Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

LIÊN kết TRONG mô HÌNH NHÓM CÔNG TY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.41 KB, 10 trang )

LIÊN KẾT TRONG MÔ HÌNH NHÓM
CÔNG TY
Liên kết hình thành nhóm công ty là xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Các yếu tố như nhu cầu phân tán rủi ro, nhu cầu tích tụ và tập trung vốn, sự phân công lao động
xã hội, sự tác động mạnh mẽ của các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu của nền kinh tế đã
thúc đẩy nhanh chóng sự liên kế hình thành nhóm công ty.

I. Một số khái niệm cơ bản
1. Nhóm công ty
Chương VIII – Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về mô hình nhóm công ty. Tuy
nhiên, không có điều luật nào định nghĩa nhóm công ty là gì? Tuy nhiên, dựa theo tinh thần
Điều 146 Luật Doanh nghiệp năm 2005, ta có thể đưa ra khái niệm: “Nhóm công ty là tập hợp các
công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các
dịch vụ kinh doanh khác”.
Hiện nay, nhóm công ty ở Việt Nam theo LDN năm 2014 chủ yếu tồn tại dưới dạng tập đoàn
kinh tế, tổng công ty (Điều 188 LDN2014); công ty mẹ, công ty con (Điều 189 LDN2014). Nhóm
công ty không phải một thực thể pháp lý độc lập, không có tư cách pháp nhân, không có tài sản


riêng mà chỉ là hình thức liên kết giữa các công ty có tư cách pháp lý độc lập. Như vậy, có thể
thấy mọi hoạt động trong nhóm công ty không vì lợi ích của nhóm mà nhằm hướng đến lợi ích
của các công ty trong nhóm công ty.

Sự hình thành nhóm công ty có thể bằng hai con đường chính
đó là: công ty mở rộng chi nhánh, góp vốn, thành lập các công ty
khác, dần dần phát triển mạnh và gắn bó với nhau tạo thành
nhóm công ty; hoặc thông qua con đường thôn tính vá sáp nhập,
các đối thủ cạnh tranh có thể thôn tính, sáp nhập lẫn nhau hoặc
thỏa hiệp với nhau tạo thành nhóm.
2. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Khái niệm Tập đoàn kinh tế, tổng công ty được định nghĩa tại Điều 188 LDN2014, theo đó:


“1. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm công ty
có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác. Tập đoàn
kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân,
không phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật này.
2. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty có công ty mẹ, công ty con và các công ty thành viên.
Công ty mẹ, công ty con và mỗi công ty thành viên trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty có
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp độc lập theo quy định của pháp luật.”
Quy định này về cơ bản chỉ nêu ra được các đặc điểm cơ bản của TĐKT, TCT nhưng chưa
làm rõ được những đặc thù của mô hình này. Theo đó, tTĐKT, TCT là tổ hợp hình thành trên cơ sở
liên kết về tài chính, công nghệ, thị trường, nghiên cứu phát triển,… nhằm tăng cường tích tụ, tập
trung vốn và tăng khả năng cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận. Bản thân các doanh nghiệp trong tổ
hợp đó độc lập và có tư cách pháp nhân, không sinh ra nhau mà liên kết lớn mạnh. Các TĐKT, TCT
đều kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, vừa có chức năng sản xuất, vừa có chức năng tài chính.
Hiện nay ở nước ta, các TĐKT, TCT thường đa sở hữu về vốn và chủ yếu ở sở hữu nhà nước. Trong
TĐKT, TCT có một doanh nghiệp hạt nhân (công ty mẹ) nắm giữ hoạt động chính và các doanh
nghiệp khác trong tập đoàn. Mô hình TĐKT, TCT có thể có yếu tố liên kết vốn như công ty mẹ –
công ty con nhưng không hoàn toàn giống mô hình này.

3. Công ty mẹ - công ty con
Theo Điều 189 LDN năm 2014 định nghĩa:
“1. Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ
thông của công ty đó;


b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm đa
số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc của công ty đó;
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công

ty đó”.
Có thể thấy, mô hình công ty mẹ – công ty con là một tập hợp các công ty, mỗi công ty là một
pháp nhân độc lập, có tài sản riêng, có bộ máy điều hành quản lý riêng và tự chịu trách nhiệm về các
khoản nợ cũng như các nghĩa vụ tài sản của mình. Bên cạnh đó, quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con
được thiết lập trên cơ sở sở hữu vốn. Theo đó, công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc đầu tư phần vốn góp chi
phối vào công ty con. Tùy theo pháp luật của mỗi nước và điều lệ của từng công ty quy định mà mức chi
phối được thể hiện ở tỷ lệ vốn góp. Thông thường, công ty mẹ chiếm từ 50% trở lên vốn góp của công ty
con. Tuy nhiên, có trường hợp vẫn được coi là công ty mẹ mặc dù vốn góp dưới 50% tùy thuộc vào điều lệ
công ty. Công ty mẹ cũng nắm giữ quyền chi phối, kiểm soát công ty con. Việc kiểm soát, chi phối của công
ty mẹ thể hiện ở việc tác động tới các quyết định quan trọng của công ty con thông qua người đại diện
phần vốn góp hay người trực tiếp quản lý phần vốn của công ty mẹ tại công ty con (các thành viên Hội
đồng quản trị). Mỗi công ty mẹ có thể có nhiều công ty con nhưng mỗi công ty con chỉ có một công ty mẹ;
các công ty con có thể tiếp tục đầu tư vào các công ty con khác. Ngoài ra, công ty mẹ không bị ràng buộc
hay phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các nghĩa vụ tài sản của công ty con.
II.

Sự liên kết trong mô hình nhóm công ty
Sự liên kết trong nhóm công ty rất đa dạng, thể hiện ở đặc điểm của từng loại hình nhóm
công ty và từng quan hệ giữa các công ty trong nhóm công ty. Có ba hình thức liên kết chính đó
là: liên kết theo chiều ngang, liên kết theo chiều dọc và liên kết hỗn hợp đa ngành, đa lĩnh vực.
Liên kết theo chiều ngang: diễn ra giữa các công ty hoạt động trong cùng một ngành bằng
việc tham gia cổ phần góp vốn lẫn nhau hoặc các thỏa thuận nhằm phân chia thị trường, kiêm
soát sự gia nhập nhóm của các công ty bên ngoài.  Các công ty liên kết theo chiều ngang có các
sản phẩm, dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ thống phân phối để gia tăng
hiệu quả (Ví dụ như sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo với doanh nghiệp sản xuất
đường). Ưu điểm của hình thức liên kết theo chiều ngang là tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm,
dịch vụ, tận dụng hệ thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Tuy nhiên, hình thức
này có nhược điểm làthiếu sự chủ động ở một số khâu như cung ứng nguyên liệu, sản xuất, bảo
quản, vận chuyển,… 



Liên kết theo chiều dọc: diễn ra giữa các công ty trong cùng một dây chuyền công nghệ,
trong đó, các công ty cùng nhau hợp tác để hình thành một sản phẩm, một mục tiêu chung nào
đó. Đây là mô hình liên kết các công ty hoạt động trong cùng một chuỗi giá trị ngành (Ví dụ như
sự liên kết giữa doanh nghiệp may mặc với doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu). Liên kết theo
chiều dọc có thể là tích hợp ngược (backward integration) – hướng về bên trái chuỗi giá trị, (ví dụ,
công ty sản xuất mua lại hoặc đầu tư vốn vào các công ty cung ứng nguyên liệu cho mình) hoặc
tích hợp xuôi (forward integration) – hướng về bên phải chuỗi giá trị, (ví dụ, công ty sản xuất mua
lại hoặc đầu tư vốn vào một công ty thương mại/tiếp thị/vận tải để tiêu thụ sản phẩm do mình
sản xuất) hoặc cả hai. Hình thức này có ưu điểm là  đem lại nhiều lợi thế về chi phí, về sự chủ
động nguồn nguyên liệu, chủ động trong việc sản xuất và đưa hàng ra thị trường, khả năng kiểm
soát các dịch vụ,… tuy nhiên hình thức liên kết dọc cũng có khó khăn là sẽ bị phân tán nguồn lực,
khó tập trung vào hoạt động chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị.

Liên kết hỗn hợp đa ngành, đa lĩnh vực: là loại liên kết
các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành, nghề và lĩnh vực
có mối quan hệ và không có mối quan hệ về công nghệ, quy trình
sản xuất,… nhưng có mối quan hệ chặt chẽ về tài chính. Công ty
mẹ không nhất thiết phải trực tiếp sản xuất kinh doanh một sản
phẩm cụ thể mà chủ yếu làm nhiệm vụ đầu tư, kinh doanh vốn;
điều tiết, phối hợp kinh doanh giữa các lĩnh vực. Các công ty con
bằng kế hoạch, chiến lược phát triển kinh doanh thống nhất, thực
hiện điều hoà vốn, lợi nhuận giữa các công ty con, lĩnh vực kinh
doanh hoặc điều chỉnh, chuyển dịch vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh
doanh có hiệu quả cao,…
1. Sự liên kết trong mô hình tập đoàn kinh tế, tổng công ty
TĐKT, TCT không phải một doanh nghiệp, không có tư cách
pháp nhân và không phải đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp. Do đó, các mệnh lệnh hành chính
không được sử dụng trong điều hành các TĐKT, TCT. Các doanh

nghiệp là thành viên của TĐKT, TCT phải có tư cách pháp nhân
độc lập, có cơ quan quyền lực cao nhất (Hội đồng thành viên hay
Đại hội cổ đông). Chủ tịch Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị
các công ty trong TĐKT, TCT tập hợp lại thành Hội đồng Chủ tịch
tập đoàn, TCT dựa trên thỏa thuận giữa các thành viên của tập
đoàn, TCT. Hội đồng Chủ tịch bầu ra Chủ tịch tập đoàn, TCT. Hội
đồng Chủ tịch không thực hiện chức năng điều hành cụ thể đối với


quá trình sản xuất, kinh doanh và tổ chức của các công ty thành
viên, do đó, không có chức danh Tổng giám đốc tập đoàn, TCT.
TĐKT, TCT được chia thành TĐKT, TCT nhà nước và TĐKT, TCT
tư nhân, mỗi loại hình lại có những đặc điểm khác nhau.
TĐKT, TCT nhà nước bao gồm công ty mẹ (doanh nghiệp
cấp I), công ty con của công ty mẹ (doanh nghiệp cấp II), công ty
con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo, trong đó:
- Công ty mẹ là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ và nằm dưới sự chi phối của Chính phủ.
- Các doanh nghiệp cấp hai sẽ do công ty mẹ chi phối, doanh
nghiệp cấp hai có thể được tổ chức dưới các hình thức: công ty cổ
phần, công ty TNHH, TCT theo hình thức công ty mẹ – công ty con,
công ty liên doanh, công ty con ở nước ngoài.
Các doanh nghiệp liên kết của TĐKT, TCT nhà nước gồm:
doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của công ty mẹ và
của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ
và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức
hợp đồng, liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết nhưng có mối
quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và
các dịch vụ kinh doanh khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp
thành viên trong tập đoàn, TCT.

Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên TĐKT, TCT nhà
nước có tư cách pháp nhân; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản, phần vốn của mình theo quy định của pháp luật và
theo thỏa thuận chung của tập đoàn, TCT. Nhà nước là chủ sở hữu
vốn nhà nước trực tiếp đầu tư vào công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ
sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, các doanh nghiệp liên
kết.
TĐKT, TCT tư nhân là những TĐKT, TCT thỏa mãn các điều kiện về quy mô và cách thức
liên kết như: Bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập và có quy mô lớn; Hình
thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc
các hình thức liên kết khác; Gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và
các dịch vụ kinh doanh khác; Được tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở
lên dưới hình thức công ty mẹ – công ty con.
2. Sự liên kết trong mô hình công ty mẹ - công ty con


Đối với mô hình công ty mẹ công ty con, sự liên kết chỉ bắt đầu khi hội tụ được các điều
kiện.
Thứ nhất, công ty mẹ bỏ vốn vào công ty con (mô hình công ty mẹ – công ty con hình thành
khi một công ty thực hiện đầu tư, góp vốn – trên 50% vốn điều lệ – vào một công ty khác). Thông
thường, nếu số vốn đầu tư vào công ty khác không đạt mức quá bán, công ty nhận vốn sẽ không
trở thành công ty con mà chỉ là công ty liên kết với công ty góp vốn.
Thứ hai, công ty mẹ đã phải được quản trị theo khoa học; nghĩa là nó đã có một nền nếp
được ghi vào một hệ thống văn bản; việc quản trị dựa trên sự kiểm soát cách thực hiện các quy
trình chứ không phải dựa trên niềm tin vào những người nhất định.
Khi đã ở trong quan hệ mẹ – con, công ty mẹ chi phối đối với các quyết định liên quan đến
hoạt động của công ty con thông qua một số hình thức như quyền bỏ phiếu chi phối đối với các
quyết định của công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo hoặc
quyền tham gia quản lý, điều hành. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng vị trí công ty mẹ và công ty con chỉ
trong mối quan hệ giữa hai công ty với nhau và mang tính chất tương đối, tức công ty con này có

thể là công ty mẹ của một công ty khác. Tính tương đối này càng nổi bật hơn trong trường hợp
các công ty trong một nhóm có nắm giữ vốn cổ phần qua lại của nhau.
Vì công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc lập nên công ty mẹ chỉ chịu trách
nhiệm với phần vốn mà mình góp. Tuy nhiên, do mối quan hệ có tính chất chi phối các quyết định
của công ty con, nên pháp luật bắt buộc công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về những ảnh
hưởng của công ty mẹ đối với công ty con. Pháp luật nước ta quy định về quyền và trách nhiệm
của công ty mẹ đối với công ty con tại Điều 190 LDN2014:

“1. Tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty
mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành
viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con theo
quy định tương ứng của Luật này và quy định khác của pháp luật
có liên quan.
2. Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và
công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình
đẳng theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý độc lập.
3. Trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài thẩm quyền của
chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông và buộc công ty con phải
thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình
thường hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù


hợp lý trong năm tài chính có liên quan, gây thiệt hại cho công ty
con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó.
4. Người quản lý của công ty mẹ chịu trách nhiệm về việc can
thiệp buộc công ty con thực hiện hoạt động kinh doanh quy định
tại khoản 3 Điều này phải liên đới cùng công ty mẹ chịu trách
nhiệm về các thiệt hại đó.
5. Trường hợp công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo
quy định tại khoản 3 Điều này thì chủ nợ hoặc thành viên, cổ

đông có sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền
nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty con đòi công ty
mẹ đền bù thiệt hại cho công ty con.
6. Trường hợp hoạt động kinh doanh như quy định tại khoản 3
Điều này do công ty con thực hiện đem lại lợi ích cho công ty con
khác của cùng một công ty mẹ thì công ty con được hưởng lợi đó
phải liên đới cùng công ty mẹ hoàn trả khoản lợi được hưởng đó
cho công ty con bị thiệt hại.”
Theo khoản 1 có thể hiểu tùy vào hình thức công ty con mà
công ty mẹ sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo những
cách khác nhau. Nếu công ty con là công ty TNHH thì công ty mẹ
sẽ giữ vai trò như một thành viên góp vốn trong công ty TNHH;
nếu công ty con là công ty cổ phần thì công ty mẹ sẽ thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là cổ đông trong công
ty…
Công ty mẹ và công ty con bình đẳng trong quan hệ kinh tế
do đều là các pháp nhân độc lập. Mọi giao dịch, hợp đồng hay
quan hệ phát sinh giữa công ty mẹ và công ty con đều phải thực
hiện theo trình tự thủ tục, công ty mẹ không ó quyền áp đặt hay
ra nhửng chỉ thị, mệnh lệnh mang tính hành chính đối với công ty
con.
Mức độ kiểm soát của công ty mẹ đối với công ty con nhiều
hay ít tùy thuộc vào số vồn mà công ty mẹ góp vào công ty con
(thông thường là trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ
thông), ngoài ra mức độ kiểm soát còn dựa trên quyền biểu quyết
trong Hội đồng quản trị. Công ty mẹ có thể cử một vài người làm
đại diện, thay mặt công ty mẹ làm cổ đông để họ được bầu vào
hội đồng quản trị và chiếm đa số phiếu biểu quyết ở đó.



Thêm vào đó, công ty con phải chịu trách nhiêm vô hạn cho
chính những hoạt động của mình mà không thể cầu cứu công ty
mẹ khi đứng trước người khác hay tòa án; vì vậy các quyết định
phải do nội bộ công ty con đưa ra chứ không phải do sự áp đặt từ
phía công ty mẹ.
Ngoài ra, công ty mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho công ty con trong trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài
thẩm quyền của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông, và buộc
công ty con phải thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ
kinh doanh bình thường hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi
mà không đền bù hợp lý trong năm tài chính có liên quan (khoản
3 Điều 190), một vài trường hợp người quản lý của công ty mẹ
cũng phải liên đới cùng công ty mẹ chịu trách nhiệm về các thiệt
hại do việc can thiệp vào hoạt động kinh doanh của công ty con
gây ra (khoản 4 Điều 190).
Nếu công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo đúng với
quy định của pháp luật thì chủ nợ hoặc các thành viên, cổ đông sở
hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền đòi công ty
mẹ đền bù thiệt hại (khoản 5, Điều 190).
Đối với trường hợp hoạt động kinh doanh của công ty con
đem lại lợi ích cho công ty con khác của cùng một công ty mẹ thì
công ty con được hưởng lợi có nghĩa vụ liên đới với công ty mẹ,
hoàn trả khoản lợi được hưởng cho công ty con bị thiệt hại (khoản
6, Điều 190).
III. Thực trạng mô hình liên kết nhóm công ty hiện nay
1. Mô hình tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Hiện nay ở nước ta, có 10 TĐKT Nhà nước: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT),
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập
đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) , Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
(Vinacomin), Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt), Tập đoàn Dệt May Việt Nam

(Vinatex), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt
Nam (Vinachem), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), và các TCT lớn như: Tổng công ty
Xây dựng Sông Đà, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty
Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Lương thực miền Nam, Tổng công ty Lương thực miền Bắc, Tổng
công ty Giấy Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Công nghiệp Xi măng
Việt Nam, Tổng công ty Cà phê Việt Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam,…


Các TĐKT, TCT tư nhân lớn có thể kể đến như: Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI, Vingroup,
FPT, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai,…
Trong thời gian qua, hoạt động của các TĐKT, TCT đã đạt được những kết quả nhất định,
ngày càng từng bước phát triển, nhất là những TĐKT, TCT tư nhân. Tuy nhiên, các TĐKT, TCT Nhà
nước, mặc dù là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô, tuy nhiên, do sự quản lý yếu kém, tình trạng
quan liêu và tham nhũng nên những tập đoàn, TCT này không những hoạt động kém hiệu quả mà
còn gây thất thoát, thiệt hại nặng nề đối với nền kinh tế đất nước như trường hợp của Tập đoàn
Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam – Vinashin (sau tái cơ cấu thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu
thủy – SBIC), Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines). Do vậy việc thay đổi, thắt chặt cơ chế
quản lý của Nhà nước đối với mô hình TĐKT, TCT Nhà nước là rất cấp bách.
2. Mô hình công ty mẹ - công ty con
Mô hình liên kết công ty mẹ – công ty con thể hiện nhiều ưu điểm cả về cơ cấu tổ chức và
cơ chế quản lý, đặc biệt là đối với những nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn như các tập
đoàn, TCT xuyên quốc gia và đa quốc gia.
Thứ nhất, theo mô hình này, khi một đơn vị kinh doanh chiến lược của một doanh nghiệp
phát triển đến mức yêu cầu phải có sự tự chủ trong hoạt động, thì các doanh nghiệp có xu hướng
tách đơn vị kinh doanh chiến lược này thành một thực thể pháp lý độc lập, và về mặt pháp
lý doanh nghiệp không chịu trách nhiệm liên quan đến hoạt động của thực thể đó. Việc chủ sở
hữu có trách nhiệm hữu hạn là điều kiện cần để xác lập một cơ chế quản lý phân cấp triệt để hơn
khi thực thể được tách ra còn là một bộ phận trực thuộc của công ty mẹ.
Thứ hai, với mối quan hệ theo mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ còn có thể
thực hiện được chiến lược chuyển giá, nhất là trong những trường hợp các doanh nghiệp lập cơ sở

kinh doanh ở nước ngoài.
Thứ ba, với mô hình này, các doanh nghiệp có thể thực hiện được sự liên kết với các
doanh nghiệp khác nhằm giảm cạnh tranh, tăng độc quyền của thiểu số, cùng phối hợp hay chia
sẻ các nguồn lực, tận dụng các thế mạnh của các cổ đông... bằng cách cùng nhau đầu tư lập các
công ty con.
Thứ tư, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép các doanh nghiệp chủ động hơn trong
việc bố trí và tái bố trí cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau theo chiến lược phát triển của
doanh nghiệp bằng việc mua hoặc bán cổ phần của mình trong các công ty con.
Cuối cùng, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép một doanh nghiệp huy động vốn để
mở rộng sản xuất kinh doanh bằng cách thành lập công ty con mới trong điều kiện vừa có thể


kiểm soát được doanh nghiệp mới thành lập một cách hữu hiệu thông qua cổ phần khống chế,
vừa không bị các nhà đầu tư chi phối đối với doanh nghiệp cũ.
Chính vì những ưu điểm nêu trên, hiện nay ở nhiều nước, mô hình công ty mẹ – công ty con
gần như là mô hình duy nhất được sử dụng để xác lập mối quan hệ giữa các công ty trong cùng
một nhóm, một tập đoàn.
KẾT LUẬN

Với ưu điểm vượt trội, mô hình liên kết nhóm công ty cần được mở rộng và phát triển mạnh
hơn ở nước ta trong thời gian tới. Đồng thời, Nhà nước cần siết chặt hơn các quy định pháp luật
điều chỉnh mô hình liên kết này để đảm bảo phát triển nền kinh tế mà không gây ra những thiệt
hại, hậu quả đáng tiếc.



×