Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHÂN vật LỊCH sử VIỆT NAM TRONG PHONG TRÀO văn THÂN CHỐNG PHÁP 1883 1885

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.12 KB, 86 trang )

NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM TRONG PHONG TRÀO VĂN
THÂN CHỐNG PHÁP (1883 – 1885)
1. Đô thống Tạ Hiện
Tạ Hiện còn có tên là Tạ Quang Hiện, sinh năm Tân Sửu (1841), con cụ Tạ Văn Diên, người
làng Quan Lang, huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định, nay là xã Quan Lang, huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình. Tạ Hiện từ khi nhỏ đã ưa hoạt động, giỏi võ nghệ, bơi lặn, đỗ tú tài võ. Ông giữ đến
chức Đốc binh quân vụ tỉnh Tuyên Quang.
Tháng 9 năm 1872, Tạ Hiện chỉ huy một số thuyền nhỏ của Nghệ An, đánh tan 30 chiến thuyền lớn
của bọn hải tặc nước ngoài tại Hàm Giang (Quảng Yên). Sau chiến thắng này Tạ Hiện được phong Phó
quản cơ.
Ngày 31 tháng 12 năm 1873, quân Pháp trao trả tỉnh thành Hải Dương, triều đình cử Tạ Hiện làm
Lãnh binh, (Nguyễn Huy Tự làm Hộ đốc, Nguyễn Hữu Đỗ làm Bố chính).
Tháng 10 năm 1879, thành lập đồn Cối Sơn, tỉnh Quảng Yên, Tạ Hiện được cử chỉ huy đồn. Ông chỉ
huy quân lính đánh dẹp bọn phỉ phương Bắc, nên vùng này được yên lành.
Tháng 8 năm 1882, Tạ Hiện được thăng Chưởng vệ, lãnh Đề đốc Bắc Ninh. Tháng 2 năm 1883, triều
đình giao cho Tạ Hiện chỉ huy đội Hùng nhuệ thay Thống chế Hoàng Văn Thụ bị giáng chức.
Ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định thất thủ, Tạ Hiện xin triều đình thôi giữ chức chỉ huy
Hùng nhuệ quân về giữ chức Đề đốc Nam Định để khôi phục lại tỉnh thành.
Ngày 25 tháng 8 năm 1883, triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi, nước ta phải chịu sự bảo hộ của
Pháp.
Tháng 9 năm 1883, triều đình ra lệnh triệt binh, Tạ Hiện không chịu, kiên quyết ở lại cùng nhân dân
kháng chiến. Ông phái người nộp trả ấn Đề đốc, rồi cùng một số quan lại, binh lính lui về phủ Kiến Xương
(Nam Định) phát hịch tố cáo giặc Pháp xâm lược, chiêu mộ hương dũng đánh Pháp nhiều trận kịch liệt. Ông
còn mở rộng địa bàn hoạt động xây dựng căn cứ chống Pháp ở các huyện Hưng Nhân và huyện Thần Khê,
Duyên Hà khi đó thuộc tỉnh Hưng Yên. Ông còn phối hợp với Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế thủ lĩnh cuộc
khởi nghĩa Bãi Sậy đánh quân Pháp nhiều trận lớn trên hai bờ Tả ngạn và Hữu ngạn sông Luộc.
Cuối năm 1883, Tạ Hiện tập trung tới 4.000 - 5.000 nghĩa quân, đánh chiếm lại tỉnh thành Nam Định.
Họ đã làm chủ vùng nông thôn: thu thuế, tuyển lính, xử án...
Trong những chiến công của nghĩa quân do Tạ Hiện chỉ huy trên các chiến trường ở các tỉnh Thái
Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, có những trận đánh lớn vào đồn giặc ở Trà Lý (Thái
Bình), đền Trần (Nam Định), trận đánh úp đồn Quỳnh Côi (Thái Bình) gây cho địch nhiều thương vong


và thu được nhiều vũ khí. Nghĩa quân dựa vào dân thực hiện chiến tranh du kích, thiên biến vạn hóa,
thoắt ẩn, thoắt hiện. Giặc Pháp tung quân đi càn quét không tìm được nghĩa quân nhưng lại thường bị
đánh úp, bị phục kích. Có trận nghĩa quân mặc quần áo lính khố xanh, công khai hành quân ban ngày.
Lực lượng nghĩa quân Tạ Hiện ngày càng đông, mạnh mẽ, được huấn luyện tốt, có tinh thần căm thù
giặc và ý thức kỷ luật cao.
Tạ Hiện đã phối hợp với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân như Đinh Gia Quế ở Bãi Sậy trong các năm 1883,
1884. Bang Tốn và một số tướng lĩnh của ông đã sát cánh chiến đấu với nghĩa quân Bãi Sậy.
Ông cùng với Nguyễn Thiện Thuật, Lã Xuân Oai, Phạm Huy Quang, Cai Kinh, Lưu Vĩnh Phúc đánh
quân Pháp ở cầu Quan Âm (Bắc Lệ, Lạng Sơn) ngày 24 tháng 5 năm 1884.
Đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Phạm Thận
Duật tấn công đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ ở kinh đô Huế. Bị quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết
hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị phát động phong trào Cần Vương.
Ngày
3
tháng
6
âm
lịch,
Hàm
Nghi
năm
thứ
nhất
(11-7-1885), Hoàng đế ban dụ phục hồi, thăng chức cho một số quan lại phe chủ chiến. Trong đó nguyên
Đề đốc Tạ Hiện nay thăng chức Đô thống.
Từ cuối năm 1885 đến tháng 7 năm 1886, Tạ Hiện sát cánh chiến đấu cùng Nguyễn Thiện Thuật ở lưu
vực sông Kinh Thày, sông Thái Bình. Năm 1885, Đô thống Tạ Hiện thành lập nghĩa quân có 5 dinh là
trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Phạm Văn Đức giữ chức Tiền quân đô thống, Cử
Bình ở An Lão, Kiến An chỉ huy hậu quân.
Từ tháng 10 năm 1886, nghĩa quân Tạ Hiện hoạt động mạnh trở lại. Nghĩa quân đánh úp đồn Quỳnh

Côi. Nghĩa quân do Bang Tốn chỉ huy và nghĩa quân do sư So ở chùa Thiền Quan chiếm lại được phủ


Kiến Xương, tấn công huyện Trực Định (Kiến Xương). Nghĩa quân còn đánh đồn Thanh Quan, đồn Vụ
Bản và nhiều trận khác. Đốpphe (Daufès) trong cuốn La Garde indigène de l’Indochine de sa création à
nos four, tập I, Toukin, Avignou 1933 đã phải thừa nhận: "Đội lính khố xanh đã xung đột nhiều trận với
các đội nghĩa quân của Tán Thuật, Lãnh Giang, Tổng Kinh, Đốc Sung, Đề đốc Tạ Hiện, Đốc Tít chỉ huy
càn quét, bình định vùng giữa sông Luộc và sông Trà Lý, đốt phá làng mạc, tàn sát nhân dân. Nghĩa
quân tránh những trận đánh lớn, chỉ lẻ tẻ chiến đấu. Nghĩa quân của ông thường đào hố ngụy trang dụ
địch đến là nhảy ra bắt gọn chúng, nên chúng gọi là giặc vồ".
Về cái chết của Tạ Hiện, có nhiều tư liệu khác nhau, nhưng đáng tin là cuốn "Lịch sử quân sự Đông
Dương" thì đầu năm 1887, Tạ Hiện bị địch bắt và bị giết vào đêm mồng 2 tháng 2 năm 1887 ở Bình Bắc,
Đông Triều. Các cụ già ở quê Tạ Hiện cũng xác định ông bị giặc Pháp bắt và giết ở quê vợ tại Đông
Triều, hiện ở đó còn đền thờ ông.
Ngoài võ công lừng lẫy, Tạ Hiện còn là nhà thơ, nay còn lại bài "Cái nợ tang bồng".
Cái nợ tang bồng tí tẻo teo,
Nay đòi mai hỏi tiếng ong eo.
Ta nay quyết kéo trời Nam lại
Kẻo để giang sơn đổ lộn phèo
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, trang 214 nhóm Chu Thiên, Văn học, Hà Nội,
1970)

2. Bang Tốn
Bang Tốn tên thật là Nguyễn Đình Tốn, người làng Hoàng Nông, xã Tam Nông, huyện Duyên
Hà, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Hoàng Nông, xã Điệp Nông, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Năm 1861, Nguyễn Đình Tốn, Nguyễn (Ngô) Quang Bích, Nguyễn Huy Quỳnh, Ngô Quang Huy, Lã
Xuân Oai học ở trường "Đại tập thành Nam" do Đốc học An - Định là Doãn Khuê đỡ đầu.
Năm 1862, Nguyễn Đình Tốn cùng học với Phạm Huy Quang người làng Phù Lưu, huyện Đông
Quan nay thuộc xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
Năm 1864, Nguyễn Đình Tốn thi đỗ tú tài; cũng năm đó, ông cùng các sĩ tử tham gia vụ phá bỏ trường

thi Nam Định để phản đối triều đình ký Hoà ước 1864. Ông cũng cùng Phạm Huy Quang tham gia vụ đốt
phá nhà thờ Thiên chúa chống cố đạo Phạm Thuật lợi dụng Hiệp ước 1864 ức hiếp dân chúng.
Ngày 1 tháng 7 năm 1865, triều đình mở khoa thi Hương ở Thừa Thiên, Bình Định, Nghệ An, Nguyễn
Đình Tốn và Phạm Huy Quang cùng học qua bốn trường, nhưng sau Bang Tốn không đỗ liền bỏ học làm
thư lại sau sang Tư vụ bộ Binh.
Năm Tự Đức thứ 36 (1883), Bang Tốn giữ chức Tư vụ Bang biện ở kinh đô Huế, sau được điều đi
Quân thứ hai tỉnh Bình Định, Phú Yên1.
Ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định thất thủ, Tạ Hiện xin thôi chức chỉ huy Hùng nhuệ quân
ở kinh đô về giữ chức Đề đốc Nam Định để tổ chức lực lượng đánh Pháp, giành lại tỉnh thành. Tháng 9
năm 1883, triều đình ra lệnh triệt binh, Tạ Hiện kháng chỉ, trả ấn tín lui về phủ Kiến Xương (Nam Định)
hô hào nhân dân đánh Pháp; cũng thời gian này, Bang Tốn bỏ nhiệm sở ở tỉnh Phú Yên về Duyên Hà phát
động cuộc khởi nghĩa chống quân Pháp vì triều đình đã hèn nhát ký hoà ước đầu hàng giặc, tiếp tay cho
chúng xâm lược nước ta. Bang Tốn có mười anh chị em trong đó có năm trai, năm gái. Anh em Bang Tốn
được cha dạy chữ thánh hiền, người nào cũng sáng dạ, thông minh, lớn lên được theo học thầy ngoài.
Mấy người con trai ứng thí đỗ đạt làm quan, mấy người con gái khôn lớn, đảm đang việc nhà, xuất giá
trọn bề gia thất.
Khi Bang Tốn từ quan ở Phú Yên về quê hương dựng cờ khởi nghĩa thì có thêm bảy anh chị em tham
gia:
- Nguyễn Đình Tốn (Bang Tốn) giữ vai trò thống lĩnh.
- Nguyễn Đình Thường (anh trai), nguyên chức Đề hiệu quân cơ tại phủ đường, nay giữ chức Đề đốc
trực tiếp quản quân cơ tiên phong của nghĩa quân.
- Nguyễn Đình Trung (em trai) giữ chức Lãnh giao liên hệ với các cánh quân ở phía Nam như nghĩa
quân Tống Duy Tân ở Thanh Hoá, nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An, nghĩa quân Phan Đình
Phùng ở Hà Tĩnh.
1

. Kỳ Đồng tiểu sử và thơ văn, Sở Văn hóa - Thông tin Thái Bình, 1983 viết Bang Tốn nguyên là tri huyện Duyên Hà, từ
quan tham gia phong trào Cần Vương, được vua Hàm Nghi phong là Bang biện Quân vụ.



- Nguyễn Đình Thực (em trai) giữ chức Lãnh giao liên hệ với nghĩa quân Bãi Sậy ở phủ Khoái Châu
do Đổng quân vụ Đinh Gia Quế chỉ huy, với Tam tỉnh nghĩa quân (Bắc Ninh - Hải Dương - Hưng Yên) do
Ngô Quang Huy, Nguyễn Cao… chỉ huy.
Và ba người chị gái :
- Nguyễn Khánh Thục (Đốc Thục) giữ chức Đốc vận quân lương chuyên lo lương thực, thực phẩm
cho nghĩa quân Bang Tốn.
- Nguyễn Khánh Thành (Đốc Thành) và Nguyễn Khánh Thịnh (Đốc Thịnh) đều được phong là Đốc
vận quân lương huy động thóc gạo muối ở Nam Định, tổ chức các đoàn tải lương bằng đường bộ, đường
thuỷ lên các tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ tiếp tế cho nghĩa quân Hưng Hoá - Sông Đà do Nguyễn (Ngô)
Quang Bích chỉ huy1.
Bang Tốn còn cùng các hào kiệt trong vùng hưởng ứng chiếu Cần Vương gia nhập nghĩa quân, giữ
cương vị chỉ huy một cánh quân như Tổng Dụng (Trần Đình Dụng), Lãnh Nhang, Lãnh Tính, Lãnh Mè.
Ông còn liên kết với Lãnh Bí (ở Tân Phong - Vũ Thư), Lãnh Đoàn người Thọ Vực, huyện Thần Khê (nay
là xã Đông Thọ, huyện Đông Hưng), Lãnh Chánh người huyện Thanh Quan (nay là Thái Thuỵ), Lãnh
Gạo, Lãnh Cao người Hải Dương. Các ông tập hợp được hơn một nghìn người tham gia nghĩa quân. Bang
Tốn còn phối hợp chỉ huy với nghĩa quân của sư Sồ chùa Thuyền Quan, Đốc Nhưỡng ở Đô Kỳ, Lãnh
Hoan ở Thọ Vực và nhiều thủ lĩnh nghĩa quân khác. Bang Tốn gia nhập nghĩa quân Tạ Hiện, Tạ Hiện giao
cho ông phụ trách huyện Thần Khê và huyện Duyên Hà, ông lập căn cứ làng Hoàng Nông nay thuộc xã
Điệp Nông, huyện Hưng Hà, Thái Bình.
Quân Pháp đem quân đánh làng Hoàng Nông nhiều trận, song trận nào chúng cũng bị thua, phải rút
quân.
Phản ánh về tài tập hợp nghĩa quân của các ông, nhân dân có bài ca, xin trích đoạn:
…Quan Đề quê ở Quang Lang
Tiên Hưng Bang Tốn, quê làng Hoàng Nông
Hoặc:
Thứ nhất Đề Hiện Quang Lang
Thứ nhì Bang Tốn quê làng Hoàng Nông
Đi thì cờ mở, trống giong
Làm cho thiên hạ nức lòng mộ quân
… Đi thì gươm cắp, mộc mang

Đánh trống, đánh phách cả làng cùng xem1
Trong bài: "Vè Bang Tốn" có đoạn:
Để cho lục Bộ trống không,
Anh em Bang Tốn về Nông2 tế cờ
Chiêu quân, mộ tướng tức thì
Mồng một tháng sáu kéo đi Duyên Hà
ông Tốn bày trận Đống Ba3
Đề Thường, Tú Soạn, bày ra Đống Đùng4
Nghĩa quân được sư Sồ5 chùa Thuyền Quan (nay thuộc Thái Thụy) cùng hơn một trăm dân binh, mặc
áo buồm nẹp đai đỏ, kéo cờ có chữ "Nam mô Thuyền Quan đại tướng quân" giúp sức kéo quân đi đốt phá
các cơ sở nhà thờ Thiên chúa giáo theo Pháp chống lại nhân dân và nghĩa quân.
Theo lệnh của công sứ Nam Định Bơrie (Brière), Đốc bộ Hiến sát sứ Phan Đình Bình viết tờ sớ giao
cho tri huyện Trực Định là Trần Văn Kiêm, người làng Thổ Trứ chiêu mộ dân binh vũ trang chống lại sư
Sồ và Bang Tốn.
1

. Lê Thanh Hiền: Chí sĩ - nghệ sĩ Nguyễn Thúc Khiêm, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 1996.

1

. Bài ca Đề Hiện, Bang Tốn (Khuyết danh).

2

. Tức Hoàng Nông.

3

. Đống Ba một gò đất lớn, nay thuộc xã Thống Nhất, Hưng Hà, Thái Bình.


4

. Đống Đùng thuộc xã Thống Nhất, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Bài Đề Đốc Tạ Hiện và phong trào chống Pháp ở

Nam Định - Thái Bình cuối thế kỷ XIX của Đặng Quang Vận, Chu Thiên, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử viết sư So ở chùa Thiền
Quan (cũng gọi là Thuyền Quan) Thái Bình.
5

. Còn gọi sư Gồ là sư So.


Linh mục Trương Bá Thạch, linh mục Phú cũng chiêu mộ quân giáo dũng phối hợp với quân của Trần
Văn Kiêm chống lại quân Bang Tốn, sư Sồ. Trận đánh lớn nhất diễn ra ở làng Tống Vũ, nay thuộc xã Vũ
Hội, huyện Vũ Thư, cả hai bên đều bị thương vong. Ngày hôm sau, Bang Tốn kéo quân đến huyện Trực
Định đốt nhà tên Trần Văn Kiêm, Kiêm đem quân trở lại kịch chiến với nghĩa quân Bang Tốn.
Hai huyện Thần Khê, Duyên Hà khi đó thuộc tỉnh Hưng Yên, căn cứ này có quan hệ mật thiết với các
căn cứ của nghĩa quân Bãi Sậy ở Tiên Lữ, Ân Thi. Đánh giá quá trình chống Pháp ở Thần Kê, Duyên Hà,
trong sách tài liệu "Địa chí Thái Bình có viết: "Những hoạt động quân sự của nghĩa quân Bãi Sậy ở vùng
đất Thái Bình ngày nay gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp. Những người chỉ huy quân sự (Pháp) lúc đó
quyết định thành lập một binh đoàn mạnh tiến từ Hải Phòng lên để đánh bật các toán quân của Đổng
Quế ra sông Hồng. Đại tá Đônniê (Đonnier) thuộc lữ đoàn Nêgriê (Négrier) chỉ huy binh đoàn này. Vì
những lý do nói ở trên, cuộc hành quân không đạt được kết quả, mà chỉ làm cho dân chúng nghèo đói
thêm và đẩy mạnh thêm tình cảnh loạn lạc cướp bóc" 1. Tuy vậy một cánh quân của Đônniê cũng tràn
được vào Thần Khê đốt phá các làng Trần Xá, Khả Lậu, Đông Cao, Đô Kỳ, Hải An, Hoàng Nông nhưng
bị nghĩa quân chống trả kịch liệt, không thu được kết quả gì đáng kể.
Theo lệnh Đề Hiện, Bang Tốn cho quân vượt sông Luộc sang Trại Vàng, một trại nhỏ ở bên kia sông
(nay thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Phụ). Nắm được tình hình, tên công sứ Pháp và bọn việt gian
Vũ Văn Báo, bố chính Nam Định dùng mọi thủ đoạn mị dân và xây dựng một số đồn bốt trên đất Thái
Bình để bao vây nghĩa quân.
Đề Hiện cùng Phạm Huy Quang vây đánh Phủ Bo, Bang Tốn lại đem quân về Quỳnh Côi. Giặc co về

giữ Đô Kỳ (Tây Đô, Hưng Hà), Bang Tốn liền cùng Đốc Nhưỡng, Tổng Dụng đánh chiếm Quỳnh Côi, rồi
đem quân về Bương (nay thuộc xã Quỳnh Hà, huyện Quỳnh Phụ) để lập huyện nha.
Trong bài "Vè Bang Tốn" có đoạn:
… Đề Thường, Bang Tốn kịp thu
Chuyển về Xích Bích1, Cẩn Dung2 họp bàn
Đang họp Tây nó đến càn
Chuyển sang An Khoái3 rút sang ướng, Rồng4
Tàu Tây lại ở trên sông
Quan Đề Hiện lệnh quân vòng sang sông
Đàn bà con trẻ hãi hùng
Giặc càn, đốt, hiếp khắp vùng ra gio
Quân ta đánh gấp Phủ Bo
Giặc sợ rút lại, nằm co Đô Kỳ
Đốc Nhưỡng nhận lệnh ra đi
Giúp quân Tổng Dụng kéo về Quỳnh Côi
Sang Bương mở huyện đã rồi,
Huyện nha trao hẳn nhà ngồi việc quan1
Để giữ vững vùng mới giải phóng đầu tháng 7 năm 1885, Bang Tốn cùng Phạm Huy Quang chia quân
đóng ở các đồn Dù, đồn Zét, đồn Đo, đồn Phủ Bo. Các ông còn xây đồn Vũ Hạ là nơi tiếp giáp giữa ba
huyện Quỳnh Côi, Phụ Dực, Đông Quan để khống chế đường sang huyện Ninh Giang phủ Kiến An, tỉnh
Hải Dương. Đồn này giao cho Bá Diên, Lãnh Quý, Lãnh Nhàn chỉ huy.
Nghĩa quân đang củng cố vùng mới giải phóng thì nhận được tin, đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5
tháng 7 năm 1885 Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn Nghĩa quân tấn công toà Khâm sứ
Pháp, đồn Mang Cá, khu nhượng địa Pháp ở kinh thành Huế. Việc không thành Tôn Thất Thuyết và các
quan trong phe chủ chiến rước Vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị. Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần
Vương. Sĩ phu khắp các tỉnh Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhiệt liệt hưởng ứng, chiêu mộ quân, xây dựng căn cứ
chống Pháp. Nguyễn Thiện Thuật đang ở Long Châu (Trung Quốc) được báo tin cũng về Tiên Động (Phú
1

. Theo phần "Thái Bình phong vật chí" trong sách Tài liệu "Địa chí Thái Bình" Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Thanh dịch, chủ

biên, Trung tâm UNESCO, thông tin tư liệu lịch sử văn hoá Việt Nam, 2006.
1

. Toà sứ Hưng Yên tỉnh Hưng Yên. La Pravince de Hưng Yên, viết tháng 1-1933 bằng tiếng Pháp.

2. Xích Bích, Cẩn Du nay thuộc xã Quỳnh Sơn, Quỳnh Phụ, Thái Bình.
3. Ương Rồng là tên nôm hai thôn Nam Đài và Ngọc Chi, nay thuộc xã Quỳnh Bảo, Quỳnh Phụ, Thái Bình.
4

. An Khoái thuộc xã Thống Nhất, Hưng Hà, Thái Bình.

1

. Vè Bang Tốn.


Thọ) gặp Lễ bộ thượng thư Nguyễn Quang Bích. Ông được vua giao cho nhiệm vụ chủ trì phong trào
chống Pháp ở Bắc Kỳ, nhận chiếu Cần Vương và chức Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, thống nhất
lực lượng chống Pháp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thay
cho Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế bị ốm nặng đang phải nằm phục thuốc.
Nguyễn Thiện Thuật đã phái cử nhân Nguyễn Hữu Đức, Tán tương quân vụ vượt sông Luộc sang
Hưng Nhân, Duyên Hà, Thần Khê gặp Thủ lĩnh Tạ Hiện, Bang Tốn, Phạm Huy Quang và các thủ lĩnh
khác để thông báo tình hình và kế hoạch đánh Pháp, đến trung tuần tháng 8 năm 1885 mọi người phải về
căn cứ Bãi Sậy để nghe tuyên đọc chiếu Cần Vương và bàn định kế hoạch tác chiến.
Song, Nguyễn Hữu Đức vừa về buổi chiều, thì quân Pháp tấn công căn cứ Bãi Sậy; chúng lợi dụng lúc
Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật còn đang tập hợp lực lượng; Tạ Hiện cùng con
trai là Tạ Quang Báo (Ba Báo) đang chiến đấu ở lưu vực sông Thái Bình, Lục Đầu (Hải Dương); đêm
mồng 10 tháng 8 năm 1885, quân Pháp dùng pháo thuyền đổ bộ lên làng Hoàng Nông. Một cánh quân
khác kịch chiến với nghĩa quân Bãi Sậy ở làng Mão Cầu, Ân Thi, Hưng Yên. Một cánh quân hỗn hợp
thủy, bộ khác gồm 10 đại đội bộ binh, 2 trung đội pháo binh, một đoàn thuyền máy và mấy tàu phóng ngư

lôi tới bắn phá các làng ở hai bờ sông Luộc tại các huyện Thần Khê, Duyên Hà, Tiên Lữ, Ninh Giang, đi
tới đâu chúng cũng thực hiện chính sách tam quang là giết sạch, đốt sạch, phá sạch.
Trước sức tấn công ác liệt của quân Pháp, Bang Tốn rút quân sang Trại Vàng, phái người đi các hoạt
động của giặc và liên lạc với các lực lượng nghĩa quân khác. Lợi dụng thời cơ quân Pháp đánh phá các
huyện dọc sông Luộc, các lực lượng của Nguyễn Hữu Cương ở Động Trung (nay là Vũ Trung, Kiến
Xương); của Giám Thố ở Cổ Ninh (nay là Vũ Ninh, Kiến Xương); Lãnh Bôn 1 ở Đoan Túc (nay là xã Tiền
Phong, Vũ Thư); với Lãnh Hoan (nay là xã Đông Thọ, Đông Hưng), của sư Sồ ở chùa Thuyền Quan, mở
trận tiến công lớn vào phủ lỵ, các đồn binh ở Kiến Xương, Tiên Hưng. Trận chiến đấu quyết liệt giữa các
lực lượng nghĩa quân với quân Pháp diễn ra ở làng Tống Vũ (nay là xã Vũ Hội, Vũ Thư) và ở Cầu Kìm,
Chợ Đác (nay là xã Vũ Lạc, Kiến Xương). Giữa lúc giặc Pháp đang phải đối phó với nghĩa quân ở Kiến
Xương, Vũ Thư thì Đề Hiện, Phạm Huy Quang vây đánh Phủ Bo. Bang Tốn từ Trại Vàng đem quân về
huyện Quỳnh Côi, phối hợp với Tổng Dụng (tức Trần Đình Dụng) đánh chiếm huyện lỵ Quỳnh Côi, đốt
hết sổ sách, tài liệu, tịch thu triện bạ ở phủ. Bọn quan phủ không dám chống cự, nghĩa quân thu được
mười khẩu súng bắn nhanh của quân Pháp trang bị cho lính cơ, mấy thuyền lương thực rồi về Bương (nay
thuộc xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Phụ) lập huyện nha, Bang Tốn chỉ định lý trưởng một số xã, tiến hành
thu thuế để chi vào việc quân. Bang Tốn hoạt động mạnh ở vùng xung quanh xã Ngọc Đình (quê hương
Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm), Tạ Xá (làng Tè), Phú Lãng, Đô Kỳ, Hải An, Hoàng Nông... Ông được các
nhà nho yêu nước như Nguyễn Bá Ôn, Trần Xuân Sắc ủng hộ. Trước thế giặc quá mạnh, nghĩa quân dần
dần thất thế, Bang Tốn cùng các tướng sĩ phải vượt sông Luộc sang phối hợp với nghĩa quân ở căn cứ Bãi
Sậy (Khoái Châu, Hưng Yên) chiến đấu dưới sự chỉ huy của Nguyễn Thiện Thuật.
Nói đến giai đoạn Bang Tốn rút quân về Bãi Sậy, đã được phản ánh trong bài: "Vè Bang Tốn"
Vua quan đã nghĩ thế nào,
Để cho Tây nó kéo vào nước ta
Tây thì vô số hằng hà,
Một mình Bãi Sậy biết là làm sao
Truyền đòi các chư tướng vào
Bây giờ việc nước thế nào các quan?
ông bàn dọc, ông bàn ngang
Kẻ bàn rằng đánh, người can rằng đừng
Đánh ra thì chết đến thân

Thời ta hãy liệu lấy dăm ba ngày
Nào đồn ta hãy đóng đây
Hễ Tây kéo đến ta rầy hãy ra,
Mồng một tháng Giêng chăng là
Tây nó kéo đến hơn ba nghìn thằng
Tớ thày kế sách dùng dằng,
Chạy hay là đánh dùng dằng gì đây
1

. Lãnh Bôn còn gọi là Lãnh Bí.


Nằm trong Bãi Sậy năm ngày
Nào chánh Đề đốc, nào là Lãnh binh
Nào đâu Lãnh Uyển xuất chinh
Nào đâu bộ hạ nghe minh lệnh troàn
Nào là Lãnh Cấp, Quyền Doan
Lãnh Tư, Tư Chức, Lãnh Kiên sở cầu
Khốn nạn thay các tướng đi đâu,
Để ta vò võ đêm thâu một mình
Nào là Tả đạo, Hữu dinh
Lấy ai mà dãi tâm tình với ta
Thoắt thôi than với mẹ già
Mẹ thời ở lại con đà thác di
Mẹ già nói lại một khi:
"Tao già tao chết có chi phải bàn
Làm trai nợ nước chan chan
Gặp cơn li loạn phải toan mọi bề
Nỡ nào chịu tiếng cười chê,
Vua mình tay vỗ, vua mê lóng chèo"1

Dân tình gặp bước gieo neo,
Đình chùa giặc đốt, tre pheo tơi bời.
Đường làng tao tác tiếng người
Đồng trơ gốc rạ, nội phơi cỏ vàng
Sông sâu đê vắng đò ngang
Mõ làng chơ chỏng, chợ hoang bụi mù
Người thì bị bắt đi phu
Đắp đê Phủ Khoái, đào hồ Hưng Yên
Người thì mất bạc mất tiền,
Kẻ thời đánh chết, người thời phải giam,
Hết cháy nhà lại Tây càn,
Làm cho thiên hạ tồi tàn đến đâu.
Chỉ còn mở mắt với nhau,
Chả còn tấp tểnh quân hầu, quân sai,
Chả còn trông thấy hôm mai,
Chả còn mã tấu đường quai đêm ngày.
Chả còn áo mỏng, áo dày,
Chả còn điếu tráp, tớ thày nghênh ngang.
Chả còn tư Bắc, tư Nam1
Chả còn tư Bố, chả còn Tổng lương2
Trở về Phủ Khoái khám đường
Để cho dân xã tỏ tường được hay…3
Tháng 9 năm 1885, sau lễ tế cờ ở Văn Chỉ, Bình Dân, Nguyễn Thiện Thuật sai Nguyễn Giới, Nguyễn
Mịch là con trai thứ ba, thứ tư của Nguyễn Thành Thà, quê ở thôn Phan Bổng, xã Đỗ Mỹ, huyện Thần
Khê, tỉnh Hưng Yên, khi đó đang chiến đấu ở căn cứ Bãi Sậy vượt sông Luộc sang Duyên Hà, Hưng
Nhân giúp Bang Tốn xây dựng phòng tuyến sông Luộc. Nguyễn Mịch đóng một đồn binh ở miệt vạn
chài1 ven sông Luộc, cách đồn úng Lôi của giặc Pháp không xa. Nghĩa quân của ông phần lớn là dân chài
đánh cá trên sông Luộc và các ngòi lạch ở các huyện Thần Khê, Phù Cừ, Tiên Lữ, nên rất thông thạo ngòi
lạch, đầm lầy ở vùng ven sông Luộc. Ông đảm đương đầu mối liên lạc giữa ban chỉ huy trung tâm của
1


. ý nói khi vua còn sáng suốt thì bề tôi mừng rỡ. Khi vua hôn mê thì bề tôi buông lỏng tay chèo con thuyền đất nước.

1

. Dinh thự của quan lại ở bắc, nam Hưng Yên.

2

. Tư Bố nơi quan đóng. Tổng lương: kho lương lớn nhất để nuôi quân của nam, bắc Hưng Yên khi ấy.

3

. Theo các bô lão huyện Khoái Châu bài này còn đoạn cuối nhưng người kể không nhớ hết.

1

. Vạn chài: Làng chài gồm nhiều thuyền quần tụ ở một khúc sông.


cuộc khởi nghĩa ở Bãi Sậy với Bang Tốn ở Duyên Hà, Hưng Nhân, Thần Khê; Nguyễn Giới đóng đồn ở
Đống Lau, làng Phan Bổng, xã Đỗ Mỹ, huyện Thần Khê để bảo vệ sườn phía tây của căn cứ Hoàng Nông.
Khi vua Hàm Nghi ra sơn phòng (Quảng Trị) hạ chiếu Cần Vương, Lãnh Hoan hợp quân cùng Bang
Tốn,
Đốc
Đen,
Đốc
Nhưỡng
đánh
Pháp

quyết
liệt
tại
Thọ
Vực
(9-1885) quân Pháp thua phải bỏ chạy để lại nhiều xác chết. Lãnh Hoan cùng các thủ lĩnh khác đánh Pháp

làng
Tống

(nay
thuộc


Hội,
huyện

Thư,
Thái
Bình), Cầu Kìm, Chợ Đác (nay thuộc xã Vũ Lạc, Kiến Xương, Thái Bình) nghĩa quân gây cho quân Pháp
thiệt hại nặng nề1.
"Tháng 7 năm 1885, sự biến ở kinh thành Huế
… Tại Thái Bình, các ông Tạ Hiện, Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Thu, Bang Tốn, Phạm Huy
Quang... tích cực hưởng ứng. Hưởng ứng phong trào chống Pháp, nhiều nhà sư gia nhập nghĩa quân,
trong đó có sư Sồ tu ở chùa Thuyền Quan (nay thuộc xã Thái Hà, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) đã
dựng cờ khởi nghĩa ở chùa Thuyền Quan"1.
Tháng 10 năm 1886, trong khi nghĩa quân Tạ Hiện đánh úp đồn Quỳnh Côi thì nghĩa quân Bang
Tốn và nghĩa quân sư Sồ chỉ huy chiếm lại phủ Kiến Xương, tấn công huyện Trực Định. Nghĩa quân
còn đánh đồn Thanh Quan, đồn Vụ Bản và nhiều trận khác. Nghĩa quân Bang Tốn có kế hoạch đánh
chiếm Thuỵ Anh thì nhận được tin đoàn tàu quân Pháp từ tỉnh thành Nam Định đang trên đường theo

sông Hồng để về thành Hà Nội. Bang Tốn triệu tập các tướng như Đề đốc Nguyễn Đình Thường, Đề
đốc Hiệu, Đốc Thục, Đốc Thành, Đốc Thịnh, Lãnh Trung, Lãnh Thực bàn kế hoạch phục kích đoàn tàu
chiến giặc giống như trận đánh của Thủ lĩnh Nguyễn Trung Trực chỉ có hơn 50 nghĩa quân mà phục
kích đốt cháy tàu Hy Vọng của giặc Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông, thuộc thôn Nhật Tảo giết chết tên
thiếu úy Bápphơ (Bafe) và 45 lính Pháp, nên nghĩa quân Bang Tốn quyết định dùng kế hỏa công, các
tướng đều nhất trí với cách đánh này và chuẩn bị gấp thuyền nan, bè, mảng, rơm, cỏ khô, chất dẫn cháy
như dầu lạc, diêm tiêu. Địa điểm phục kích ở đoạn sông Hồng chảy qua địa phận làng Nga (nay thuộc
xã Hồng An, Hưng Hà) bờ sông này cỏ lác, cây sậy mọc um tùm, rậm rạp, rất thuận tiện cho cuộc mai
phục. Nghĩa quân đã được nhân dân làng Nga, làng Đống Gạo (nay là thôn Gạo, xã Hồng An) ủng hộ
quân lương, trưng thu thuyền nan, làm bè mảng, rơm cỏ khô, các chất dẫn cháy dầu lạc, diêm tiêu.
Cuộc hành quân diễn ra hết sức thận trọng, đảm bảo bí mật, an toàn cho nghĩa quân và nhân dân trong
vùng. Chánh tổng Trần Đức Lưỡng là người yêu nước, ông đã bỏ tiền bạc tranh chức chánh tổng để bênh
vực dân. Mặc dù ra làm quan cho chính quyền Huế, nhưng vẫn một lòng ủng hộ nghĩa quân hưởng ứng
phong trào Cần Vương chống Pháp, ông dùng quyền và uy tín của mình huy động anh em họ mạc, dân
đinh trong làng bí mật xay thóc giã gạo, chuẩn bị kho quân lương, xay giã giữ bí mật mọi hoạt động của
nghĩa quân trước sự đeo bám, chỉ điểm của bọn việt gian, phản động theo Pháp. Đến nay vẫn còn dấu tích
là Đống Gạo, Đống Trấu... và lời truyền tụng. Khi nghĩa quân chuẩn bị tác chiến, những chiếc thuyền nan,
bè mảng được chất đầy cỏ khô, chất dẫn cháy đã tập kết trong những con ngòi nhỏ được lau sậy che kín
để đảm bảo yếu tố bất ngờ. Bang Tốn bố trí hai khẩu súng thần công, một khẩu bắn đạn ghém, một khẩu
bắn đạn sắt, đá tròn cùng trên 20 tay súng bắn nhanh trên các gò đống cao ở hai bên bờ sông bắn yểm hộ
cho các thuyền chở nghĩa quân và thuyền nan, bè mảng chở rơm rạ cỏ khô, chất dẫn cháy.
Tàu chiến giặc đi ngang qua, Bang Tốn nổ pháo lệnh. Lập tức hai khẩu thần công gầm lên, nhưng một
khẩu bắn bằng đạn ghém (tức là các mảnh gang, sắt trộn với thuốc nổ lèn vào nòng súng, khi bắn thì hàng
trăm mảnh đạn phóng ra) chỉ có tác dụng sát thương bộ binh, bắn trúng vào tàu chỉ làm bị thương những
tên lính đứng trên boong tàu, còn khẩu thần công thu của quân triều đình thì bắn bằng các viên đạn bằng
sắt, bằng đá tròn to như quả bưởi, đạn trúng mục tiêu không gây nổ nên chỉ như cú va đập mạnh làm cho
tàu lắc lư. Đạn của súng bắn nhanh không xuyên qua được vỏ tàu. Thoạt đầu quân Pháp hoang mang chui
xuống dưới hầm tàu, sau đó chúng lấy lại tinh thần, bắn như vãi đạn vào các thuyền chở nghĩa quân,
thuyền chở rơm rạ, cỏ khô cùng chất dẫn cháy. Trước lưới lửa dày đặc của giặc nhiều nghĩa sĩ đã hy sinh,
nhiều thuyền bị lật. Tuy vậy, có hai thuyền chở hơn mười nghĩa quân vượt qua được lưới lửa của giặc, áp

sát được mạn tàu, xông lên đánh giáp lá cà, giết được hơn mười tên giặc, một số thuyền, bè mảng chở cỏ
khô, chất cháy cũng áp được vào mạn tàu giặc, và được nghĩa quân phóng hỏa đốt cháy rừng rực, nhưng
không đốt cháy được tàu làm bằng sắt của giặc. Sau những giờ phút hoảng loạn, giặc tổ chức phản công,
1

. Nhiều tác giả, Danh nhân Thái Bình, tập III, Sở Văn hóa - Thông tin Thái Bình xuất bản.

1

. Kỳ
tr. 24, 25.

Đồng

tiểu

sử



thơ

văn,

Sở

Văn

hoá


-

Thông

tin

Thái

Bình,

1983,


chúng nấp trong hầm tàu bắn xối xả về phía nghĩa quân. Nghĩa quân Bang Tốn bị thương vong rất nhiều,
hàng trăm nghĩa sĩ cùng thủ lĩnh vẫn ào ạt xông lên đánh giáp lá cà, máu nghĩa sĩ nhuộm đỏ cả một khúc
sông. Đến chiều một đoàn thuyền từ thành Hưng Yên đến tiếp viện, chúng đổ quân lên bờ truy sát các
nghĩa sĩ bị thương và nhân dân trong vùng… chúng đi đến đâu là tiếng gào khóc của đàn bà, trẻ con và
ngọn lửa tàn bạo thiêu trụi nhà cửa đến đó. Chúng bắt được một số nghĩa quân trong đó có Bang Tốn, Đề
Thường, Đề Hiệu đều bị thương nặng. Do có bọn việt gian ở trong làng nhận diện, chúng biết ba ông đều
là thủ lĩnh nghĩa quân nên tra tấn cho đến chết, chặt đầu, treo lên cây gạo ở đầu dốc Đìa thuộc làng Nga,
giao cho quan huyện Hưng Nhân cắt lính canh gác, còn xác các nghĩa sĩ chúng đem bỏ ngoài cánh đồng
ngập nước trong vùng.
Nghĩa quân Bang Tốn sau trận đánh này bị thiệt hại nặng nề, một số thủ lĩnh và nghĩa quân chạy thoát
đã cùng Chánh tổng Trần Đức Lưỡng huy động con cháu và những người ủng hộ nghĩa quân đi thu lượm
tử sĩ ở trong các làng và ngoài cánh đồng nước nổi trong vùng về mai táng bí mật tại thửa ruộng của gia
đình ở thôn Đống Gạo.
Trong cuộc truy sát gắt gao của giặc, một số thủ lĩnh và nghĩa quân chạy thoát đã tập hợp lại lực
lượng. Các bà Đốc Thục, Đốc Thành, Đốc Thịnh đã tổ chức lại lực lượng phối hợp cùng tướng Nguyễn
Cao tiến đánh hàng loạt trận trong vùng Hưng Nhân, Duyên Hà trừng trị bọn việt gian phản động làm tay
sai cho chính quyền Huế và giặc Pháp xâm lược. Lãnh Trung sau trận ấy đã đi Đông Triều gia nhập nghĩa

quân Lưu Kỳ. Lãnh Thực đi Thanh Hoá gia nhập nghĩa quân Tống Duy Tân. Phong trào do Bang Tốn
lãnh đạo hưởng ứng chiếu Cần Vương đi vào thoái trào. Bà Đốc Thục (Nguyễn Khánh Thục) đổi tên là
Nguyễn Thị Tảo, sau tái giá với một nghĩa sĩ Cần Vương người xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh
Hải Dương là Nguyễn Lương Côn. ông sinh ra Nguyễn Lương Thiện, ông Thiện sinh ra ông Nguyễn
Lương Bằng, sau này giữ chức Phó Chủ tịch nước. Bà Nguyễn Khánh Thành đổi tên là Nguyễn Thị Tần
đi làm ăn nơi xa. Bà Nguyễn Khánh Thịnh giữ nguyên tên hiệu đi tu chùa.
Về Bang Tốn, thực dân Pháp và triều đình Huế mặc dù căm thù ông cũng phải viết như sau: "Bang
Tốn người xã Hoàng Nông, huyện Duyên Hà. Năm Tự Đức thứ 36 (1883), Tốn giữ chức Bang biện Tư vụ
coi việc ở quân thứ Nam Định. Năm đầu niên hiệu Hàm Nghi (1885), xảy ra việc biến ở kinh thành, quan
Đề đốc Tạ Hiện đưa quân ở miền thượng du về chiếm giữ huyện Thuỵ Anh, tỉnh Thái Bình. Bang Tốn
cũng giả danh ung, nghĩa Cần Vương để chiêu mộ dân chúng, dân binh có cả nghìn người, sắm đủ khí
giới, Bang Tốn cùng với đầu mục là Lãnh Bí (người làng Đoan Túc, huyện Vũ Tiên), Lãnh Hoan (người
Thọ Vực, huyện Thần Khê), Lãnh Chánh (người huyện Thanh Quan), Lãnh Gạo (người tỉnh Hải Dương)
đem quân đi đánh chiếm hai phủ Tiên Hưng, Kiến Xương. Lại có nhà sư ở chùa Thuyền Quan, nay thuộc
xã Thái Hà, huyện Thái Thụy tên là sư Sồ, chiêu mộ dân binh được hơn trăm người, ai nấy đều mặc áo
buồm1 may chỉ đỏ, trương cờ hiệu thêu mấy chữ: "Nam mô Thuyền Quan đại tướng quân". Bọn sư Sồ hợp
sức với bè đảng Bang Tốn đi đốt phá các nhà thờ đạo (Thiên chúa). Quan Đốc bộ Hiến sát sứ Phan Đình
Bình viết tờ sớ giao cho Trần Văn Kiêm, người làng Thổ Trứ chiêu mộ quân nghĩa dũng đề phòng. Linh
mục Trương Bá Thạch, linh mục Phú cũng đứng ra chiêu mộ quân nghĩa dũng để tiếp tay trừ dẹp, giao
chiến với bọn Bang Tốn ở xã Tống Vũ. Bè đảng bọn Bang Tốn thua chạy, bên quân giáo dũng bắt được 7
tên giải lên nạp quan. Ngày hôm sau, bọn Bang Tốn nhân lúc sơ hở kéo đến huyện Trực Định đốt nhà
Trần Văn Kiêm. Kiêm vội trở về đốc xuất quân nghĩa dũng đánh lại quân Bang Tốn, hai bên lại kịch
chiến…"1.
Sau ba năm, ngày tướng sĩ nghĩa quân Bang Tốn hy sinh, Chánh tổng Trần Đức Lưỡng mua hơn 200
chiếc tiểu sành, nồi hông cùng họ mạc và dân làng cải táng các nghĩa sĩ tử trận, tập trung lại thành một
ngôi mộ tập thể và san lấp bằng để ngụy trang che mắt bọn việt gian và quân Pháp. Bên cạnh ngôi mộ
chung, ông đã cùng dân làng lập một ngôi đền "Hàn Lâm Tự" với đôi câu đối nhiều ẩn ý:
"Nghĩa địa phúc lưu thiên cổ cốt
Hàn lâm tự sự bách niên hương"
Trước lúc lâm chung, ông đã truyền đời cho con cháu và nhân dân thôn Gạo trông nom và đèn hương

ngày mồng một, ngày rằm, ngày lễ tết nơi bản đền và ngôi mộ chung. Đến nay cháu bốn đời cụ Tổng
Lưỡng là ông Trần Minh Hải cùng cụ bà vẫn chăm sóc, hương khói nơi bản đền và ngôi mộ.
1

. Tức là loại áo khâu bằng vải may buồm.

1

. Bùi Quang Ân, Nguyễn Thanh, chủ biên: Tài liệu "Địa chí Thái Bình", tập I. Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu
lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội 2006.


Cùng trong thời gian đó dân làng Đìa (sau đổi là làng Nga, nay là thôn Việt Thắng, xã Hồng An, Hưng
Hà) đã xây cất tại dốc Đìa (nơi giặc Pháp và tay sai phản động hành quyết ba ông Bang Tốn, Đề Thường,
Đề Hiệu) ngôi đền thờ "Đền thờ tướng sĩ Cần Vương tử vong" nhân dân gọi tắt là "Đền thờ Bang Tốn".
Đền nằm trang nghiêm trên khu đất cao hơn mặt thổ làng ba mét, rộng hơn hai sào Bắc Bộ, có nhiều cây
cổ thụ xanh tốt, dân sùng kính cúng lễ quanh năm. Các cụ xưa truyền tụng cho con cháu rằng "Đền thờ
Bang Tốn" linh thiêng lắm. Năm 1945 nơi này vỡ đê kéo theo cả đền. "Đền thờ Bang Tốn" đổ, chỉ còn sót lại
cây ruồi cổ, dân làng sùng kính xây cất lại đền, tuy còn rất khiêm tốn, song quanh năm đèn nhang hương khói
phụng thờ. Đền thờ Bang Tốn là bậc hào kiệt chống giặc ngoại xâm, đây là di tích lịch sử vẫn được người dân
gìn giữ.
Ngày nay nhân dân có nguyện vọng phục hồi "Đền thờ tướng sĩ Cần Vương tử vong" như ngày trước,
đây là nghĩa cử tốt đẹp, truyền lại dấu son vốn có trên quê hương.
Năm 2003, cháu bốn đời cụ Bang Tốn là ông Nguyễn Minh Lâm mới tìm được gia phả dòng họ, mới
biết cụ Nguyễn Đình Tốn sinh gia nhà chí sĩ - nghệ sĩ Nguyễn Thúc Khiêm, liệt sĩ chống Pháp đã hy sinh
tại nhà tù Sơn La năm 1944 (cha đẻ nhà lão thành cách mạng Nguyễn Minh Bạch). Nơi quê nhà làng
Hoàng Nông thân tộc đã xây dựng "Nhà thờ họ chi Bang Tốn" đêm ngày hương khói thờ phụng. Cán bộ
và nhân dân thôn Hoàng Nông đã xây dựng nhà "Bia tưởng niệm" để tri ân nhà "văn thân" yêu nước
Nguyễn Đình Tốn, chí sĩ - nghệ sĩ, liệt sĩ Nguyễn Thúc Khiêm...
Năm 2008, cán bộ và nhân dân thôn Gạo, thân nhân hậu duệ của nghĩa quân Bang Tốn, thân nhân hậu

duệ cụ Trần Đức Lưỡng đã tôn tạo bản đền "Hàn Lâm Tự" nay nhân dân gọi là "Đền Chùa Hà" và xây cất
ngôi mộ tập thể, dựng văn bia để tưởng niệm "Tướng sĩ Cần Vương tử vong" thành kính, trang nghiêm.
Đôi câu đối ở văn bia do ông Nguyễn Thanh - nguyên Giám đốc Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Thái Bình
đã viết:
Anh hùng xá kể chi thành bại, cốt nhục lưu danh gửi đất này,
Người sau kẻ trước lao vào giặc, giữ vững nghìn thu một giống nòi.
Hoặc:
Xõa tóc, vươn đầu, trừng mắt hận;
Bình minh, rạng mặt, tỏ lòng trung1.

3. Đốc Đen
Đốc Đen tên thật là Bùi Văn Quảng, người đen khoẻ mạnh, rất giỏi bơi lội, tính khí ngang
tàng. Vì vậy mọi người gọi ông là Đen, ít người nhắc đến tên cúng cơm của ông. Ông người làng Yên Lũ,
huyện Đông Quan, nay thuộc xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Nhà nghèo, từ nhỏ ông
đã phải đi ở cho nhà họ Lại tại làng Sen, nay thuộc xã Trọng Quan. Nguyễn Thân, người làng Sen là đội
trưởng trong quân đội nhà Nguyễn dạy ông học võ. Ông học võ rất tấn tới, dân anh chị trong vùng phải
tôn là đại ca.
Năm 1882, ông làm phụ tá cho Nguyễn Thân. Tổng đốc Định - An là Vũ Trọng Bình gọi Thân vào
thành giúp việc quân, Thân đem theo cả Đen. ở trong quân ngũ, Đen tiếp xúc, kết thân với Lãnh Khuyển,
Đề Gạo, Ba Gang - sau đều là những thủ lĩnh giỏi của nghĩa quân Hải Dương, Hưng Yên.
Ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định thất thủ lần thứ hai, triều đình cử Tạ Hiện về làm Đề đốc
Định - An thay Đề đốc Lê Văn Điếm đã hy sinh. Tạ Hiện là người tích cực trong phe chủ chiến đã kêu gọi
nhân dân thành lập nghĩa binh. Ông cùng với Đốc binh Nguyễn Trọng Bái, người xã Nguyệt Xá hoạt
động mạnh ở Tiên Hưng, Thần Khê. Quân sĩ và nhân dân tôn ông là Đốc binh - gọi là Đốc Đen. Tháng 9
năm 1883, Tạ Hiện kiên quyết không tuân lệnh triệt binh của triều đình Huế, phái người nộp trả ấn Đề
đốc, lui về vùng Kiến Xương (Nam Định) khởi binh tố cáo lên án giặc Pháp, chiêu mộ hương dũng chống
Pháp rất quyết liệt.
Đốc Đen đánh úp các toán quân của triều đình do phe chủ hoà chỉ huy lấy vũ khí. Ông còn tập kích
vào các huyện lỵ Quỳnh Côi, Đông Quan, Phủ Dực, Kiến Xương. Đốc Đen liên hợp với các thủ lĩnh
nghĩa quân như Đốc Nhưỡng ở Đô Kỳ, Lãnh Hoan ở Thọ Vực.

Phong trào kháng chiến chống Pháp phát triển mạnh và quyết liệt từ tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi
xuất bôn, hạ chiếu Cần Vương. Tri phủ Hoàng Văn Hoè từ quan theo Tạ Hiện cùng Đốc Đen chiêu mộ quân
đánh Pháp. Từ năm 1885 đến năm 1888, Đốc Đen hoạt động mạnh ở Thanh Quan, Đông Quan (Thuỵ Anh),
lan sang cả Thần Khê.
1

. Đôi câu đối cụ Trần Ngọc Hảo viết tặng "Đền thờ Bang Tốn" tại thôn Việt Thắng, xã Hồng An, Hưng Hà, Thái Bình.


Ngày 25 tháng 8 năm 1888, Đốc Đen tập kích đồn Bình Cách phủ lỵ Thái Bình, Pháp phải đưa lính ở
Thuỵ Anh tới cứu viện.
Đêm 23 tháng 11 năm 1888, trong khi nghĩa quân Nam Định tiến công đồn Vụ Bản thì Đốc Đen chỉ huy
300 quân đánh vào đồn Thanh Quan, hai tên thiếu uý Đuyvécgiơ (Duvergé) và Iluyếcxi (Illiercy) phải liều
chết đốc thúc quân lính dưới quyền chống cự mới giữ được đồn.
Đêm 21 tháng 9 năm 1889, quân Pháp cho tên Khải người cùng làng Đốc Đen chà trộn vào hàng ngũ
nghĩa quân chỉ điểm. Đốc Đen phát hiện ra liền tương kế, tựu kế, cố tình để lộ việc mời các thủ lĩnh về
nhà mình ăn uống, bàn cách đánh kho gạo Kiến Xương. Tên Khải thám thính được vội vàng báo cho Bùi
Phụng, Tuần phủ Thái Bình và tên thiếu uý Rivie (Rivière) chỉ huy đồn Phụ Dực biết. Hai tên này vội
vàng đưa lính đến làng Yên Lũ, Bùi Phụng thúc lính vây kín chung quanh làng, Đốc Đen cho số quân ít ỏi
phục ngoài vườn còn mình và các tướng vẫn ngồi trên sập uống rượu. Rivie vừa vào tới sân thì nghĩa
quân phục ở ngoài vườn nổ súng. Đốc Đen cầm mã tấu xông ra sân, chém cụt đầu tên thiếu uý Pháp. Tên
Khải đi sau vội kêu lên: "ối quan phủ ơi nó giết mất quan một rồi". Hắn chưa dứt lời thì cũng bị nghĩa
quân xông vào chém đứt đầu hắn như tên đồn trưởng Pháp rồi xách đầu hắn chạy. Bùi Phụng phải vượt
qua lưới đạn của nghĩa quân để khênh cái xác không đầu của Rivie ra khỏi làng.
Trận đánh phá vây nổi tiếng uy danh Đốc Đen càng lừng lẫy, đích thân tên công sứ Nam Định Lamơthơ
đờ Rariê (Lamothe de Rarrier) lệnh cho phó sứ bố chánh Nam Định, từ phủ Thái Bình đem quân đi càn quét
để bắt Đốc Đen.
Quân Pháp, quân Nam đi sục sạo khắp nơi, gặp dân bất kỳ đàn ông, đàn bà hay trẻ em là bắt tra hỏi,
tới đâu cướp bóc đốt phá tới đó, nhưng chẳng thấy cái đầu tên quan một đâu. Không lẽ để cái xác béo phì
nung núc mỡ cho dòi bọ làm tổ, ngày hôm sau bọn Pháp và Bùi Phụng đành phải chôn tên quan một làm

con ma không đầu.
Trước khi hạ huyệt Bùi Phụng đọc bài văn tế lâm li cho quan thầy:
"Nước Đại Nam, vua Thành Thái đầu năm Kỷ Sửu, tháng 8 ngày 23, tức ngày mồng 8 tháng 9 Tây
năm 1889.
Quan tỉnh Nam Định sức xuống phủ Thái Bình tri phủ là tôi, đem nha lệ với chánh phó các tổng biện
lễ hoa quả, xôi một ván, bò một con, rượu hai nồi, kính bày trước mồ ông quan một đồn Phụ Dực là ông
Rivière tế và than rằng:
Ông là đấng anh hùng mà lòng trung hậu, mười lăm năm ra lính, mấy mươi trận cầm quân. Nước Đại
Pháp đã thưởng mề đay, vua An Nam cũng ban kim khánh...
Từ khi về đồn:
Dốc lòng bảo vệ,
Hết sức trung trinh
Từ đồn Phụ Dực
Sang phủ Thái Bình
Đến huyện Thanh Quan
Vào làng Yên Lũ
Cứ đem tên Khải
Dẫn bắt thằng Đen
Bởi vì khinh chúng nó quân hồ,
Đến nỗi thiệt một người mãnh hổ!
Thương ôi!
Nửa đêm gió cuốn
Một phút mây bay
Hồn thiêng tưởng đã về đâu
Tiếng tốt còn ghi ở đó.
Nay tôi
Vâng lệnh quan tỉnh,
Ngọn đèn, nén hương,
Theo tục nước Nam
Đĩa hoa, cốc rượu.

Nghĩ lại sông dài, bể rộng, cách trở bao xa
Tưởng như tướng mạnh, thần thiêng, linh khôn


cũng thấu..."
Tri huyện Thanh Quan cũng đọc tiếp:
"Từ bên Đại Pháp,
Sang cõi An Nam
Trông phép nước như việc nhà đồng làn bảo hộ.
Đem quân đi đánh giặc mấy trận xông pha...
Ngày rằm tháng Tám, sắp lính đồn qua huyện Thanh Quan, vào làng Yên Lũ:
Thương ôi!
Nửa đêm lăn lộn, không để thằng Đen
Ba huyện xông pha vì thương con đỏ
Đã trải bên Đông, bên Bắc vua cũng biết tài.
Ai hay làm tướng, làm thần giời cho để tiếng
Nay tôi: Vâng lệnh quan trên sức xuống.
Khắc đem nha lệ đều sang
Nghĩ lại đường dài, trông theo ngọn cỏ...
Gọi là lễ bạc xin đãi tấm lòng"
Sau này có bài văn tế được phổ biến rộng rãi hơn:
Văn tế Rivie (Rivière)
Hỡi ơ!
Ông ở bên Tây
Ông qua bảo hộ
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ
Đít ông cưỡi lừa
Miệng ông huýt chó
Lưng ông mang súng lục liên

Chân ông đi giày có mỏ
Ông gặp thằng Đen,
Để yên con đỏ,
Ai ngờ: Nó bắt được ông.
Nó chặt mất sỏ.
Cái đầu ông đâu?
Cái đít ông đó.
Khốn khổ thân ông,
Đ...mẹ cha nó.
Nay tôi có:
Chuối một buồng
Xôi một chõ
Rượu một be
Trứng một ổ
Vâng lời quan trên
Cúng ông một cỗ.
...
Để ông khỏi hổ
Ô hô thượng hưởng1
(Dựa theo bản của Báo Mai - In lại trong Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX)
Sau khi chôn cất tên Rivie được vài ngày, quân lính mới tìm thấy cái đầu hắn ở cánh đồng làng Cồ
Cốc.
Ngay sau đó giặc Pháp điên cuồng hành quân càn quét khủng bố trong toàn phủ Thái Bình. Làng Yên
Lũ, quê hương Đốc Đen bị triệt hạ, nhân dân phải trốn tránh đi các nơi, ruộng đất bị đem chia cho các xã
1

. Chưa rõ tên tác giả bài nhại văn tế của Bùi Phụng, có nhiều bản.


khác. Đợt khủng bố ác liệt dài ngày này đã gây tổn thất nặng nề cho các toán nghĩa quân.

Từ cuối năm 1889, phong trào chống Pháp ở Nam Định khó khăn, Tạ Hiện, Phạm Huy Quang, Bang
Tốn hy sinh. Căn cứ Đô Kỳ của Đốc Nhưỡng, căn cứ Thọ Vực của Lãnh Hoan bị quân Pháp càn đi, quét
lại nhiều lần. Quân Pháp sau khi bị nghĩa quân Đốc Đen phá vỡ một số cuộc càn quét, đã tập trung binh
lực bao vây, truy quét Đốc Đen. Tuy vậy ông vẫn khôn khéo tránh các mũi nhọn của địch, đánh nhiều trận
tập kích, phục kích xuất sắc. Tiêu biểu như các trận cuối năm 1889, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh
một trận ác chiến với quân lính của tên quan phủ Kiến Xương. Tháng 1 năm 1890, Đốc Đen chỉ huy
nghĩa
quân
đánh
một
trận
lớn

phía
bắc
phủ
Kiến
Xuơng,

chùa
Tương
An,
Đốc
Đen
còn
tấn
công
huyện
đường
Thư Trì1.

Tháng 3 năm 1890, Đốc Đen nhận được tin tên công sứ chở gạo từ Gia Định về để bán với giá cắt cổ
cho dân bị mất mùa, ông phối hợp với quân của Lãnh Hoan, Đốc Nhưỡng đánh trận Bình Cách để cướp
gạo. Tri phủ Bùi Bổng và Hiệp quản Trần Trúc chỉ huy nha lệ hai đồn Phụ Dực, Thuỵ Anh phản công.
Trận đánh kéo dài từ 9 giờ sáng đến tối. Sau nghĩa quân lợi dụng trời tối rút quân an toàn. Quân Pháp phải
thú nhận: "Bọn giặc tập hợp các dũng đảng lại", nhận xét: "từ khi giết được viên quan một cả bọn suy tôn
Đốc Đen là người giỏi nhất"2.
Các hoạt động của Đốc Đen vang dội, Tạ Quang Hổ con trai Tạ Hiện; Cả Tiến, con rể Phạm Huy
Quang cùng về liên hệ, bàn kế hoạch tác chiến.
Để đối phó với quân Pháp tập trung quân mở các cuộc càn quét lớn vào các khu vực hoạt động của
nghĩa quân. Đốc Đen chia quân thành những toán nhỏ, mặc quần áo của lính khố xanh, khố đỏ, hành quân
giữa ban ngày tiến đánh các đồn bốt giặc, các lỵ sở của bọn quan phủ huyện làm tay sai cho giặc Pháp.
Tháng 11 năm 1889, Đốc Đen phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân các cuộc khởi nghĩa ở Nam
Định, Hưng Yên đánh phủ lỵ Kiến Xương và phủ lỵ Thư Trì. Các ông tập trung ở căn cứ của Lãnh Bí,
tên chánh đội Phạm Biểu làm phản báo cho tri phủ Kiến Xương là Trần Thuỳ, tên này báo cho quân
Pháp rồi đưa lính đến bao vây. Hai bên đánh nhau ác liệt từ chiều đến đêm, cả hai bên đều bị thiệt hại
rồi cùng rút lui.
Tháng 12 năm 1889, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh thẳng vào huyện lỵ Thư Trì. Song quân triều
đình đã được tăng viện lính và vũ khí chống trả dữ dội, nên trận đánh không hiệu quả.
Năm 1890, tỉnh Thái Bình1 mất mùa, Đốc Đen đánh úp các đoàn tải lương của quân Pháp. Ông cùng
với Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan hợp quân đánh thẳng vào Bình Cách, phủ lỵ Thái Bình, các huyện lỵ Đông
Quan, Thanh Quan, Kiến Xương. Nhưng kế hoạch bị lộ, tri phủ Bùi Bổng phi báo cho Pháp đưa quân đến
bao vây. Cuộc chiến diễn ra ác liệt từ 9 giờ sáng đến hơn 4 giờ chiều. Lực lượng quân Pháp đông gấp
nhiều nghĩa quân, Đốc Đen phải mở đường máu rút lui về chùa Trực Nội. Tên chánh tổng báo cho tri
huyện Thư Trì là Vũ Văn Trinh. Tên này báo cho quân Pháp bao vây chùa, Vũ Văn Trinh xông vào chùa
bị Đốc Đen bắn liền chạy rút ra. Đốc Đen cùng mấy nghĩa quân bắn mạnh, mở đường máu xông ra ngoài
thì bị quân Pháp bắt được. Chúng giải ông ra Hà Nội cho tên Thống sứ Bắc Kỳ biết mặt rồi đưa ông về
làng Yên Lũ chặt đầu để uy hiếp nhân dân1.

4. Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi
Vũ Hữu Lợi tên thật là Vũ Ngọc Tuân sinh năm Bính Thân (1836), quê ở xã Giao Cù 1, tổng

Sa Lung, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định, nay là thôn Giao Cù, xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định. Năm Canh Ngọ (1870), ông 35 tuổi, đỗ cử nhân, đến năm ất Hợi (1875) ông đỗ tiến sĩ, nên
còn gọi là "Ông nghè Giao Cù". Do tài năng và đức độ, ông được bổ làm Đốc học Nam Định. Ông còn là
một nhà giáo, từ khi đỗ cử nhân, học trò của ông người các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hưng
Yên theo học rất đông.
1

. Danh nhân Thái Bình - Lịch sử cận đại Việt Nam - Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Diên; Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc
đến năm 1889, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
2

. Phần Thái Bình phong vật chí, in trong sách "Chí Thái Bình", Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Thanh địch, Trung tâm UNESO
thông tin tư lệnh lịch sử Văn hóa Việt Nam, 2006".
1

. Tỉnh Thái Bình được Pháp thành lập ngày 21 tháng 3 năm 1890.

1

. Theo Thái Bình thông chí của Phạm Văn Thụ thì sau trận Bình Cách, Đốc Đen chạy về Trực Nội, huyện Thanh Quan và bị
bắt ở một ngôi chùa do bị phản bội.
1

. Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn viết là Dao Cù. Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX cũng viết là Giao Cù.


Ông có tinh thần yêu nước rất cao, bất bình với bọn thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai
(1882) rồi đánh rộng ra các tỉnh Bắc Kỳ, trong đó có tỉnh Nam Định. Năm 1883, ông bỏ quan về quê,
cùng tiến sĩ Đỗ Huy Liệu người làng La Ngạn, huyện Đại Yên, tỉnh Nam Định và Nguyễn Đức Huy
người làng Thái La, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định chiêu mộ quân khởi nghĩa. Ông đã liên hệ với các sĩ

phu tham gia phong trào Cần Vương ở tỉnh Nam Định và Thái Bình, dự định cùng Nguyễn Quang Bích
đang chống Pháp ở Hưng Hóa khởi nghĩa ở Nam Định.
Ông là học trò cũ của tiến sĩ Vũ Văn Lý, quê ở làng Nghĩa Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Cụ Lý
có con trai là Vũ Văn Báo 1 vừa là bạn vừa là học trò của Vũ Hữu Lợi. Vũ Văn Báo đỗ phó bảng ra làm
quan cho Pháp, giữ chức Tổng đốc Nam Định. Báo là tên tay sai cho Pháp, nên sĩ phu Nam Định, Hà
Nam, Hưng Yên đều căm ghét.
Một hôm, Vũ Văn Báo đến thăm thầy Vũ Hữu Lợi nhằm dò xét hoạt động chống Pháp của thầy cũ để
mật báo cho Pháp lập công. Khi Báo đến, Vũ Hữu Lợi đang giảng bài, biết Báo đến dò la, nên Vũ Hữu
Lợi đọc:
"Lý chi đình, thi lễ chi đình"
Nghĩa là nhà ông Lý là một nhà thi lễ. Một học trò giỏi của Vũ Hữu Lợi biết thâm ý của thầy, liền
nhanh nhẹn đối:
"Báo chi quách, khuyển dương chi quách".
Nghĩa là da con báo như da chó dê.
Hai câu này lấy điển trong sách luận ngữ. Lý là tên Bá Ngư, con Khổng Tử, hai câu đối trên có nghĩa
là: "Nhà bố tên Báo cũng là nhà tử tế hẳn hoi, vậy mà lại đẻ ra thằng con làm mật thám cho Pháp như là
đồ dê chó".
Báo lấy làm tức tối càng rắp tâm giết Vũ Hữu Lợi để trả thù. Từ đó Báo cho tay chân bám sát Vũ Hữu
Lợi và những người tới gặp ông.
Cuối cùng, Vũ Văn Báo đã lừa Vũ Hữu Lợi để làm nội ứng và dò biết Vũ Hữu Lợi cùng Nguyễn Đức
Huy, Đỗ Huy Liệu triệu tập một cuộc họp bàn kế hoạch đánh thành Nam Định ở một làng ven tỉnh lỵ
Nam Định. Vũ Văn Báo mật báo cho công sứ Pháp rồi đưa lính đến bắt.
Chúng giải các ông về thành Nam Định, dùng mọi cực hình tra tấn, nhưng không moi được một bí mật
nào của nghĩa quân. Mười ngày sau, công sứ Pháp và Tổng đốc Vũ Văn Báo đem Vũ Hữu Lợi và Nguyễn
Đức Huy ra chém ở chợ Nam Định trong đêm 30 tết năm Giáp Thân (1884), năm ấy ông chưa đầy 50
tuổi. Trước khi chết, Vũ Hữu Lợi ung dung ngâm câu: "Tuyệt mệnh":
Võ vô dung địa tương thùy thích?
Sư đại như thiên nại nhĩ hà?
Dịch:
Võ không còn đất đi đâu được

Việc lớn như trời biết tính sao?
Nguyễn Đức Huy đọc đôi câu đối: "Lâm hình thời tác", nghĩa là: Câu đối làm khi bị ra hành hình.
Sinh bất phùng thời, nan bả hình hài hoàn tạo hóa;
Tử đắc kỳ táng cảm tương tâm huyết báo từ châu.
Dịch:
Sống chẳng gặp thời, khó trả hình hài cho tạo hóa
Chết may được táng, dám đem tâm huyết báo từ thân.
(Phong trào cách mạng qua thơ văn, Trần Huy Liệu, Tập san Văn, Sử, Địa, số 35 tháng
12-1957).
Đỗ Huy Liệu bị Pháp bắt tù, chúng dụ ông làm án sát Bắc Ninh ông từ chối. Hai năm sau ông được
tha, về phụng dưỡng mẹ. Khi mẹ mất, ông uống thuốc độc tự tử.
Vũ Hữu Lợi bị Pháp giết, có nhiều câu đối, thơ phúng viếng. Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến gửi
đôi câu đối:
Vị tiệp thân tiện, trường sử anh hùng lệ mãi;
1

. Vũ Văn Báo người làng Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, sinh năm 1841, là con trai tiến
sĩ Vũ Văn Lý, đỗ phó bảng năm 1868, làm quan ở Định An, Tam - Tuyên tổng đốc, Tổng đốc Nam Định dẫn quân Pháp đến bắt
Vũ Hữu Lợi.


Tịch du nhan hậu khẳng gia phu tử sinh hoàn
Dịch:
Ra quân chưa báo tin thắng, mà đã chết trước, khiến người anh hùng đầy nước mắt;
Những bạn của ông không rõ mặt dầy đến đâu, nếu ông sống lại mà về với dân với nước.
Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến còn làm bài tứ tuyệt vịnh con thiêu thân, dụng ý khóc ông Nghè
Giao Cù:
Vịnh con thiêu thân
Tiện nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn
Đầu minh nhi tử, tử nhi an

Cổ đăng sát nhĩ ưng lần nhĩ
Đãi đáo thành hôi, lệ thủy càn
Dịch thơ:
Vịnh con thiêu thân
Chiếc thân nhỏ nhắn, nhẹ như tên
Tìm sáng liều mình thác mới yên
Ngọn sáp hại ngươi nhưng vẫn xót
Xác chưa tàn hết, lệ còn hoen
Nhân Phủ dịch
Môn sinh có câu đối viếng thầy Vũ Hữu Lợi:
Vị tiệp thân tiên, trường sử anh hùng lệ mãi
Tịch du nhan hậu, khẳng giao phù tử sinh hoàn
Dịch:
Chưa thắng đã thương thân! Thường khiến anh hùng lệ tuôn nhủ;
Bạn lứa sao dầy mặt? Chẳng để thầy ta sống trở về
Đỗ Huy Liệu đang bị giam trong ngục làm thơ khóc Vũ Hữu Lợi:
Khóc Giao Cù đại huynh
Thê lương bắc vũ sái thông tân,
Bạch nhỡn lâu tiền bán dạ sân.
Diệc giác lực suy nan đỉnh Tống,
Kỳ như ân trọng cố chùy Tần.
Bách niên quả hữu sinh tâm sự,
Trừ tịch kham bi tử tiết thần.
Cận nhật sô linh vi giá trọng
Năng vô tác lệ tự Trương Tuần.
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, trang 247-248)
Dịch thơ:
Khóc đại huynh làng Giao Cù
Mưa mù phủ kín bến thê lương
Trằn trọc đêm trường, mắt vẫn giương.

Giúp Tống, sức suy đành chịu vậy
Thù Tần, ơn nặng phải liều mang
Trăm năm tâm sự còn như sống,
Một dạ trung trinh chết những thương
Hiện tại người môi mua giá đắt,
Mà không táo bạo giống chàng Trương.
Chu Thiên dịch
Về sau Đốc Nhưỡng và Lãnh Hoan là học trò của Vũ Hữu Lợi đã lập mưu bắt sống Vũ Văn Báo


về xử tội.


5. Lãnh Hoan

Lãnh Hoan tên thật là Vũ Văn Hoan, người làng Thọ Vực, huyện Thần Khê, nay thuộc xã
Đông Thọ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông cùng Nguyễn Khuyến, Đinh Khắc Nhưỡng, Nguyễn
Thành Thà học thầy Vũ Hữu Lợi, còn gọi là ông nghè Giao Cù. Trong số đồng môn còn có Vũ Văn Báo là
con tiến sĩ Vũ Văn Lý quê ở làng Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Vũ Văn Báo được Vũ Hữu Lợi
kèm cặp, đỗ cử nhân sau Vũ Hữu Lợi bốn năm. Vì thế Vũ Văn Báo đối với Vũ Hữu Lợi vừa là đồng môn,
vừa là thầy trò.
Học chữ được vài năm thì Nguyễn Thành Thà chuyển sang học võ, năm 1874 khi quân Pháp rút
khỏi Nam Định, Nguyễn Thành Thà mở trường dạy võ cho đội "Anh danh giáo dưỡng". Học sinh ở
tuổi thanh niên, thiếu niên theo học rất đông, trong đó có Vũ Văn Hoan và Đinh Khắc Nhưỡng.
Học võ xong trở về làng, Vũ Văn Hoan giữ chức phó tổng, sau đó theo việc binh, được phong là Lãnh
binh.
Ngày 25 tháng 3 năm 1883, quân Pháp do trung tá Hải quân Hăngri Rivire chỉ huy từ Hà Nội về đánh
thành Nam Định lần thứ hai. Trưa ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định lọt vào tay quân Pháp.
Lãnh Hoan từ quan về quê ở làng Thọ Vực lập căn cứ chiêu mộ quân sĩ đánh Pháp. Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi,
Đốc học Nam Định cũng từ quan cùng Nguyễn Đức Huy... mộ quân chống Pháp, được phong chức Đề

đốc trong khi đó Vũ Văn Báo làm tổng đốc Nam Định.
Nghĩa quân Lãnh Hoan cùng nghĩa quân của năm cha con Nguyễn Thành Thà, nghĩa quân Đinh Khắc
Nhưỡng đánh quân Pháp và lũ tay sai của chúng nhiều trận.
Vũ Hữu Lợi muốn thuyết phục Vũ Văn Báo con thầy học và cũng là học trò của mình, nghĩ đến lợi ích
của dân tộc, làm nội ứng cho nghĩa quân hạ thành Nam Định. Vũ Văn Báo rắp tâm làm tay sai cho Pháp
từ lâu đang muốn lập công với Pháp để leo lên chức tước cao hơn, nên đã lừa Vũ Hữu Lợi giả làm nội
ứng. Vũ Hữu Lợi tin lời Báo liền họp với Nguyễn Đức Huy, Đỗ Huy Liệu ở một làng ở gần tỉnh thành
Nam Định bàn kế trong ứng, ngoài hợp. Vũ Văn Báo báo cho Pháp rồi dẫn đường cho quân Pháp bắt
được cả ba thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa và một số người khác.
Mười ngày sau, đúng chiều 30 tết Giáp Thân (1884), công sứ Pháp và Tổng đốc Vũ Văn Báo đem Vũ
Hữu Lợi và Nguyễn Đức Huy xử chém ở gần chợ Nam Định.
Sự phản bội của Vũ Văn Báo khiến sĩ phu Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam căm giận. Đinh
Khắc Nhưỡng quyết tâm trả thù cho thầy, ông viết thư cho Lãnh Hoan trình bày kế hoạch bắt sống Vũ
Văn Báo về xử tội. Cuối thư viết một câu đối:
"Tam xích thân tồn, quốc nhục bất tiễu vị tức,
Thốn tâm thường tại, sư thù vị báo bất lương".
Nghĩa là:
"Ba thước thân hãy còn, nhục nước chưa tan, chưa nghỉ
Một tấm lòng vẫn vẹn, thù thầy không trả, không thôi".
Lãnh Hoan nhất trí với kế hoạch bắt Vũ Văn Báo về trị tội của Đốc Nhưỡng, cuối thư cũng viết đôi
câu đối:
"Sinh dĩ trừ quốc nạn, ngô quyết mưu sinh
Tử như báo sư thù, ngã vô uý tử".
Nghĩa là:
"Sống trừ nạn nước, ta quyết sống còn,
Chết trả thù thầy, ta không sợ chết".
Sau một thời gian ngắn, quân do thám của nghĩa quân Đốc Nhưỡng báo cáo cho chủ tướng là tên phản


quốc, giết thầy Vũ Văn Báo đang ở tại nhà. Đinh Khắc Nhưỡng cho quân đột nhập bắt sống hắn về căn cứ

để xử tội.
Năm 1885, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần Vương. Lãnh
Hoan lại hợp quân với anh em Bang Tốn, Đốc Đen, Đốc Nhưỡng đánh Pháp quyết liệt tại Thọ Vực. Quân
Pháp thua phải tháo chạy bỏ lại nhiều xác chết và vũ khí. Lãnh Hoan còn phối hợp với nghĩa quân của các
thủ lĩnh khác, đánh thắng quân Pháp ở làng Tống Vũ, nay thuộc xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình và Cầu Kim, Chợ Đác nay thuộc xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nghĩa quân gây
cho giặc nhiều thiệt hại nặng nề1.
Năm 1886, Lãnh Hoan chỉ huy nghĩa quân đánh Pháp ở làng Trường Yên, tiêu diệt 40 lính Pháp và
lính tập.
Đầu năm 1892, Lãnh Hoan hy sinh trong tư thế hiên ngang, lẫm liệt, đã được nhân dân ghi lại trong
bài:
Vè Lãnh Hoan
"Thọ Vực ông Lãnh đánh Tây
Hình dáng thợ cày, mã tấu bên hông.
Toàn thân ông nhuộm màu hồng,
Ông đã rửa hận non sông phen này"2
Nguyễn Thành Thà làm bài thơ viếng học trò của mình, có câu:
Thọ Vực tuy tàn căn cứ địa,
Thần Khê vưu tráng nghĩa quân doanh.
Dịch:
Thọ Vực dẫu tàn căn cứ địa
Thần Khê càng mạnh nghĩa quân doanh.

6. Đốc Nhưỡng
Đốc Nhưỡng tên thật là Đinh Khắc Nhưỡng, ông còn có tên là Đinh Quang Nghĩa, con thứ ba
cụ Đinh Quang Khánh. Ông người thôn Phú Lãng Đông, xã Đô Kỳ, huyện Thần Khê, phủ Tiên Hưng, nay
là xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Đinh Khắc Nhưỡng theo học thầy Lương Quy Chính, sau thầy Chính làm quan cho Pháp nên ông bỏ
trường, theo học thầy Nguyễn Huy, gọi là Xứ Huy một người văn thơ hay, có lòng yêu nước thiết tha.
Thầy Nguyễn Huy đã truyền cho Đinh Khắc Nhưỡng lòng yêu nước sâu sắc và ý chí căm thù giặc Pháp

cướp nước. Trong khi học văn thầy Huy, Đinh Khắc Nhưỡng theo học võ của võ sư Đinh Tiến Đức, ông
giữ chức Hiệp quản được phong Lục phẩm thời Tự Đức, chỉ huy đồn tiền tiêu ở Quảng Yên. Khi Tự Đức
ký hiệp ước đầu hàng giặc Pháp, Đinh Tiến Đức từ quan về làng mở trường luyện tập võ nghệ. Do Đinh
Khắc Nhưỡng có lòng căm thù giặc Pháp và bọn quan lại tay sai nên thầy Đức rất quý mến và đem cả
những môn võ bí truyền dạy cho Nhưỡng.
Đinh Tiến Đức muốn cho cậu học trò yêu của mình giỏi cả văn, liền gửi Nhưỡng vào trường đại tập
của ông nghè Giao Cù Vũ Hữu Lợi. Nhưỡng học thầy Lợi được 2 năm, chuẩn bị thi Hương thì năm 1882,
quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai, Vũ Hữu Lợi cùng Tam đăng Phạm Văn Nghị chiêu tập nghĩa quân,
lập căn cứ đánh Pháp. Học trò của thầy Lợi phần lớn gia nhập nghĩa quân. Khi đó Nhưỡng chưa tới tuổi
thanh niên, nên được bố trí vào đội quân "Anh danh giáo dưỡng" do ông Nguyễn Khả Dã người làng
Phươn chỉ huy.
Ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định thất thủ các trường phân tán về quê quán chiêu mộ nghĩa
quân, xây dựng căn cứ đánh Pháp. Đinh Khắc Nhưỡng tuy còn trẻ tuổi, nhưng có kiến thức quân sự, lại
có nhiệt tình yêu nước, căm thù giặc Pháp, cũng noi gương các bậc đàn anh về quê hương ở xã Đô Kỳ
chiêu tập những người yêu nước, sắp xếp vào đội ngũ, sắm sửa vũ khí, thuyền bè, tích trữ quân lương,
đào hào đắp luỹ biến xã Đô Kỳ thành căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa. Đầu năm Hàm Nghi thứ nhất (1885),
Đốc Nhưỡng cùng Bang Tốn khởi nghĩa. Nghĩa quân của hai ông thoắt ẩn, thoắt hiện gây cho quân Pháp
và quân triều đình nhiều phen thất điên, bát đảo.
1

. Sở Văn hóa - Thông tin Thái Bình, Danh nhân Thái Bình.

2

. Vè Thái Bình - Danh nhân Thái Bình, Sđd.


Tháng 6 năm ất Dậu (7-1885), sau vụ khởi nghĩa ở kinh thành Huế không thành, Tôn Thất Thuyết,
Trần Xuân Soạn hộ giá vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần Vương. Lập tức
các thủ lĩnh nghĩa quân ở Thái Bình1 đã nổi dậy chống Pháp, từ tháng 3 năm 1883, khi tỉnh thành Nam

Định thất thủ như: Vũ Văn Hoan (tức Đề Hoan), Đinh Khắc Nhưỡng (Đề Nhưỡng) người xã Đô Kỳ, Lãnh
Nhàn (Nguyễn Nhàn) người xã An Dực (Phụ Dực)... lại có thêm sức mạnh sau khi được xem nội dung
trong "Chiếu Cần Vương" của vua Hàm Nghi kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng dậy
"chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành an, thu lại được bờ cõi" 1 đã lập tức chiêu mộ thêm quân sĩ mở
nhiều trận đánh vào các đồn binh Pháp, các phủ đường, huyện đường có quan lại người Nam theo Pháp.
Quân Pháp lo sợ vùng đất Nam Định, Hưng Yên (sau là tỉnh Thái Bình) sẽ bùng lên khởi nghĩa rộng
lớn, liên kết với căn cứ Bãi Sậy ở Hưng Yên thành một cứ điểm rộng lớn chống Pháp, Bộ chỉ huy quân
viễn chinh Pháp ở Trung - Bắc Kỳ, ngày 11 tháng 12 năm 1885 phải điều 10 đại đội bộ binh, 2 trung đội
pháo binh, 1 đoàn thuyền máy và mấy chiếc tàu phóng lôi do tướng Muyniê (Munier) và trung tá Calê
(Callet) cầm đầu để mở một cuộc càn quét lớn trên toàn vùng2.
Trước một lực lượng mạnh, trang bị vũ khí hiện đại áp đảo nghĩa quân về vũ khí, phương tiện chiến
tranh, các chỉ huy đã phải phân tán lực lượng, thực hiện chiến tranh du kích bằng các trận phục kích, tập
kích, đánh phá hậu cần của quân Pháp ở hầu hết các huyện Thuỵ Anh, Phụ Dực, Đông Quan, Kiến
Xương.
Quân Pháp và quân triều đình sục sạo vào các căn cứ của các lực lượng nghĩa quân chỉ huy thấy các
công sự bị phá huỷ, kho lương thực đã được phân tán, dân cư chạy hết. Chúng không tìm được nghĩa
quân Đốc Nhưỡng cũng như nghĩa quân các lực lượng vũ trang khác.
Để hả giận, bọn Pháp tàn sát những người dân chúng gặp, bất kỳ là thanh niên, ông bà già hay trẻ con.
Quân Pháp còn hèn nhát bắt vợ Đốc Nhưỡng là Phạm Thị Đề lên đồn Đô Kỳ chúng mới chiếm của ông
khi ông rút lui, bắt bà Đề phải lấy tên quan Tây chỉ huy đồn. Bà Đề kịch liệt phản đối, mấy lần định tự tử.
Tri huyện Thần Khê sợ khi quân Pháp rút, Đốc Nhưỡng sẽ trị tội liền nhận Nguyễn Thị Đề về quản thúc.
Đốc Nhưỡng nhận được tin trên, liền làm một lá đơn "Xin ly dị chồng" cho người lẻn về đưa cho vợ bắt
vợ phải gửi đơn ly dị cho tri huyện Thần Khê. Nội dung như sau:
Đơn Phạm Thị Đề xin ly dị chồng
Bẩm quan tri huyện Thần Khê1
Tên con là Phạm Thị Đề làng Sang2
Thuộc về trong hạt phủ Tiên3
Làm đơn khiếu tội võ biền phu gia1
Cũng người trong huyện hạt nhà,
Chính danh Khắc Nhưỡng, chức là Đốc binh.

Tháng năm chống đối triều đình,
Về Sang gặp thiếp duyên tình lấy nhau,
Biết bao ý hợp, tâm đầu,
Không ngờ từ thuở thuyền tầu càn vây
Nhưỡng đưa thiếp đánh về đây
Rồi bỏ đi biệt ít ngày gặp nhau
Sớm đứng ngõ, tối trông sao,
Ngẩn ngơ, ngơ ngẩn biết bao trông chờ
Thế rồi đồn đóng Đô Cờ2
1

. Khi đó Thái Bình còn nằm trong tỉnh Nam Định và Hưng Yên, mãi đến năm 1890, tỉnh Thái Bình mới được thành lập.

1

. Chiếu Cần Vương (Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX) - 1858-1900. Nxb Văn học, Hà Nội, trang 463-465.

2

. Theo Thái Bình trong phong trào chống xâm lược Pháp nửa sau thế kỷ XIX của Đinh Xuân Lâm, Tạp chí Lịch sử quân
sự số 10-1988.
1

. Xưa huyện Thần Khê nằm trong phủ Tiên Hưng, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

2

. Làng Sang (làng Khả Lang) nay thuộc xã Quỳnh Châu, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

3


. Phủ Tiên tức phủ Tiên Hưng có ba huyện Thần Khê, Duyên Hà, Hưng Nhân. Phủ Tiên Hưng thuộc Hưng Yên, đến năm
Thành Thái thứ 2 (1899) mới cắt về Thái Bình.
1

. Võ biền phu gia: người chồng biết võ nghệ.

2

. Đô Cờ tức làng Đô Kỳ, nay thuộc xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.


Nhưỡng về đánh trận, càng thờ ơ hơn
Mới rồi quan gọi lên đồn
Được tin Nhưỡng lệnh bắt luôn thiếp mà,
Bắt đem ra bãi tha ma,
Nhưỡng tra, Nhưỡng hỏi, thiếp đà thực khai:
"Lên đồn gặp một quan hai,
Bảo thiếp bỏ Nhưỡng, lấy ai - đồn giùm"
Thiếp rằng: "Phận đã hứa hôn,
Lẽ đâu thay đổi luôn luôn được nào.
Chồng con dù có thế nào,
Chẳng như châu chấu sáng vào tối ra"
Đồn rằng: "Thời ấy đã qua
Bây giờ bảo hộ đâu là thờ vua"
Thiếp rằng: "Sớm nắng chiều mưa,
Thay chồng đổi chủ là đồ bỏ đi"
Nhưỡng nghe thiếp kể vân vi
Không tin, còn đánh bắt thì thực khai
Thiếp lăn lóc, thiếp kêu giời,

Nhưỡng lệnh bảo thiếp: "Lấy ai cho quyền"
... Nhưng vì đồn cứ sớm chiều,
Bắt thiếp bỏ Nhưỡng để yêu quan đồn,
Trước sự thể, thiếp lệ tuôn,
Làm đơn bỏ Nhưỡng xin quan thương giùm
Vì rằng Nhưỡng đã cho quyền,
Bước đi bước nữa, xin duyên cùng đồn,
Xin quan soi xét căn nguyên
Phê cho thiếp được ly hôn kịp thì
Để đồn khỏi phải tình nghi,
Chẳng phải nội ứng, thị phi rạch ròi
Để thiếp đỡ khổ hơn người,
Để thiếp đỡ phận ngậm ngùi cô đơn
Lời hèn chẳng dám chi hơn
Chỉ mong lượng cả gia ơn thiếp nhờ
Nộp đơn lòng thiếp trông chờ,
Cúi mong phụ mẫu khoan từ y cho.
Sau khi nhận đơn xin ly dị chồng của Đốc Nhưỡng viết, tri huyện Thần Khê vô cùng khó xử, nếu hắn
phê không cho Phạm Thị Đề lấy quan đồn, quan đồn biết, hắn sẽ không biết xử lý ra sao. Nếu hắn phê
đơn cho Phạm Thị Đề lấy quan đồn, thì Đốc Nhưỡng về chém đầu hắn. Cuối cùng quan huyện Thần Khê
khôn ngoan phê:
"Nhưỡng đi rồi Nhưỡng lại về,
Làm thân phận gái liệu bề nói năng
Quan phê đôi chữ cho rằng
Lấy ai thì lấy, tội mang mặc mày!"
Thầy dạy Đốc Nhưỡng là Vũ Hữu Lợi cùng với Nguyễn Đức Huy mộ quân đánh Pháp. Tên Vũ Văn
Báo người làng Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam trước là học trò của Vũ Hữu Lợi và Phạm Văn
Nghị. Khi các ông lập căn cứ chống Pháp thì Vũ Văn Báo đầu hàng giặc Pháp, trà trộn trong hàng ngũ
của nghĩa quân làm mật thám cho Pháp. Vũ Hữu Lợi không biết, vẫn tin cẩn hắn, hắn vạch kế hoạch cho
nghĩa quân đánh thành Nam Định, Vũ Hữu Lợi triệu tập cuộc họp với các tướng lĩnh ở một làng ngoại

thành Nam Định. Vũ Văn Báo đã ngầm báo cho quân Pháp vào bắt Vũ Hữu Lợi và Nguyễn Đức Huy.
Giặc Pháp tra tấn hai ông cực kỳ dã man, song hai ông vẫn không khai một lời. Mười ngày sau, đúng
ngày 30 tết năm Giáp Thân (1885) tên Báo đem Vũ Hữu Lợi, thầy học của hắn và Nguyễn Đức Huy ra
pháp trường xử tử.


Việc làm hèn hạ của Vũ Văn Báo gây nên sự căm phẫn trong dân chúng Bắc Kỳ, đặc biệt là nho sĩ các
tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, trong đó có nhiều người theo học và biết tiếng thầy. Đốc
Nhưỡng đang cầm quân ở huyện Thần Khê 1, tỉnh Thái Bình nhận được tin thầy Vũ Hữu Lợi bị tên lừa
thầy, phản bạn Vũ Văn Báo giết hại, thì trong lòng giận sôi lên, ông viết thư cho Lãnh Hoan đang chỉ huy
ở Thọ Vực bàn kế hoạch giết Báo trả thù cho thầy.
Nhận được thư trả lời của Lãnh Hoan, Đốc Nhưỡng lập tức cho nghĩa quân đi do thám, biết đích xác
sau khi giết Vũ Hữu Lợi, Tổng đốc Vũ Văn Báo được quan thầy Pháp cho đi ăn chơi ở Paris và hiện đang
ở tại nhà hắn làng Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Lập tức Đốc Nhưỡng phái một toán nghĩa
quân, mặc quần áo lính khố xanh, đang đêm đột nhập vào nhà Vũ Văn Báo bắt sống y trói lại, nhét giẻ
vào miệng, áp giải xuống một chiếc thuyền nhẹ theo dòng sông xuôi về Thái Bình để xử tội.
Khi xử tội tên Báo, có một ông đồ khăn áo chỉnh tề xin quan Đề đốc (Đốc Nhưỡng) vào lễ thầy rồi cất
cao giọng đọc bốn câu thơ:
Báo chẳng báo quốc báo công
Báo lo Báo phản nên nông nỗi này
Chúng con làm lễ tế thầy
Đuốc soi cho tỏ mặt mày trắng đen...
Đốc Nhưỡng tiếp tục cuộc chiến đấu chống quân Pháp và lũ tay sai đánh thắng nhiều trận lẫy lừng ở
Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên.
Ngày 17 tháng 6 năm Thành Thái thứ 3 (1891), Đốc Nhưỡng tập hợp 100 nghĩa quân mặc quần áo
lính tây, có vũ khí đầy đủ trên đường về tiến công thị xã Thái Bình, thì bị quân Pháp chặn đường đánh.
Cuộc xung đột diễn ra quyết liệt, tiền quân Khái bị thương tiến về Thư Trì thì bị tên tri huyện bắt nộp cho
công sứ Thái Bình, Đốc Nhưỡng chạy lên Sơn Tây, sau cũng bị phát hiện, giặc Pháp bắt về Hà Nội1.

Nguyễn Năng Thố

Nguyễn Năng Thố quê ở làng Cổ Ninh, nay thuộc xã Vũ Ninh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình. Ông cùng với Nguyễn Công úc khi đó đều là phó tướng tin cậy của Viên Bổn.
Mùa Xuân năm 1883, khi giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai, Viên Bổn quyết định đem quân từ Trực
Định vượt sông Hồng để phối hợp với quan quân giữ thành Nam Định. Nguyễn Năng Thố chuẩn bị lực
lượng đi theo. Viên Bổn quyết định để Nguyễn Năng Thố ở lại xây dựng lực lượng. Những bậc cha chú
trong nhà cũng có lời khuyên như: "Thân phụ cháu đã vì nước hy sinh, cháu cần ở nhà phụng dưỡng bà và
mẹ cho tròn đạo hiếu". Nguyễn Năng Thố lúc đầu không nghe, nhưng sau cũng hiểu được sự nhìn xa
trông rộng của chủ tướng về việc tổ chức xây dựng lực lượng trong cuộc chiến lâu dài, nên cho em là
Nguyễn Năng Giản đi theo Viên Bổn.
Trận chiến đấu giữ thành Nam Định vô cùng quyết liệt, Viên Bổn hy sinh giữa trưa ngày 27 tháng 3
năm 1883. Nguyễn Năng Giản cùng một số nghĩa quân đưa được thi hài của ông về an táng sau khi thành
Nam Định mất, các nghĩa sĩ như Vũ Hữu Lợi xây dựng lực lượng ở vùng Nam Ninh (Nam Định), Nguyễn
Thành Thà (tức Ngô Khả Dã) lập căn cứ ở làng Nấp (Hưng Hà), Lãnh Hoan lập chiến lũy ở làng Thọ Vực
(Đông Hưng), Đốc Nhưỡng lập căn cứ ở Đô Kỳ (Hưng Hà), Nguyễn Năng Thố cũng tập hợp được 1.000
quân. Ông trở thành người có tài trong lĩnh vực tổ chức lực lượng huấn luyện quân đội. Nghĩa quân tôn
ông là Giám Thố.
Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885 (23 tháng 5 năm ất Dậu), kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất
Thuyết rước vua ra sơn phòng Quảng Trị phát động phong trào Cần Vương, khi ấy quân số của Nguyễn
Năng Thố đã lên tới trên 1.000 người. Trong đội quân của ông có nhiều tướng giỏi như Bang biện Phạm
Đình Tiến, Nhị trường Phạm Đình Tuấn, Quản Thạc, Quản Vồ, Quản Căn, Đội Đán, Đội Đặng. Nghĩa
quân Giám Thố đóng nhiều đồn binh, kiểm soát cả vùng Hữu ngạn sông Trà Lý.
Nguyễn Năng Thố khi ấy được gọi là Giám Thố, ông lập xưởng sản xuất vũ khí, cho người lên biên
giới Việt - Trung mua súng, thủ pháo do các nước phương Tây sản xuất. Ông quyên góp lương thực, tổ
chức cho nghĩa quân khai hoang cấy lúa để tự túc một phần lương thực.
Giám Thố cho quân vượt sông Hồng đánh phá các đồn binh của quân Pháp, các lỵ sở của quan lại
triều đình.
1

. Nay là huyện Đông Hưng.


1

. Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Lịch sử Cận đại Việt Nam - Một số vấn đề đang nghiên cứu, Nxb Thế giới, 1998.


Tháng 8 năm 1885 (tháng 6 năm ất Dậu), lợi dụng lũ sông Hồng, quân Pháp đi trên ca nô, xuồng máy
xuôi sông Hồng, chúng tắt máy rồi dùng thuyền gỗ chở trên 100 tên lính thiện chiến, tập kích vào vùng
Bồng Tiên nằm sâu trong căn cứ của nghĩa quân. Song chúng không ngờ, mọi hành động của chúng
không lọt qua những cặp mắt cảnh giác của nghĩa quân và nhân dân. Chúng chưa kịp tới mục tiêu đã bị
nghĩa quân nổ súng đánh chặn rồi xông ra đánh giáp lá cà, giết chết ngay 20 lính Pháp. Bọn Pháp rút chạy
xuống ca nô lại bị nghĩa quân ném thủ pháo tiêu diệt thêm một số tên nữa. Nghĩa quân còn bắt được tên
việt gian là Tư Môi, làm nghề lái trâu bò dẫn đường cho quân Pháp.
Ngày hôm sau, 26 tháng 6 năm ất Dậu (cuối tháng 7 năm 1885) quân Pháp đổ bộ lên gần chợ Bồng
Tiên hiện nay. Một số hào lý làm tay sai cho chúng lùa khoảng trên 50 ông già, đàn bà, trẻ con đi trước
làm bia đỡ đạn cho chúng. Khi tới gần chiếc cầu gỗ bắc ngang sông Hội Khê nay thuộc địa phận xã Vũ
Ninh, đã bị nghĩa quân phá sập, chúng bắt dân lội sang trước. Đợi cho dân lên bờ, nghĩa quân bắn tạt
sườn chúng, giết chết một số tên. Quân Pháp tràn lên vây kín một xóm nhỏ, nơi nghĩa quân phòng thủ.
Giặc đông, vũ khí tối tân, nên lực lượng nghĩa quân bị thương vong tới trên 30 người.
Đúng lúc đó, một cánh quân khác của giặc đông tới 1.000 tên đi ca nô theo sông Hồng ở địa phận tỉnh
Hưng Yên rồi vào sông Trà Lý, chiếm xã Vũ Đông ngày nay rồi tiến thẳng về phía đại bản doanh của
Giám Thố đóng ở làng Thượng Cầm, nay thuộc xã Vũ Lạc. Nghĩa quân hoàn toàn bị bất ngờ. Tuy vậy
Giám Thố vẫn kịp cho 200 quân luồn ra phía sau lưng địch ở vùng Vàng, Đác tấn công chúng. Nghĩa
quân ở trong đánh ra, quân Pháp bị kẹp giữa hai luồng đạn, nên đã ghìm chân giặc suốt từ 9 giờ sáng đến
12 giờ trưa vẫn không tên nào lọt được vào khu đại bản doanh của nghĩa quân. Đến 1 giờ chiều bọn chỉ
huy Pháp rút 500 quân ở phía tây nam, đánh tập hậu vào đội quân 200 người ở vùng Vàng, Đác. Chúng
hội quân ở làng Đồng Văn rồi tấn công vào phía đông bắc làng Thượng Cầm. Sau đó pháo của chúng phá
được một đoạn lũy đất và hàng rào tre rồi bắc thang tre qua mặt hào tiến vào. Nghĩa quân chống cự ác
liệt, cả hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nghĩa quân phải rút về phía tây nam, lợi dụng địa hình nhiều gò, bãi
trống, bãi lầy, cầm cự với giặc, đến đêm tối mới rút ra khỏi căn cứ.
Sáng hôm sau, bọn giặc triệt hạ làng Thượng Cầm, rồi kéo về làng Cổ Ninh, quê Giám Thố đốt phá.

Bị mất căn cứ, Giám Thố đưa quân phối hợp với nghĩa quân Đốc Đen, Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan đánh
một số trận và bổ sung lực lượng. Đến năm 1884, nghĩa quân Giám Thố đã độc lập tác chiến đánh một số
trận lớn.
Ngày 21 tháng 3 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh thành lập tỉnh Thái Bình thiết lập bộ
máy cai trị đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Các lực lượng nghĩa quân ở đồng bằng Bắc Kỳ đều bị tan rã.
Năm 1903, ông bị bệnh phù, gia đình phải đón về chăm sóc thuốc men. Từ đó ông bị chúng quản thúc.
Năm 1905, 1906, ông tham gia Duy Tân Hội và phong trào Đông Du. Năm 1907, ông tham gia thành lập
các phân hiệu Đông Kinh Nghĩa Thục ở Thái Bình.
Ngày 9 tháng 5 năm Quý Sửu (1913) Nguyễn Năng Thố bị bệnh mất, thọ 54 tuổi1.

1

. Theo Danh nhân Thái Bình.


Sư Năm Thượng

Sư Năm Thượng chưa rõ tên thật, quê quán chỉ biết ông tu ở chùa làng Lộ Vi (tức Lộ Xá, nay
thuộc xã Thăng Long, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Từ năm 1882, khi giặc Pháp đánh Hà Nội lần
thứ hai rồi mở rộng chiến tranh xâm lược ra các tỉnh Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình thì nhà
sư đã tới các chùa ở Nam Định và Hưng Yên1 vận động tăng ni, phật tử chống Pháp.
Sư Năm Thượng hiểu rõ nghĩa quân muốn đánh thắng giặc thì ngoài vũ khí phải có lương thực. Vì vậy
từ vụ mùa năm 1882, nhà sư đã vận động phật tử khai hoang mở rộng diện tích canh tác vốn có của chùa.
Làng Lộ Vi nhỏ, nên số người giúp nhà chùa mở rộng diện tích không nhiều. Sư Năm Thượng đem vốn
liếng của mình thuê người làm. Vì vậy mỗi năm diện tích cấy lúa một tăng, thóc thu được nhiều hơn
những năm trước. Đến vụ gặt nhà sư chỉ dành một ít thóc giúp những người hoàn cảnh khó khăn, cơ nhỡ,
số còn lại đóng vào các bịch, lẫm.
Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị hạ chiếu Cần Vương, sư Năm Thượng đã cùng sư
chùa Thuyền Quan (huyện Thuỵ Anh), sư Neo ở huyện Thanh Miện (Hải Dương) chiêu mộ nghĩa quân
theo Tạ Hiện đánh Pháp. Nhà sư đã đem ba chồng bịch thóc, trên 1.000 phương 1 thóc to bí mật ủng hộ

nghĩa quân. Nhưng nhà sư nguỵ trang những cót thóc trong chùa vẫn nguyên vẹn.
Năm 1889, nghĩa quân Thái Bình tiến đánh Phủ Bo (nay là thị xã Thái Bình), sư Năm Thượng tiếp tục
ủng hộ lương thực và chỉ huy một cánh quân tấn công Phủ Bo.
Sau trận đánh Phủ Bo, sư Năm Thượng bỏ chùa đi theo nghĩa quân. Dân làng ra chùa kiểm soát
thấy ba cót thóc vẫn đầy không vơi. Vào một ngày nắng, dân đổ thóc ra phơi thì chỉ có lớp thóc bên
trên, bên dưới toàn là trấu. Dân không oán trách gì sư, vì sư đem thóc đó cho nghĩa quân đánh Tây.
Nay ở Thái Bình còn lưu truyền bài: "Vè sư Năm Thượng" mang thóc ủng hộ nghĩa quân chống Pháp
Kể từ ất Dậu2 mới rồi
Nhà sư Năm Thượng là người đảm đang
Xin tu chùa của hai làng
Rèm3 và Lộ Xá bên đường cái quan
Ruộng chùa chăm bón giỏi giang
Ba chồng cót thóc một ngàn phương to
Cụ đem ngầm giúp Phủ Bo1
Bỏ chùa rồi cụ đi xa không về
Dân lên kiểm soát mọi bề
Ba cây thóc đẫy, chẳng hề có vơi.
Nhân khi nắng ráo đẹp trời,
Dân làng đem thóc ra phơi kịp liền
Vừa vào xúc hết lượt trên,
ở dưới toàn trấu vít liền ba cây
Thế là thóc đã lên mây,
Thóc đem ăn để đánh Tây mất rồi.
Biết vậy dân chúng đều thôi,
Lạy Phật, lạy giời phù hộ nghĩa quân".
1

. Khi đó chưa thành lập tỉnh Thái Bình.

1


. Phương là một cái thùng to hình vuông, đổ thóc vào gạt mặt, phương to 12kg, phương nhỏ 10kg.

2

. Năm 1885.

3

. Làng Rèm nay thuộc xã Hồng Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

1

. Năm 1889 nghĩa quân tiến đánh Phủ Bo.


Sư Thuyền Quan

Tháng 7 năm 1885, Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn
nghĩa quân tấn công quân Pháp đóng ở đồn Mang Cá, toà Khâm sứ Pháp, khu nhượng địa Pháp ở kinh
thành Huế. Cuộc tấn công không thành, tảng sáng quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết và các tướng
hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, tại đây nhà vua hạ chiếu Cần Vương.
Sĩ phu, nhân dân các tỉnh Trung Kỳ nhiệt liệt hưởng ứng chiếu Cần Vương. Tại Thái Bình 1 các ông Tạ
Hiện, Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Thu, Bang Tốn, Phạm Huy Quang... cũng nhiệt liệt hưởng ứng.
Hưởng ứng phong trào chống Pháp, nhiều nhà sư ở Thái Bình cởi áo cà sa, khoác chiến bào gia nhập
nghĩa quân giết giặc. Trong số nhà sư đó có sư Sồ tu ở chùa Thuyền Quan, nay thuộc xã Thái Hà, huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đã dùng chùa làm đại bản doanh dựng cờ khởi nghĩa, nên còn gọi là sư Thuyền
Quan. Nhà sư đem thóc gạo của chùa ra nuôi quân. Trai tráng các huyện Thuỵ Anh, Thái Ninh... gia nhập
nghĩa quân rất đông, họ tự sắm vũ khí. Nhân dân nô nức đem thóc gạo, lợn gà, tiền bạc đến khao quân. Sư
Sồ vốn là người có võ nghệ trong nghĩa quân từng theo việc binh, nên công tác huấn luyện quân sĩ rất có

bài bản. Nghĩa quân của sư Sồ trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ như gươm, giáo, kiếm, đoản đao, mã tấu;
mặc dù vũ khí thô sơ, nhưng có tinh thần chiến đấu và tinh thần kỷ luật rất cao. Thanh thế của nghĩa quân
sư Thuyền Quan rất lớn, bọn quan lại làm tay sai cho Pháp không dám đem lính đến đàn áp.
Cuối năm 1885, quân Pháp từ hai phía Nam Định và Hưng Yên có tàu chiến, pháo hạm tiến đánh Thái
Bình. Các ông Nguyễn Hữu Cương ở Động Trung, Giám Thố ở Cổ Ninh, Lãnh Hoan ở Thọ Vực tiến về
Kiến Xương, Tiên Hưng phối hợp với lực lượng của sư Sồ ở Thuỵ Anh đưa quân tới tấn công quân Pháp
quyết liệt ở làng Tống Vũ (nay là xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), ở Cầu Kìm, Chợ Đác (nay
là xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương). Nghĩa quân đã gây cho giặc tổn thất nặng nề. Được tin thất bại, quân
Pháp ở Hà Nội phải vội vàng điều động một đạo quân do một tên trung tá chỉ huy xuống tiếp viện1.
Đội quân do sư Sồ chỉ huy còn độc lập tác chiến hoặc phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác
đánh nhiều trận lớn. ở tỉnh Thái Bình nay còn lưu truyền bài:
Vè sư Thuyền Quan
Nam vô đại tướng Thuyền Quan
Mũ ni, tích trượng, phướn, phan thay cờ1
Bình Tây kiến lập vệ cơ2
Nghĩa quân khắp chốn đi về sớm hôm
Chùa làm kho súng bên đồn
Lãng Sa3 bạt vía kinh hồn Thuyền Quan
Nam vô đại thế át Nan4
Hộ trì đại tướng Thuyền Quan công thành.

1

. Năm 1885, tỉnh Thái Bình còn là đất của hai tỉnh Nam Định và Hưng Yên. Ngày 21-3-1890, tỉnh Thái Bình mới thành lập
theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương của Nam Định, huyện Thần Khê của tỉnh
Hưng Yên. Năm 1894 cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc tỉnh Hưng Yên vào tỉnh Thái Bình lấy sông Luộc làm ranh
giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên.
1

. Kỳ Đồng tiểu sử và thơ văn, Sở Văn hoá - Thông tin Thái Bình, 1983, trang 24, 25.


1

. Đồ tế của nhà chùa dùng cúng Phật.

2

. Những đơn vị quân đội thời cận đại.

3

. Lãng Sa: giặc Pháp.

4

. át Nan: người ấn Độ theo Phật Thích ca từ khởi đầu, gọi là át Nan đà.


khởi nghĩa ở bắc ninh - bắc giang - lạng sơn

tán

bắc kỳ Ngô Quang Huy

quân

vụ

Ngô Quang Huy biệt hiệu là Quang Hiên, sinh năm 1835 ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện
Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên). Theo

gia phả họ Ngô Quang ở An Lạc thì Thuỷ tổ là Ngô Linh Công, có công phù Lê diệt Mạc được phong
Công thần Duyên thọ hầu. Từ đó con cháu có nhiều người đỗ đại khoa làm quan trong triều. Cha ông là
Ngô Quang Tộc, đỗ cử nhân khoa Kỷ Mão, là tri phủ Lý Nhân (nay thuộc tỉnh Hà Nam), sắc phong An
lĩnh tử1.
Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một vùng, đương thời có câu: "Thần Siêu,
Thánh Quát, trẻ Quang Huy". Năm 17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại
trường thi Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1883, Triều đình Huế ký hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật đang giữ chức
Tổng đốc Hải - Yên cùng một số quan lại phe chủ chiến như Ông ích Khiêm, Nguyễn Quang Bích,
Nguyễn Huy Quang, Nguyễn Cao... chống lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông
Triều, chiêu mộ quân đánh Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức đều bỏ quan
chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.
Đầu năm 1884, Ngô Quang Huy cùng Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Văn Hòe, Dương
Khải thành lập Tam tỉnh nghĩa quân 1, còn gọi là Đại nghĩa đoàn. Ngô Quang Huy được bầu làm Hội
trưởng. Nghĩa quân có 5.000 người. Tam tỉnh nghĩa quân có nhiều tướng giỏi như Đội Văn (Vương Văn
Vang). Nghĩa quân Tam tỉnh đánh quân Pháp nhiều trận như trận ở làng Ngọc Trì, huyện Lang Tài, tỉnh
Bắc Ninh. Nghĩa quân lập đồn trại ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) uy hiếp khu vực sông Cà Lồ (Phúc
Yên), xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc,
Trung Đồng khống chế vùng ngã ba Phượng Nhỡn nơi hợp lưu của các sông Lục Nam - sông Thương sông Cầu.
Cuối năm 1884, quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân
Pháp truy kích, nghĩa quân phải phân tán chờ thời cơ. Ngô Quang Huy trở về An Lạc giữ đầu mối liên lạc
với Đại nghĩa đoàn ở các phủ huyện. Nguyễn Thiện Thuật cùng Hoàng Kế Viêm, Lã Xuân Oai, Nguyễn
Quang Huy phối hợp với quân Cờ Đen đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương1, Lạng Sơn. Tạ Hiện về chiêu
mộ quân chiến đấu ở phủ Thái Bình tỉnh Nam Định, Nguyễn Cao về Kim Giang, huyện ứng Hòa, tỉnh Hà
Đông xây dựng cơ sở mới.
Đêm mồng 4 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy phần nghĩa quân tấn công
quân Pháp ở kinh thành Huế, việc không thành, liền rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị. Ngày
11 tháng 7 năm 1885, trước khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương hai ngày, vua ra dụ phục hồi và thăng
chức cho một số quan lại kháng chiến ở Bắc Kỳ. Dụ này được Bắc Kỳ quân thứ phụng sao, Ngô Quang

Huy lấy tư cách là Hội trưởng nghĩa quân Tam tỉnh sao thành nhiều bản gửi cho các hạt đều rõ.
Mở đầu Dụ viết:
"Hoàng đế dụ rằng:
1

. Theo gia phả họ Ngô Quang thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên do cụ giáo Ngô Quang Vi cung

cấp.
1

. Gồm: Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên.

1

. Phủ Lạng Thương là tên gọi thị xã Bắc Giang thời Lê, Nguyễn.


Nhân vì phía Pháp hoành hành, bức bách quá đỗi. Kinh thành phải dời đi nơi khác. Lòng mong mỏi
Cần Vương hầu như khắp nước đều sẵn sàng hưởng ứng… song đúng lúc quốc gia hữu sự, việc dùng
người tài tất phải có sự đặc cách đề bạt mới mong chọn được người mẫn cán để hoàn thành sự nghiệp
chung.
… Nguyên Bố chánh Vũ Giốc, Đốc học Ngô Quang Huy nay đều thăng thụ Hồng Lô tự khanh sung
Tán lý1.
… Tất cả những người trên đều được tùy nghi tập hợp thân hào, binh dũng lựa thời cơ mà đánh dẹp
rồi báo về cho Hoàng Tá Viêm biết để tiện việc điều động.
… Khâm thử (Ngự tiền chi bảo)2
Ngày 3 tháng 6 năm âm lịch, Hàm Nghi thứ nhất3.
Nhận được Dụ của vua, Ngô Quang Huy đang tập hợp các nghĩa sĩ trong "Tam tỉnh nghĩa quân"
hưởng ứng chiếu Cần Vương. Công việc đang tiến hành khẩn trương thì ông nhận được lời mời của Tán
tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật mời ông đến chùa Dâu bàn việc ứng nghĩa Cần Vương.

Ngô Quang Huy nhận được tin, rất đỗi vui mừng liền đến ngay điểm hẹn. Tới nơi ấy đã thấy cử nhân
Nguyễn Hữu Đức người xã Mễ Xá, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên nay là xã Hồ Tùng Mậu, Ân Thi tham
gia cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy được phong Tán tương quân vụ đã có mặt ở đó.
Nguyễn Thiện Thuật thông báo cho hai bạn chiến đấu là ông được vua Hàm Nghi phong chức Bắc Kỳ
Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân, có nhiệm vụ thống nhất các lực lượng kháng
chiến ở châu thổ sông Hồng và vùng ven biển Bắc Kỳ, đồng thời trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi
Sậy thay cho Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế bị ốm nặng đang phải nằm dưỡng bệnh.
Ngừng lại một lát, Nguyễn Thiện Thuật nói tiếp:
- Việc tuy lớn và khó, nhưng chúng ta có thuận lợi là tướng lĩnh và nghĩa quân Bãi Sậy vẫn quyết tâm
tiếp tục chiến đấu bảo vệ căn cứ. Ta còn có lực lượng của Tam tỉnh nghĩa quân, mà Bắc Ninh là nơi có
lực lượng mạnh, nay đang phân tán ở các địa phương chờ thời. Xin hai ông cho ý kiến.
Cử Đức nói:
- Sau trận Vạn Phúc, ông Lãnh Sậy bị giết, Đổng Quân vụ phải chạy lên bến đò Hồ, một tháng sau
mới trở về, thì bị ốm nặng, phải nằm dưỡng bệnh ở ấp Dương Trạch. Lợi dụng cuộc khởi nghĩa mất chủ
tướng, quân Pháp và Hoàng Cao Khải điều quân tới bao vây, liên tục đánh phá căn cứ. Song các ông
Chánh Tính, Đề Cọp vẫn cùng các tướng kiên cường đánh trả bảo vệ căn cứ. Song thế lực, đạn dược
ngày càng giảm sút, nếu không được củng cố về mọi mặt thì khó lòng giữ được căn cứ.
Cử Đức vừa dứt lời thì Đốc học Ngô Quang Huy1 trả lời:
- Về tình hình thực tại của Tam tỉnh nghĩa quân sau trận ta đại thắng ở Ngọc Trì tháng 7 (năm 1884)
thì theo Hiệp ước Pháp - Thanh, quân Thanh và quân Cờ Đen rút về nước. Quân ta ở vào thế bất lợi tại
căn cứ Đình Bảng phải phân tán để bảo tồn lực lượng. Các vị chỉ huy cũ mỗi người một nơi: Nguyễn Cao
về làng Kim Giang, huyện Sơn Lãng (nay là huyện ứng Hòa, Hà Nội) lấy cớ mở trường dạy học để gây
dựng cơ sở mới. Cử nhân Hoàng Văn Hòe được quan phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết điều về triều
đình lãnh chức Sử quán biên tu để tăng cường cho lực lượng kháng chiến, Đề đốc Tạ Hiện sau trận Ngọc
Trì đã cùng quan bác (chỉ Nguyễn Thiện Thuật) tham gia đánh trận ở cầu Quan Âm rồi trở về chỉ huy
nghĩa quân ở phủ Hòa Bình (tỉnh Nam Định) đánh Pháp…
Nguyễn Thiện Thuật hỏi:
- Đội Văn, Đốc Sung còn duy trì được lực lượng vũ trang không?
Ngô Quang Huy trả lời:
- Đội Văn vẫn duy trì được gần 200 quân, hoạt động ở vùng Thuận Thành, Lang Tài, thường tập kích

vào các đồn binh Pháp, phục kích các toán quân tuần tiễu của giặc. Cũng có những trận phối hợp với Đốc
Tít ở Trại Sơn, Lưu Kỳ ở Lục Ngạn đánh những trận lớn. Đốc Sung về chiến đấu dưới sự chỉ huy của Tuần
Văn ở Xuân Quan, huyện Văn Giang, sau đó gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy…
Sau khi nghe cộng sự tin cậy của mình trình bày, Nguyễn Thiện Thuật nói:
1

. Sau đó ít lâu Ngô Quang Huy được vua Hàm Nghi cử giữ chức Tuần phủ Hưng Yên.

2

. Dấu của nhà vua.

3

. Đối chiếu với dương lịch là ngày 11-7-1885.

1

. Khi đó Ngô Quang Huy đã được vua Hàm Nghi thăng thụ Hồng Lô tự khanh sung Tán lý theo dụ ngày 3 tháng 6 âm
lịch, Hàm Nghi thứ nhất (11-7-1885).


×