng,
trước khi giáo dục đòi hỏi xã hội thể hiện trách nhiệm tham gia đóng góp xây dựng
nhà trường.
Với giáo dục mầm non, đây là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách con người. Ở nước ta, Đảng và nhà nước cũng luôn coi trọng giáo dục
mầm non, với nhiều chủ trương chính sách mới cho giáo dục mầm non. Trong buổi lễ
giới thiệu và giao nhiệm vụ cho Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng lưu ý: “ So với các bậc học khác, đến nay chúng ta chưa lo được nhiều cho
5



giáo dục mầm non. Đây là một mảng còn yếu của giáo dục Việt Nam mà Bộ trưởng
và toàn ngành cần cố gắng khắc phục trong thời gian ngắn nhất”. Đề án phát triển
giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015 với quan điểm là “… Đẩy mạnh xã hội hoá,
tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để mọi tổ chức, cá nhân và toàn xã hội
tham gia phát triển giáo dục mầm non”. Quan điểm chỉ đạo này hoàn toàn phù hợp
với xu thế chung trên thế giới hiện nay về phát triển nền giáo dục quốc dân. Ở nhiều
nước, không chỉ ở những nước nghèo mà ngay cả ở những nước giàu, để phát triển sự
nghiệp giáo dục, họ đã tìm nhiều giải pháp để đẩy mạnh XHHGD, trong đó có
XHHGD mầm non (XHHGDMN). Trong nhận thức chung, XHHGD được hiểu là sự
huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây
dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Ở nước ta, XHHGD
cũng là một quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục nhằm
làm cho hoạt động giáo dục thực sự là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Điều 12
Luật giáo dục năm 2005 có nêu: “Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự
nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X cũng nêu rõ: “...Phấn đấu xây
dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội
học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Một số người khác lại nhận thức xã hội hoá chỉ có nghĩa là “nhà nước và nhân
dân cùng làm’’. Thật ra, “nhà nước và nhân dân cùng làm” chưa nói hết bản chất của
xã hội hoá. Xã hội hoá chính là một chủ trương liên quan đến đổi mới cơ chế quản lý,
xoá bỏ cơ chế bao cấp, coi trọng biện pháp tự quản của xã hội
Xã hội hoá giáo dục có tác động to lớn trong việc xây dựng cộng đồng trách
nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và phát triển môi trường kinh tế,
xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, tạo ra phong trào học tập
sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức, vận động toàn dân học tập suốt đời
để làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, làm cho xã hội ta
trở thành một xã hội học tập ...
II.2. Thực trạng:

a. Thuận lợi – khó khăn:
* Thuận lợi:
- Chính quyền địa phương luôn quan tâm, tạo điều kiện cho nhà trường làm tốt
công tác XHHGD
- Các thành viên trong bộ máy chính quyền địa phương đều có trình độ, có năng
lực, học thức cao, có am hiểu về giáo dục;
- Được sự hỗ trợ của các tổ chức, đoàn thể, cá nhân ở địa phương: Y tế, công an,
phụ nữ…

6


- Hiệu trưởng có trình độ trên chuẩn, có hiểu biết về tình hình địa phương, điều
kiện gia đình ổn định, có nhiều thời gian dành cho công việc của nhà trường.
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong nhà trường nhiệt tình, có trách
nhiệm trong nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.
* Khó khăn:
- Nhân dân trên địa bàn phường chủ yếu là thuần nông, kinh tế phụ thuộc vào mùa
vụ, điều kiện vật chất thiếu thốn. Nhà trường phòng học còn thiếu quá nhiều, cơ sở
vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Nguồn ngân sách của địa phương còn hạn chế.
- Chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng chưa nhận thức đầy
đủ về tầm quan trọng của giáo dục mầm non.
- Trình độ dân trí chưa đồng đều.
- Nhận thức về vấn đề xây dựng và phát triển mối quan hệ của đội ngũ cán bộ
giáo viên, nhân viên trong nhà trường còn hạn chế.
b.Thành công – hạn chế:
* Thành công
- Trường Mẫu giáo ... tuy mới thành lập song được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng,
chính quyền địa phương, các bậc cha mẹ nên công tác xã hội hoá giáo dục ở trường

cũng đã và đang phát huy tốt, phụ huynh đóng góp tiền san ủi mặt bằng sân trường,
cây xanh, vật chất góp phần không nhỏ vào công tác dạy và học của trường, bên cạnh
đó phụ huynh cùng với nhà nước đang tiếp tục xây dựng thêm 03 phòng học để có
phòng học cho các cháu, huy động được 98% số trẻ 5 tuổi ra lớp, số trẻ 3-4 tuổi ra
lớp cũng cao hơn rất nhiều so với những năm trước. Có được những kết quả như vậy
là do ban giám hiệu nhà trường đã tích cực, chủ động trong công tác tham mưu với
cấp ủy và các cấp lãnh đạo địa phương để huy động tối đa các nguồn lực hỗ trợ cho
các hoạt động giáo dục của nhà trường. Sự nhiệt tình, sáng tạo trong công tác tuyên
truyền đối với các tầng lớp dân cư về giáo dục mầm non và XHHGD. Có nhiều biện
pháp để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường của tập thể cán
bộ, giáo viên, công nhân viên trong trường.
Chính quyền đại phương quan tâm đến nhà trường, hàng năm hỗ trợ kinh phí sửa
chữa, mua sắm thiết bị, cụ thể như: Máy tính, máy chiếu, làm 200m2 mái vòm
* Hạn chế:
Trường mẫu giáo ... vừa mới tách được 3 năm, cán bộ quản lý chưa có kinh
nghiệm mới được bổ sung hai Phó hiệu trưởng tháng 8 năm 2013, trường nằm trên
địa bàn rộng dân cư tương đối đông 95% dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, có
30% là người dân tộc thiểu số vì vậy nhận thức về mọi mặt của cuộc sống xã hội đặc
biệt là về giáo dục mầm non còn nhiều hạn chế.
7


Cơ sở vật chất của nhà trường vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo
dục hiện nay. Toàn trường có 17 nhóm lớp nằm rải rác trên 8 thôn, với 36 cán bộ giáo
viên, nhân viên và 479 trẻ mà mới chỉ có 09 phòng học còn lại đều phải đi mượn,
phòng làm việc chưa có, do được tách ra từ trường tiểu học nên ban đầu bàn ghế chưa
đủ và không phù hợp với lứa tuổi mầm non, số trẻ được học bán trú chưa đạt 100%,
mới 348/479 cháu đạt 72,65% nên công tác tuyên truyền phối kết hợp còn chưa thể
đồng nhất và hiệu quả cao trong toàn nhà trường. Đội ngũ giáo viên hợp đồng nhiều (
08 giáo viên ) và hầu hết mới ra trường, kinh nghiệm chưa có, nhà nội trú cho giáo

viên không có nên giáo viên phải đi thuê nhà để ở và cũng không ổn định, số giáo
viên nghỉ hộ sản hàng năm nhiều do đó ảnh hưởng không nhỏ công việc và đến chất
lượng giáo dục cũng như việc tuyên truyền phối kết hợp của nhà truờng.
* Mặt mạnh:
-Nhà trường và Chính quyền địa phương ( CQĐP) đã có mối quan hệ tương đối
chặt chẽ.
- Chính quyền địa phương đã ban hành một số chủ trương trong công tác
XHHGD, đã quan tâm động viên về vật chất và tinh thần trong các dịp lễ tết. (CQĐP
đã tặng quà cho nhà trường trong các dịp lễ tết;
- Các ban ngành đoàn thể đã hưởng ứng và tham gia về công tác giáo dục (tham
gia khám chữa bệnh, vận động tuyên truyền phụ huynh đóng góp hỗ trợ cơ sở vật
chất… cho nhà trường ).
* Mặt yếu:
- Công tác phối hợp giữa nhà trường và các tổ chức đoàn thể chưa nhịp nhàng.
- Các cấp chưa có sự đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất trong nhà trường.
- Công tác khám chữa bệnh cho trẻ chưa có hiệu quả.
- Công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách về giáo dục chưa khoa học, số
trẻ 3-4 tuổi ra lớp còn ít do không đủ phòng học.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến công tác XHHGD:
- Xây dựng và phát triển tốt mối quan hệ cộng đồng đối với nhà trường và đặc
biệt phát triển tốt quan hệ giữa nhà trường với gia đình;
- Làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp thực hiện giữa chính quyền địa phương
và cha mẹ học sinh;
- Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức, vận
động nhân dân tạo môi trường lành mạnh, cùng với nhà trường chăm sóc, giáo dục
trẻ;
- Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương nhằm phát triển giáo dục
mầm non trên địa bàn. Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy Đảng, phát huy tiềm năng

8



trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo
dục.
- Tổ chức huy động các nguồn lực của cộng đồng, các tổ chức kinh tế, chính trịxã hội và các cá nhân trong cộng đồng góp phần xây dựng nhà trường thực hiện các
mục tiêu giáo dục mầm non.
- Tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo
được hưởng thụ thành quả giáo dục.
e. Phân tích, đánh giá thực trạng tại trường Mẫu giáo ...:
* Vị trí địa lý của Trường: Trường Mẫu giáo ... nằm ngay khu trung tâm của…,
Trường cách trung tâm huyện 30km về phía Bắc.
* Tình hình kinh tế của địa phương: Xã ...là xã thuần nông chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp ( chiếm 85% tỷ trọng nghành nghề), trên địa bàn còn nhiều hộ gia đình
thuộc hộ nghèo. Theo số liệu thống kê của năm 2012 xã có tổng số là 2654 hộ. Trong
đó hộ nghèo là 96 hộ chiếm 3.61 %, số hộ dân tộc kinh là 64 hộ chiếm 67%, các dân
tộc khác là 32 hộ chiếm 23% tổng số hộ nghèo. Thu nhập bình quân của xã là
20.000.000đồng/người/năm tương đương với 1.666.666 đồng/người/tháng. Tổng số
nhân khẩu của xã trong năm 2011 là 10.471 người, trong đó những người trong độ
tuổi lao động là 8.565 người, số người ngoài độ tuổi lao động là 401 người và số
người dưới độ tuổi lao động là 1.605 người, cho tới nay đời sông kinh tế của người
dân tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khó khăn.
* Tình hình xã hội: Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trên địa
bàn xã luôn sôi nổi và hào hứng. Việc thông tin tuyên truyền được thực hiện bằng
nhiều hình thức phong phú như cổ động bằng hình ảnh, pa nô, áp phích.
Hầu hết người dân trong xã ...sản xuất nông nghiệp là chính, phần lớn thu nhập
chủ yếu là từ nông nghiệp,
Xã có đông dân số là người dân tộc thiếu số, trình độ văn hóa thấp, dân cư không
ổn định thường vào những ngày mùa thì mới tập trung về thu hoạch khi đó số trẻ đến
trường thường cao hơn và thường xuyên hơn bình thường.
* Đặc điểm nổi bật của trường mẫu giáo ....

- Cơ cấu nhà trường: Trường Mẫu giáo ... là trường Mẫu giáo duy nhất đóng
trên địa bàn .... Trên cơ sở được tách ra từ trường Tiểu học …, tháng 8 năm 2011 gồm
có một điểm chính nằm ngay trung tâm xã và có 06 điểm lẻ nằm rải rác tại các thôn.
Trong năm học 2013-2014 trường có:
+ Tổng số 34 cán bộ GV-CNV

Nữ : 32

Dân tôc: 7

+ Lãnh đạo : 03

Nữ : 03

Dân tộc: 0

+ Giáo viên đứng lớp: 28

Nữ : 27

Dân tôc: 07

+ Nhân viên: 06

Nữ : 04

Dân tộc: 0
9



+ Trường có một chi bộ trực thuộc Đảng uỷ xã ...với số đảng viên là 06 đồng chí.
- Trình độ chuyên môn:
+ Có 28 cô giáo trực tiếp làm công tác giảng dạy được chia làm 3 khối ( mầm,
chồi, lá)
+ 100 % GV đạt chuẩn, trong đó có 16 GV đạt trên chuẩn. Số đông giáo viên còn
trẻ mới ra trường. 100% giáo viên có chứng chỉ anh văn và tin học A trở lên
- Tình hình Học sinh:
+ Tổng số: 479 cháu

Nữ : 221

Dân tộc : 98

Nữ dân tộc: 46

+Tổng số lớp : 17 lớp
+Trong đó:

Khối mầm: 45 cháu / 2 lớp

Khối lá: 272 cháu / 8 lớp

Khối chồi: 162 cháu / 6 lớp
-Công tác xã hội hóa giáo dục ở trường Mẫu giáo ...:
Thực tế ở trường Mẫu giáo ... chúng tôi trong thời gian qua, công tác xã hội hoá
có nhiều chuyển biến, đã đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp giáo dục địa phương.
Nhà trường đã chủ động đề xuất biện pháp với cấp uỷ và chính quyền địa phương,
phối hợp với gia đình và xã hội nhằm thống nhất quy mô, kế hoạch phát triển nhà
trường, ban lãnh đạo phối hợp với đoàn thể, giáo viên trong trường đề ra những biện
pháp giáo dục trẻ em và luôn quan tâm giúp đỡ những trẻ có hoàn cảnh khó khăn.

Mặt khác nhà trường cũng thường xuyên phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội và
cá nhân có liên quan để tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học đến các
bậc cha mẹ và cộng đồng., thực hiện phòng bệnh, khám sức khoẻ theo định kỳ một
năm hai lần cho trẻ. Huy động nhiều nguồn lực cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục
mầm non, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, tạo điều kiện để nâng
cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tuy nhiên trường chúng tôi cũng còn
không ít những khó khăn mà cần phải tích cực hơn nữa đến công tác xã hội hoá giáo
dục.
Mặc dù được các cấp quan tâm tuy nhiên cơ sở vật chất nhà trường vẫn còn nhiều
hạn chế, một số thôn buôn chưa quan tâm đến giáo dục, họ luôn phó mặc cho nhà
trường, phản đối các khoản huy động. Một số cán bộ địa phương chưa hiểu sâu về
giáo dục mầm non, công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ tại địa phương chưa được
quan tâm.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
- Xác định mục đích của XHHGD;
-Tìm Đối tượng có thể tham gia huy động xã hội hoá giáo dục;
- Xác định Chủ thể trong việc XHHGD;
10


- Nguyên tắc huy động cộng đồng tham gia xây dựng giáo dục;
- Nội dung huy động cộng đồng;
- Tìm ra những vấn đề cần thay đổi theo hướng tích cực trong nhà trường, từ đó
tìm cách khắc phục những hạn chế.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
*Nội dung:
- Thể chế hóa chủ trương XHHGD để chủ trương này nhanh chóng đi vào cuộc
sống;
- XHHGD tức là tạo cơ hội học tập cho tất cả mọi người trong xã hội, tạo nên một

xã hội học tập;
- Cộng đồng hóa trách nhiệm của giáo dục, của cộng đồng, xã hội;
- Đa dạng hóa loại hình, hình thức giáo dục;
- Đa phương hóa nguồn lực và huy động cộng đồng;
- Huy động những đại diện chủ chốt của cộng đồng tham gia vào quá trình quyết
định phương hướng phát triển của nhà trường;
- Huy động cộng đồng đóng góp các nguồn lực tài chính, vật chất…để xây dựng
tốt các điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ;
- Huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động chủ yếu như: Duy trì sĩ số,
phối hợp cùng với nhà trường tạo môi trường thống nhất, ủng hộ và vận động người
khác ủng hộ những chủ trương về hoạt động giáo dục.
* Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Xây dựng mối quan hệ với các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương để tạo
điều kiện cho việc huy động cộng đồng triển khai thuận lợi - Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xã hội hoá giáo dục:
Với đặc trưng là một ngành phát triển và tồn tại dựa nhiều vào sự đóng góp của
cha mẹ học sinh và cộng đồng, trường mầm non có mối quan hệ mật thiết với các thể
chế chính trị của địa phương. Do vậy trường mầm non cần phải xây dựng mối quan
hệ tốt đối với công tác giáo dục của nhà trường. Để làm được điều nay, đòi hỏi cần:
+ Nắm bắt được luật giáo dục, các nghị quyết về xã hội hoá giáo dục
+ Nắm được đặc điểm đối tượng để tham mưu phù hợp.
+ Tìm cách gần gũi, tạo mối quan hệ thân thiết, hiểu biết
+ Nói năng mạch lạc rõ ràng, có bài bản, mềm dẻo, kiên quyết và có đấu tranh nếu
cần.
+ Các đề xuất đã được chuẩn bị trước, có kế hoạch, có cơ sở khoa học, thiết thực
dựa trên đường lối chủ trương của Đảng
11


+ Luôn chớp lấy thời cơ thuận lợi và nắm bắt thông tin nhanh nhạy.

Như tôi đã trình bày ở trên, bản chất xã hội hoá giáo dục là quá trình vận động và
tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của mọi người cùng làm giáo dục để phục
vụ cho mọi người. Trách nhiệm của ngành giáo dục và trường mầm non là phải làm
cho mọi người thấy rõ vai trò, lợi ích của giáo dục đối với đời sống cộng đồng. Cần
phải làm cho mọi người hiểu đúng bản chất của xã hội hoá giáo dục, sự cần thiết phải
tham gia xã hội hoá giáo dục, từ đó nâng dần tính tự giác, tích cực chủ động, tình
cảm và năng lực hoàn thành công việc này. Vì vậy phải tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động cung cấp thông tin một cách đầy đủ về đường lối, mục đích, chủ
trương, yêu cầu, thuận lợi, khó khăn… nhằm làm chuyển biến nhận thức của các cấp
uỷ Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, và quần chúng nhân dân theo
hướng tích cực về vị trí hàng đầu của giáo dục, về bản chất, nghĩa vụ và quyền lợi
của xã hội hoá giáo dục để quần chúng có đủ hiểu biết, chủ động tham gia vào
XHHGD. Để làm được điều này tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
+ Tổ chức học tập, quán triệt các văn bản, nghị quyết, chỉ thị có liên quan đến
giáo dục và xã hội hoá giáo dục của Đảng đến toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên
trong toàn trường, sau đó tuyên truyền rộng khắp đến các bậc cha mẹ thông qua hình
thức họp phụ huynh, mọi lúc, mọi nơi để mọi người nắm vững chủ trương, đường lối,
chính sách vận dụng vào thực tiễn.
+ Xây dựng kế hoạch huy động xã hội tham gia giáo dục, phân phối các nguồn lực
thích hợp, xây dựng các cơ chế liên kết giữa nhà trường, gia đình, lực lượng xã hội,
tham gia các hoạt động của địa phương, tổ chức các hoạt động phối kết hợp hoặc kết
nghĩa với các đơn vị kinh tế, xã hội hoặc huy động các nguồn lực cho nhà trường
bằng việc xây dựng các chương trình hay dự án.
+ Xây dựng góc tuyên truyền ở trường, lớp, cộng đồng: Tuyên truyền về kiến thức
nuôi dạy con theo khoa học, những yêu cầu mà cha mẹ cần phối hợp với nhà trường,
tuyên truyền các điển hình tham gia đóng góp xây dựng giáo dục…Nội dung các tài
liệu trưng bày ngắn ngọn, thiết thực, luôn thay đổi, cập nhật thông tin, hình thức hấp
dẫn để mọi người dễ xem, dễ nhớ.
+ Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: Phối hợp với đài truyền
thanh của xã tuyên truyền sâu rộng, thiết thực trong nhân dân và cha mẹ học sinh

thông qua hệ thống phát thanh hàng ngày nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức
và hành động của nhân dân trong công tác XHHGD.
* Xây dựng mối quan hệ với các ban ngành, đoàn thể, các cơ sở kinh doanhsản xuất.
Cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế, chính trị,
các ban ngành đóng trên địa bàn, tranh thủ sự hỗ trợ của họ cả về mặt vật chất lẫn
tinh thần, có hình thức phối hợp hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng:

12


- Kết hợp với đoàn thanh niên để chăm lo giáo dục trẻ em trên địa bàn, tổ chức
các hoạt động văn hoá, văn nghệ, tuyên truyền…
- Kết hợp với phụ nữ địa phương để tuyên truyền, vận động gia đình cho trẻ đến
trường, tuyên truyền các kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ, tuyên truyền sinh đẻ có kế
hoạch, tham gia hội thi “ Gia đình và dinh dưỡng trẻ thơ”, phát động phong trào thi
đua trong công tác tuyên truyền. Cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với tổ chức đoàn
thể, tổ chức kinh tế, chính trị, các ban ngành đóng trên địa bàn, tranh thủ sự hỗ trợ
của họ cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, có hình thức phối hợp hiệu quả, phù hợp với
từng đối tượng: Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, giúp phụ nữ phát triển kinh tế
gia đình nhằm đảm bảo nhu cầu vật chất và tinh thần cho cuộc sống của trẻ.
- Liên hệ thường xuyên và kết hợp với Hội đồng giáo dục xã để làm tốt chế độ
chính sách cho giáo viên và trẻ mầm non, liên hệ chặt chẽ với trường tiểu học giúp
trẻ mẫu giáo 5 tuổi làm quen với trường tiểu học, tạo sự quan tâm giúp đỡ của học
sinh lớn đối với em nhỏ nhằm tạo sự phấn khởi cho trẻ bước vào lớp 1 tiểu học.
- Xây dựng mối quan hệ hợp tác với các cơ sở kinh doanh, các doanh nghiệp
nhằm hỗ trợ về tài chính, vật liệu để làm phong phú thêm thiết bị, đồ dùng, đồ chơi
và giúp trẻ được tham quan, tìm hiểu về các nghề sản xuất, kinh doanh…
* Xây dựng mối quan hệ nhà trường với gia đình trẻ:
Cha mẹ học sinh là một lực lượng quan trọng góp phần tạo nên chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. Vì vậy, giáo dục gia đình trở thành một bộ phận

quan trọng gắn bó hữu cơ trong sự nghiệp giáo dục trẻ.
Xây dựng mối quan hệ tốt trong sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường
và gia đình là nhiệm vụ quan trọng đối với trường tôi. Giáo viên là người đại diện
cho nhà trường có trách nhiệm trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này, nhằm tạo ra môi
trường giáo dục thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và giúp
nhà trường phát huy được thế mạnh của gia đình trong công tác chăm sóc giáo dục
trẻ.
Để xây dựng được tốt mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường, chúng
tôi đã phải:
- Thường xuyên trao đổi thông tin về trẻ với cha mẹ, thu hút họ tham gia vào các
hoạt động của nhà trường, giáo viên và nhà trường có trách nhiệm làm cho gia đình
nắm được mục tiêu, nội dung, phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ, tuyên truyền và
hướng dẫn gia đình những kiến thức khoa học về cách nuôi dạy trẻ: cách dạy trẻ học,
trẻ chơi, về dinh dưỡng trẻ em…. Nhà trường đã đáp ứng nhu cầu về chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ, tạo dựng cho họ niềm tin vào nhà trường.
- Giáo viên đã không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quan tâm
xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng khẩu phần ăn hợp lý cho trẻ để nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Gần gũi lắng nghe ý kiến đóng góp xây dựng của gia
đình đối với trường, với giáo viên để không ngừng điều chỉnh và hoàn thiện.
13


- Xây dựng các hình thức phối kết hợp đa dạng, phong phú: Trao đổi hàng ngày
thông qua giờ đón và trả trẻ; họp phụ huynh theo định kỳ một năm 3 lần; tổ chức
thăm hỏi gia đình; mời cha mẹ trẻ tham gia một số hoạt động của trường, của lớp…
* Xây dựng mối liên kết nhà trường – cộng đồng:
Nhà trường – gia đình – cộng đồng cần tạo nên một chỉnh thể thống nhất để cùng
chăm sóc, giáo dục trẻ. Mối quan hệ gắn kết này không thể chỉ là quan hệ hai chiều
nhà trường – gia đình mà là mối quan hệ đa chiều: Nhà trường – gia đình – cộng
đồng

- Nhà trường cần làm cho việc vui chơi, học tập của trẻ trở nên hấp dẫn, gắn nhà
trường với cuộc sống bên ngoài của các em bằng cách tạo mối liên kết thực của các
em với ước mơ và cơ hội trong tương lai. Trường đã thiết kế các hoạt động dựa trên
sở thích của trẻ, tạo cho trẻ niềm tin và ý thức trách nhiệm với bản thân.
- Gia đình, cha mẹ có trách nhiệm và nghĩa vụ tạo mọi cơ hội cho trẻ đựoc vui
chơi, học tập tại trường.
- Cộng đồng buộc gia đình phải có trách nhiệm trong việc dạy dỗ con cái
- Nhà trường và cộng đồng xem vấn đề an toàn trong nhà trường là một ưu tiên
hàng đầu và tạo môi trường an toàn cho nhà trường thông qua việc thiết lập mối quan
hệ tốt với hàng xóm láng giềng gần gia đình và nhà trường
* Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội tham gia công tác xã
hội hoá giáo dục:
Để thực hiện liên kết các lực lượng xã hội hưởng ứng tích cực đối với giáo dục,
tập hợp các lực lượng xã hội đóng góp, ủng hộ, tham gia xây dựng môi trường nhà
trường từ cơ sở hạ tầng, cảnh quan, nề nếp chăm sóc giáo dục trẻ đến các mối quan
hệ bên trong nhà trường, quan hệ nhà trường với xã hội để nhà trường thực sự trở
thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh.
Thường xuyên phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục với Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp…để vận động
các tầng lớp nhân dân tham gia đắc lực có hiệu quả vào sự nghiệp giáo dục.
Như vậy để huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội tham gia công
tác xã hội hoá giáo dục tôi đã quan tâm đến một số vấn đề:
- Trước tiên cần mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng, phải huy
động cộng đồng cùng tham gia vào công tác giáo dục mầm non. Cụ thể: Đoàn thanh
niên của xã đã cùng với nhà trường trồng vườn cây ăn quả cho trường
- Công tác phối hợp với phụ huynh: Công tác phối hợp với phụ huynh đặc biệt
quan trọng khi thực hiện chương trình nuôi dạy, chăm sóc trẻ, phụ huynh hỗ trợ giáo
viên rất nhiều trong việc thực hiện kế hoạch giáo dục đặc biệt là giáo dục cá nhân trẻ.
Giáo viên là người thường xuyên tiếp xúc với phụ huynh vì vậy tôi giao quyền chủ


14


động cho giáo viên và tin tưởng vào những biện pháp kích thích sáng tạo, tính giám
chịu trách nhiệm ở giáo viên và gợi ý kế hoạch phối hợp phụ huynh.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội
trong việc tổ chức tham gia cùng làm giáo dục. Để làm được điều này cần phải xây
dựng mối quan hệ giữa gia đình với nhà trường và các lực lượng xã hội. Gia đình là
nơi đem đến cho trẻ những bài học đầu tiên, thường xuyên và liên tục từ lúc sinh ra
đến khi trưởng thành. Đây là điểm gặp gỡ quan trọng đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách trẻ. Nó có những chỗ mạnh đáng kể như tính cảm xúc cao, tính linh
hoạt, tính thiết thực, tính thích ứng nhanh nhạy giữa những người trong gia đình và
yêu cầu cuộc sống. Những mặt mạnh đó có thể bổ sung cho giáo dục nhà trường và
ngược lại nhà trường có thể bổ sung những mặt hạn chế của giáo dục gia đình
phương pháp giáo dục, môi trường giáo dục…góp phần chăm sóc giáo dục trẻ một
cách hoàn thiện hơn.
Qua một số hoạt động cụ thể ở địa phương, trường chúng tôi đã tổ chức một số
hoạt động có sự tham gia của cha mẹ học sinh cũng như các đoàn thể xã hội địa
phương đó là tổ chức “ Ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường”; “ Vui tết trung thu”; “
tháng hành động vì trẻ em”; “ ngày Quốc tế thiếu nhi 01/6”…vận động phụ huynh
quan tâm chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và tạo điều kiện tốt nhất để con em học tập,
vui chơi, có trách nhiệm cùng nhà trường chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Bên cạnh đó nhà
trường còn tổ chức các hội thi dành cho giáo viên, học sinh và cha mẹ trẻ cùng tham
gia chẳng hạn, hội thi “ Gia đình và dinh dưỡng trẻ thơ”, hội thi “ Bé nhanh trí”; “ Bé
với môi trường xung quanh”…đây là dịp tốt nhất để vận động nhân dân cũng như cha
mẹ học sinh, các cơ quan, các tổ chức xã hội tham gia đóng góp, xây dựng giáo dục
và thông qua các hoạt động, các hội thi này nhằm tuyên truyền cho xã hội hiểu rõ về
giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng và nhất là mọi người hiểu được
tầm quan trọng phải đưa trẻ trong độ tuổi đến trường, tuyên truyền về những công
việc mà ngành giáo dục thực hiện để nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dạy trẻ, để

từ đó có sự phối hợp thực hiện tốt mục tiêu đào tạo. Như vây, từ việc xác định các
nhóm đối tượng, vai trò, tiềm năng của các lực lượng xã hội cần phải biết cách tổ
chức sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục một cách hiệu quả.
- Tổ chức các hoạt động, phong trào tạo động lực trong việc huy động tiềm năng
của cộng đồng để phát triển giáo dục. Để tạo được bước đột phá trong việc huy động
cộng đồng tham gia giáo dục thì công tác tổ chức xã hội hoá giáo dục cần hướng vào
việc tổ chức các hoạt động, các phong trào thi đua, các ngày hội để cộng đồng có cơ
hội thể hiện sự quan tâm của mình đối với giáo dục. Là cán bộ quản lý giáo dục cần
phải biết thiết kế, tổ chức các hoạt động, các phong trào có sự chứng kiến, tham gia
trực tiếp của của cộng đồng, đó là những biện pháp “ kích cầu” làm thay đổi bộ mặt
giáo dục. - Tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương: Thực
tế chỉ ra rằng, xã hội hoá giáo dục không có nghĩa là buông lỏng sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của nhà nước mà càng phải thể hiện rõ sự lãnh đạo tập trung, quản
lý thống nhất của chính quyền địa phương, phát huy tính năng động, sáng tạo của
15


ngành giáo dục, tổ chức phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong một cơ chế tổ
chức. XHHGD phải đặt trong sự quản lý của nhà nước và để XHHGD phát triển
đúng hướng cần có sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của các cấp uỷ Đảng. Các cấp
uỷ Đảng bên cạnh việc chăm lo giáo dục cán bộ đảng viên gương mẫu chấp hành
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cần chú trọng hướng dẫn cho chính
quyền và các tổ chức đoàn thể, xã hội cùng chăm lo cho giáo dục.
- Huy động sự đóng góp về tài chính, vật lực của các cơ quan, đơn vị đóng trên
địa bàn, các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện…Với mục đích tăng cường thêm cơ sở
vật chất, các điều kiện phục vụ dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, với
thực tế của trường, cơ sở vật chất quá nhiều thiếu thốn, trường mới tách ra và khi
tách chỉ có 03 phòng học, số lớp và số học sinh lại quá đông do địa bàn trường quản
lý rộng. Do đó, tôi đặc biệt quan tâm đến tới việc huy động sự đóng góp tài chính,
tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng kinh tế, các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện

…tới các hoạt động giáo dục. Kết quả đạt được đó là: Phụ hunh đóng góp để mua
thêm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, đóng góp để tổ chức các hoạt động phong trào, các
hội thi của trường, của ngành và đặc biệt là đóng góp để xây dựng nhà vệ sinh, hỗ trợ
xây phòng học, ngoài ra phụ huynh còn đem tặng cả xây xanh để góp phần tạo môi
trường xanh trong nhà trường.
- Ngoài những vấn đề trên thì biện pháp bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cũng hết
sức quan trọng trong quá trình XHHGD. Theo tinh thần nghị quyết Trung ương về
giáo dục đào tạo “ nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” để thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển thì việc xây dựng đội ngũ giáo viên, là vấn
đề quan trọng. Vì giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Do đó giáo
viên mầm non cần phải năng động, nhanh nhẹn, sáng tạo và phải say mê với công
việc, không ngừng phấn đấu học tập nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, chính vì
vậy đối với trường chúng tôi hiện tại đã và đang theo học trên chuẩn là trên 90% tổng
số giáo viên. Ngoài bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cần chú ý bồi dưỡng về
chính trị. Vì nắm được các nhiệm vụ trọng tâm của năm học, nắm được nội quy quy
chế, các chỉ thị về XHHGD, các nghị quyết, các văn bản hướng dẫn thì mới thực hiện
tốt được nhiệm vụ. Để thực hiện được vấn đề này trường đã xây dựng quy chế thi
đua, đưa vào các chỉ tiêu thi đua và cho giáo viên đăng ký ngay từ đầu năm học và tổ
chức phát động thi đua hướng vào các ngày hội, ngày lễ. Tổ chức các hội thi nhằm
nâng cao năng lực chuyên môn, nâng cao tay nghề và nâng cao công tác tuyên truyền
đến cộng đồng. Bên cạnh đó cũng đặc biệt quan tâm đến ổn định đời sống vật chất,
đời sống tinh thần cho giáo viên để họ an tâm công tác, say sưa với nghề nghiệp.
Như vậy, cần nhận thức được rằng chỉ có thể làm tốt XHHGD mới có thể đáp ứng
được đầy đủ các yêu cầu của gia đình, của xã hội, nhằm mục đích xây dựng con
người mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, trên cơ sở mục
tiêu giáo dục, mỗi cơ quan đoàn thể, mỗi cá nhân trong cộng đồng có thể tham gia
vào một số việc nhất định phù hợp với khả năng và điều kiện của mình, để góp phần
thiết thực vào công tác XHHGD ở địa phương.
16



c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: Để thực hiện được những giải
pháp, biện pháp trên cần có các điều kiện sau:
- Xác định được vai trò trung tâm, nòng cốt của nhà trường trong XHHGD; phải
thể hiện tính chủ động, sáng tạo, quyết định được nội dung hoạt động XHHGD;
- Phối hợp với các tổ chức xã hội trong nhà trường như Đoàn, công đoàn, xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, cơ chế hội nghị công chức hàng năm
theo đúng yêu cầu;
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đồng bộ, đủ sức tiến hành tất cả các hoạt động chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, hoạt động xã hội với chất lượng cao, thực hiện tốt các
chương trình, nội dung giáo dục, không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc , nuôi
dưỡng, giáo dục trong nhà trường;
- Yêu cầu hiệu trưởng phải có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Từ những giải pháp tôi đưa ra những biện pháp để giải quyết vấn đề.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề:
Qua thực hiện các giải pháp, biện pháp trên kết quả đạt được đó là nhà trường
ngày càng phát triển, công tác xã hội hóa được cải thiện. Đề tài có giá trị trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của nhà trường.
Bằng các biện pháp đã góp phần nâng cao trách nhiệm của mọi người đối với giáo
dục nói chung và đối với trường Mẫu giáo ... nói riêng, tạo ra môi trường giáo dục
thống nhất, tích cực.
II.4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
a. Kết quả:
Nhờ làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục nên trong năm qua và năm học 20132014 trường đã từng bước được phát triển và đạt được nhiều thành tích, cụ thể: Duy
trì sự ổn định và phát triển giáo dục đúng hướng, chất lượng ngày càng được nâng
cao, nhà trường đã nhận được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp.
Do vậy, hiện tại trường đã có sân chơi và có đồ chơi ngoài trời cho trẻ, năm học
2012-2013 có 328/447 trẻ được học bán trú ( đạt 73,37% ), năm học 2013-2014 có
328/479 trẻ bán trú, đạt 72,65%. Bên cạnh đó, bàn ghế học sinh đã đủ và phù hợp với

lứa tuổi mầm non, năm học 2013-2014 phụ huynh đã đóng góp để mua đồ dùng, đồ
chơi phục vụ dạy và học được 60.000.000đ điều này đã góp phần làm phong phú
hơn trang thiết bị của trường. Qua các ngày hội, ngày lễ, qua các hội thi cũng nhận
được sự ủng hộ, đóng góp của tập thể, các nhà hảo tâm trên địa bàn với tổng giá trị
5.000.000đ ( năm học 2012-2013), cụ thể từng năm:
+ Năm 2010 cha mẹ học sinh đóng góp làm được 150m2 sân trường

17


+ Năm 2011 từ nguồn xã hội hóa giáo dục trường đã xây dựng được 200m2 mái
vòm phục vụ cho hoạt động vui chơi của trẻ, Phòng giáo dục hỗ trợ cho trường 02 bộ
đồ chơi liên hoàn; nhân dân thôn … đóng góp xây 01 phòng học tại thôn cho con em
trong thôn học;
+Năm 2012 phụ huynh học sinh đối ứng 400 triệu đồng để xây 03 phòng học, nhà
bếp; UBND xã hỗ trợ 30 triệu đồng để làm thêm mái vòm sân chơi;
+Năm 2013 UBND xã tặng cho trường 01 bộ máy chiếu trị giá hơn 30 triệu đồng
để phục vụ công tác giảng dạy; UBND xây dựng tường rào, sân pêtông;
Với sự hỗ trợ từ công tác xã hội hoá giáo dục thành tích của tập thể nhà trường
cũng đã được ghi nhận: Hàng năm có trên 70% trẻ đạt bé ngoan xuất sắc, trẻ được
đảm bảo an toàn tuyệt đối và không có trẻ suy dinh dưỡng, đối với cán bộ giáo viên
có 100% giáo viên được đánh giá chuẩn nghề nghiệp và có trên 70% đạt xuất sắc,
không có đạt yêu cầu. Năm học 2010-2011 có 75% giáo viên được công nhận lao
động tiên tiến và có 01 đồng chí đạt chiến sĩ thi đua cấp cơ sở.
Những hình ảnh so sánh của trường khi mới thành lập cho đến nay:
Bảng so sánh cụ thể:
Những điểm cơ
bản

Năm

20102011

Năm
20112012

Năm
20122013

Năm
20132014

Số lượng
sinh

302
cháu

347
cháu

443
cháu

479
cháu

03
phòng

03

phòng

07
phòng

07
phòng

học

Phòng học

Bàn ghế đúng
quy cách

50 bộ

Chất lượng học
sinh

Đội ngũ

120

180

Ghi
chú

190


bộ

bộ

bộ

60%
trẻ đạt
bé ngoan
xuất sắc

65%
trẻ đạt bé
ngoan
xuất sắc

85%
trẻ đạt bé
ngoan
xuất sắc

85%
trẻ đạt bé
ngoan
xuất sắc (
học kỳ I )

17
CBGVNV


29
CBGVNV

34
CBGVNV

36
CBG
V-NV

18


Đồ chơi ngoài
trời

0

02 bộ

Sân chơi an toàn

150m2

ủng hộ của các
nhà hảo tâm

5 triệu
đồng


03 bộ

03 bộ

650m2

750m2

7triệu đồng

15cây
xanh

b. Giá trị khoa học:
Từ thực tiễn thực hiện các giải pháp, biện pháp trên giá trị của đề tài này:
+ Nhà trường đã xây dựng được các cơ chế liên kết giữa nhà trường, gia đình và
các lực lượng xã hội;
+ Khai thác tốt các nguồn lực, như sơ đồ dưới đây


quan
đơn
vị GD

Công
đoàn

Y tế
Báo

chí

Chính
quyền
địa
phươn
g

Gia đình
& BĐ
DCMHS

Khuyế
n học

Doan
h
nghiệ
p

Tổ
chức
quốc tế

Trường
MG ...
- Mọi thành viên nhà trường thấm nhuần chủ trương, đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo, hiệu trưởng tham mưu tích cực
với cấp uỷ, chính quyền các cấp để nhằm cụ thể hoá thành cơ chế, chính sách, giúp
cho việc triển khai thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục có kết quả.


19


- Tăng cường các hình thức và biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức trong
nhân dân về vai trò của giáo dục vì chỉ khi nhân dân hiểu về giáo dục, đồng tình với
giáo dục, cùng chia sẻ với nhà trường những khó khăn thì mới phát huy và đạt được
kết quả như mong muốn.
- Tổ chức công tác vận động, tuyên truyền, tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư, nâng
cấp cơ sở vật chất, trang bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động
nuôi dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ. Tích cực vận động nhân dân tham gia vào các hoạt
động giáo dục. Tích cực vận động chính quyền, đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp và
các cá nhân ủng hộ tài chính cho nhà trường.
- Tham mưu tích cực với các cấp lãnh đạo để mua sắm, bổ sung đầy đủ trang thiết
bị đồ dùng, đồ chơi. Cần phát huy nội lực trong việc xây dựng cở sở vật chất, xây
dựng đội ngũ, có kế hoạch lâu dài, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
xây dựng lòng tin trong học sinh, phụ huynh cũng như cộng đồng… làm chỗ dựa cho
việc xã hội hoá công tác giáo dục với tư cách là cơ quan chuyên môn tham mưu với
lãnh đạo, với cộng đồng.
- Nhà trường đã xây dựng kế hoạch một cách khoa học và có những biện pháp
mềm dẻo, việc làm phù hợp để tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng tham gia vào
xã hội hoá giáo dục.
- Đội ngũ luôn học tập, không ngừng nâng cao phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, nắm bắt kịp thời các thông tin đổi mới về phương pháp giáo dục góp
phần vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
III.1. Kết luận:
Ngành học mầm non là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục và đào tạo nếu cơ
sở vật chất đầy đủ, chất lượng giáo dục trẻ tốt sẽ góp phần vào việc xây dựng và phát
triển trường học, đưa chất lượng giáo dục đảm bảo yêu cầu xây dựng trường tiên tiến

và là yếu tố quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện về Đức – trí –
Thể - Mỹ. Hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững
chắc cho trẻ bước vào trường tiểu học. Muốn đạt được điều đó người cán bộ quản lý
cần phải năng động, sáng tạo, luôn phải tìm tòi, học hỏi những kinh nhiệm về quản
lý, cần phải có kế hoạch, chiến lược phát triển nhà trường một cách khoa học, sáng
tạo. Để thực hiện được kế hoạch, chiến lược đề ra thì điều đầu tiên là cần phải làm
tốt công tác xã hội hoá giáo dục để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ, cơ sở vật chất nhà trường ngày càng đi lên đáp ứng với nhu cầu đổi mới góp
phần thực hiện Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước.
Qua thực tế, việc xã hội hoá giáo dục ở mỗi trường là rất cần thiết, nếu biết phát
huy các nguồn lực, các lực lượng xã hội chắc chắn nhà trường sẽ nhanh chóng hoàn
thiện và hoàn thành các nhiệm vụ của trường một cách xuất sắc. Đúng như lời Bác
dạy:
20


“ Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Để nhà trường là trái tim của cộng đồng và cộng đồng là vầng trán của nhà trường
thì mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp phải xuất phát từ việc phải đảm bảo các nguyên
tắc về lợi ích, về chức năng và nhiệm vụ, về luật pháp, về truyền thống, về tình
cảm…Để huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển giáo dục mầm non
nhà trường cần phải:
+ Tổ chức tốt công tác tuyên truyền về ngành học và về nhà trường với những nội
dung thiết thực, dưới nhiều hình thức.
+ Tạo lập uy tín, niềm tin đối với cha mẹ trẻ, lãnh đạo Đảng, chính quyền địa
phương và cộng đồng thông qua việc khẳng định uy tín, chất lượng của trường.
III.2. Kiến nghị:
* Cấp huyện & Phòng giáo dục: Trường mẫu giáo ... mới tách, cơ sở vật chất
ban đầu chỉ có 03 phòng học cấp 4, tuy nhiên cho đến nay đã xây dựng được thêm 04

( 01 phòng tạm) phòng học nữa nhưng vẫn chưa đáo ứng được nhu cầu, số học sinh
trong một lớp còn quá đông ( 63 cháu/ lớp), bộ đồ dùng cho lớp 5 tuổi chưa đủ. Vậy
đề nghị cấp trên đầu tư xây dựng cho trường thêm phòng học, đề nghị hỗ trợ thêm đồ
dùng đồ chơi, trang thiết bị cho trường. Cần đầu tư các hạng mục tập trung, đầu tư
một cách có hiệu quả về cơ sở vật chất phục vụ dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục một cách toàn diện.
* Với chính quyền địa phương: Cần tiếp tục tạo điều kiện cho trường phát huy
và làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục.
Trên đây là một số kinh nhiệm của tôi qua thời gian làm công tác quản lý, do chưa
có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý nên còn nhiều hạn chế, rất mong hội
đồng khoa học các cấp và đồng nghiệp góp ý thêm để tôi hoàn thiện hơn những năm
tiếp theo.
Xin cảm ơn!

21



×