Tải bản đầy đủ (.doc) (296 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TUYỂN tập TRUYỀN THỐNG LỊCH sử ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM NHỮNG mốc SON LỊCH sử CHÓI lọi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 296 trang )

TUYN TP TRUYN THNG NG CNG SN VIT NAM
NHNG MC SON LCH S CHểI LI
Phần thứ nhất
đảng cộng sản việt nam ra đời,
lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành chính quyền cách mạng
(1930-1945)
I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử
1. Tình hình cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Việt Nam là một trong những cái nôi sinh ra loài ngời, là nơi giao nhau của
nhiều đờng thông thơng thủy bộ, đầu mối gặp gỡ của nhiều nền văn minh.
Dân tộc Việt Nam có sức sống bền dai, mãnh liệt; có tinh thần bất khuất, kiên
cờng, giàu lòng tự hào và ý chí độc lập dân tộc. Trong lịch sử dân tộc, con
ngời Việt Nam đã sớm hình thành tinh thần đoàn kết chống thiên nhiên, chống
giặc ngoại xâm với biết bao trang sử hào hùng, khốc liệt để sinh tồn và phát
triển. Trong đời sống xã hội, dân tộc Việt Nam trọng đạo lý và nhân nghĩa, có
truyền thống tơng thân, tơng ái, khi gặp hoạn nạn thì cả nớc một lòng. Trải
mấy nghìn năm giữ nớc và dựng nớc, dân tộc Việt Nam tỏ rõ là một dân tộc
giàu tài năng, dũng cảm, thông minh và sáng tạo.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nớc đi đôi với giữ nớc, là lịch sử liên tục
đấu tranh để giữ gìn độc lập dân tộc, xây dựng đất nớc, xây dựng cuộc
sống. Hơn một ngàn năm trớc, Ngô Quyền với trận quyết chiến trên sông Bạch
Đằng đã giành độc lập cho dân tộc sau hơn mời thế kỷ đấu tranh chống Bắc
thuộc. Các triều đại phong kiến kế tiếp dù thăng trầm có khác nhau vẫn tiếp tục
khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập tự do. Đó là truyền thống cực kỳ quý
báu, là sức mạnh to lớn để dân tộc ta luôn đứng vững, vợt qua mọi hiểm nguy,
chiến thắng mọi kẻ thù.

Từ đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa t bản phơng Tây, trong đó có đế quốc
Pháp, đã nhòm ngó, xâm lợc nớc ta, mở đầu bằng việc khai thông buôn bán


và truyền giáo. Năm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lợc nớc ta. Vua quan
triều đình nhà Nguyễn từng bớc đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 năm
1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ớc Patơnốt, hoàn toàn dâng nớc
ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc
Pháp. Dới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội
Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền
hành đều nằm trong tay ngời Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò
1


bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân
tộc trên bán đảo Đông Dơng, rồi lập ra xứ Đông Dơng thuộc Pháp nhằm xoá
tên các nớc Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Chính vì thế mà
nớc An Nam, một nớc có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung
một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một
tiếng nói, đã bị chia năm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy,
ngời ta hy vọng làm nguội đợc tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng
ngời An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau.
Sau khi đẩy họ chống lại nhau, ngời ta lại ghép một cách giả tạo các thành
phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dơng"...
Về kinh tế: T bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nớc ta, mà chỉ mở
mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài
nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nớc Pháp. Chính
sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trờng của chính
quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt. Bên cạnh sự bóc lột
nhân công và cớp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn thực dân Pháp còn duy trì
chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức
thuế khoá rất nặng nề.
Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân

dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ cha đợc giải
quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và
phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách
mạng của nhân dân ta.
Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân
giai cấp địa chủ phong kiến cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm
tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền lợi của bản thân. Một bộ phận
không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xớng và lãnh đạo các phong trào
Văn thân, Cần vơng chống đế quốc Pháp xâm lợc, khôi phục triều đình
phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nông
dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nớc.
Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối t bản chủ nghĩa.
Giai cấp t sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của t bản Pháp và
phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các
cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp t sản mại bản.
Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với t bản Pháp và triều
đình phong kiến, nhng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh
hớng chính trị cải lơng. Do vậy, giai cấp t sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh
thần yêu nớc, chống phong kiến và đế quốc, nhng họ không có khả năng
lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều
kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu t sản là những ngời vốn đợc chế độ phong kiến
và thực dân đào tạo. Nhng do truyền thống yêu nớc chi phối, họ khao khát
độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay
sai. Số đông vẫn giữ đợc khí tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng
2


cứu nớc. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nớc thờng đóng vai trò truyền

bá những t tởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực
dân, phong kiến.
Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hăng hái chống đế
quốc và phong kiến. Sau phong trào Văn thân, Cần vơng, nhất là sau thất
bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán.
Nông dân là một lực lợng đông đảo, yêu nớc, nhng không thể tự vạch ra đờng lối đúng đắn để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo
cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào
cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp,
đồn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lợc và bình định nớc ta. Trớc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít,
chỉ 10 vạn ngời và trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần
thứ hai (1924-1929), số lợng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn ngời,
chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số ngời làm thuê trong các hãng kinh doanh t
nhân vừa, nhỏ và số ngời vô sản, nửa vô sản sống ở thành thị và nông thôn,
thì đội quân vô sản ở Việt Nam trớc năm 1930 có đến hàng triệu ngời.
Sinh trởng trong một nớc thuộc địa, nửa phong kiến, cũng nh nông dân
và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp
bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và t sản, phần lớn xuất thân từ nông
dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên
minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách
mạng.
Ra đời trớc giai cấp t sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa
công đoàn và chủ nghĩa cải lơng thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do
vậy, giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn trẻ, số lợng ít, trình độ văn hoá,
kỹ thuật còn thấp, nhng ở nớc ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lợng sản xuất
tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có năng lực cách mạng triệt
để và có tinh thần quốc tế vô sản.
Theo luận thuyết của C. Mác và Ph. Ăng ghen, điều kiện khách quan quy

định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đó là: giai cấp công nhân
là giai cấp gắn với lực lợng sản xuất tiên tiến nhất dới chủ nghĩa t bản. Và, với
tính cách nh vậy, nó là lực lợng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự
tiến bộ của lịch sử, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây
dựng một phơng thức sản xuất mới cao hơn phơng thức sản xuất t bản chủ
nghĩa. Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại,
đợc rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức
lại thành một lực lợng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp t sản áp bức, bóc lột nặng
nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp t sản, và xét về bản chất
họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột t bản
chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có
thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi
3


chế độ t bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài
xiềng xích.
Trong mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân, đảng
chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của
toàn thể giai cấp. Đảng Cộng sản, chẳng những đại biểu cho trí tuệ và lợi
ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao
động và dân tộc. Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên
định và sáng suốt, có đờng lối chiến lợc và sách lợc đúng đắn thể hiện lợi
ích của toàn giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của đảng, là nguồn bổ
sung lực lợng của đảng; đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mu
của giai cấp, là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ
của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân


mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của đảng cộng
sản
có thể không phải là công nhân nhng phải là ngời giác ngộ về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trờng của giai cấp này.
Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là
sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhng đảng có
trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc;

thế không thể lẫn lộn đảng với giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ
giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động
cách
mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân
dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đờng lối của
đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp công nhân
hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng nh mỗi ngời
công nhân cần thờng xuyên phấn đấu vơn lên, trởng thành về các mặt:
t tởng, chính trị, lập trờng giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay
nghề... Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, thờng xuyên phát triển vững
mạnh... cùng với quá trình phát triển không ngừng của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại.
ở Việt Nam, với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân
Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp trực tiếp đối kháng với t bản
thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nớc thuộc địa nửa phong kiến, dới sự
thống trị của đế quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa t bản thực lợi không quan
tâm mấy đến phát triển công nghiệp ở nớc thuộc địa, nên giai cấp công
nhân Việt Nam phát triển chậm. Mặc dù số lợng ít, trình độ nghề nghiệp
thấp, còn mang nhiều tàn d của tâm lý và tập quán nông dân, song giai
cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vơn lên đảm đơng vai trò lãnh
đạo cách mạng ở nớc ta do những điều kiện sau đây:

4


- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi
nhục mất nớc cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp t sản đế
quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động
cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp
công nhân đợc nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bớc trởng thành trong
không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nớc và các cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất
nớc ta: phong trào Cần Vơng và cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của
Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nớc của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v... đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh
thần yêu nớc, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của
toàn thể nhân dân ta. Nhng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và sự
nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đờng lối.
- Phong trào cộng sản và công nhân thế giới đang phát triển, Cuộc cách
mạng tháng Mời Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh hởng đến phong trào dân
tộc dân chủ ở các nớc khác, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong trào
cách mạng ở nớc ta. Trong thời điểm này, nhà yêu nớc Nguyễn ái Quốc trên
hành trình tìm đờng cứu nớc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm
thấy ở đấy bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó,
Ngời đã đề ra con đờng duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam con đờng cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tấm gơng cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nớc khác đã
cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng nớc ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân
ta lựa chọn, tiếp nhận con đờng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đi

theo con đờng cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp công
nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ
nông dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự
nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị mất nớc, sống nô lệ. Đây cũng
là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên khối liên minh
công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi bảo đảm cho sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nớc ta.
Lịch sử nớc ta từ khi đế quốc Pháp xâm lợc đến những năm hai mơi của
thế kỷ XX đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của
dân tộc ta chống đế quốc Pháp xâm lợc. Nhng cuối cùng đều không giành
đợc thắng lợi vì không có một đờng lối cứu nớc đúng đắn.
Trớc tình hình đó, nhiều ngời yêu nớc Việt Nam đã từng bớc ly khai con
đờng giải phóng dân tộc theo hệ t tởng phong kiến, hớng ra nớc ngoài nhằm
tìm đến những con đờng mới để mu sự nghiệp giải phóng dân tộc nh:
5


con đờng Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đờng Cách mạng t sản Pháp
(1789), con đờng Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)...
Vào đầu thế kỷ XX, nớc Nhật từ sau cuộc vận động Duy Tân đã trở
thành nớc đế quốc chủ nghĩa, đã đánh bại Nga Hoàng trong cuộc chiến
tranh Nga - Nhật (1905). Cách mạng 1905 ở Nga nổ ra nhng không thắng lợi.
Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã đánh đổ triều đình Mãn
Thanh, lập ra nớc Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hởng đến phong trào yêu nớc Việt Nam. ý thức hệ t sản phơng Tây đã thâm
nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu trào lu t tởng này, mong
muốn nớc mạnh, dân giàu theo con đờng t bản chủ nghĩa. Họ muốn noi
theo con đờng phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu
biểu cho khuynh hớng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với
mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lợng chống Pháp theo tôn chỉ

"mở mang dân trí, chấn hng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác nh các
cụ: Lơng Văn Can, Nguyễn Quyền... mở trờng Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà
Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nớc, bài xích chính sách cai trị của thực
dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong kiến, cờng hào, v.v...
Là một nhà yêu nớc nhiệt thành, nhng chủ trơng của cụ Phan Chu Trinh khác
hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hớng cải cách
dân chủ t sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói:
"Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là
lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này
trong th "thất trảm" gửi vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu
Trinh viết: "Mau mau quay đầu lại mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại
cho quốc dân để quốc dân đợc trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc
đặng mu lợi ích sau này". Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục,
chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của khuynh hớng t tởng t sản.
Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trớc. Một
số tổ chức yêu nớc ra đời nh hội Duy Tân (1904), trờng Đông Kinh Nghĩa
Thục (1907), hội Đông á đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (19121924), v.v... Song, vì đờng lối chính trị của các tổ chức này không rõ ràng,
nhất là không dựa vào quần chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân,
nên không tạo ra đợc sự thống nhất trong những ngời đề xớng phong trào.
Vì vậy, khi những ngời thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng
tan rã theo. Cách mạng tháng Mời Nga thành công (1917) đánh dấu bớc phát
triển mới trong lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mu của giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đợc thành lập. ở Trung Quốc,
sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). ở Pháp,
Đảng cộng sản Pháp đợc thành lập (1920), sự kiện lịch sử này không chỉ là
thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà còn là
thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
Các phong trào yêu nớc Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đang lâm
vào cuộc khủng hoảng trầm trọng: bế tắc về hớng đi, lúng túng về huy động
lực lợng và không có đội ngũ tiên tiến lãnh đạo. Lịch sử phát triển của dân tộc

đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết để đánh đổ ách thống trị của
6


thực dân phong kiến, giành lại độc lập cho dân tộc, đem lại ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân.
2. Nguyễn ái Quốc - ngời truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về
các mặt t tởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng vô
sản ở Việt Nam

Giữa lúc dân tộc ta đứng trớc cuộc khủng hoảng về đờng lối cứu nớc,
nhiều nhà yêu nớc đơng thời tiếp tục con đờng cứu nớc theo lối cũ, thì
đồng chí Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm đờng cứu nớc theo phơng hớng mới.
Gần mời năm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Ngời đến những nớc
thuộc địa và những nớc đế quốc nh Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu,
suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa t bản, chủ nghĩa đế quốc,
thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân
dân lao động ở chính quốc cũng nh ở các nớc thuộc địa... Dới ánh sáng
Cách mạng tháng Mời, Đề cơng về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin
và ảnh hởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng cộng sản Pháp..., chủ
nghĩa Mác - Lênin, chân lý cách mạng của thời đại đã sớm đợc khẳng định
trong nhận thức t tởng của Nguyễn ái Quốc.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua,
đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản
và chủ trơng thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý
nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ
các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế
không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán
thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi,
đây là tất cả những điều tôi muốn." Sự kiện này đánh dấu bớc chuyển

biến quyết định trong t tởng và lập trờng chính trị của đồng chí Nguyễn
ái
Quốc.
Từ đó Ngời xác định con đờng giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam là: giải phóng giai cấp vô sản mới thực sự giải phóng đợc dân tộc; cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
của cách mạng thế giới.
Từ khi trở thành ngời cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến
mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng
dân tộc và phong trào vô sản ở các nớc thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa
cộng sản và thuộc địa", và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa
của Đảng. Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp đợc
thành lập. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đợc cử làm trởng tiểu ban nghiên cứu
về Đông Dơng. Với cơng vị này, đồng chí đã tích cực tuyên truyền, giáo
dục và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách mạng của các
nớc thuộc địa ở châu á châu Phi...
Cũng năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Ngời đã cùng với
một số chiến sĩ cách mạng ở các nớc Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi,
Marốc, Đahômây, v.v sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa, ở Pa-ri, trong đó
7


Hội ngời Việt Nam yêu nớc ở Pháp làm nòng cốt. Thông qua tổ chức này và
báo Ngời cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa Mác Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời tình hình các nớc thuộc
địa đã đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Ngời cùng khổ mà đồng chí
Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút và quản lý, Ngời còn viết
nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo, cơ quan Trung ơng của Đảng cộng
sản Pháp, Đời sống thợ thuyền, tiếng nói của giai cấp công nhân, Tạp chí

Cộng sản, cơ quan lý luận của Đảng cộng sản Pháp, v.v Hầu hết bài viết
của Ngời đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân.
Năm 1925, đợc sự giúp đỡ của những ngời cộng sản Pháp, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng
Pháp đợc xuất bản lần đầu tiên ở Pa-ri. T tởng, quan điểm cơ bản của Ngời
về chiến lợc và sách lợc cách mạng thuộc địa đã bớc đầu thể hiện trong tác
phẩm.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trớc nhân dân Pháp và thế giới
những tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp
các thuộc địa. Bằng biểu tợng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm
cho ngời đọc thấy rằng: chủ nghĩa t bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở
các chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp
đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự
liên minh chặt chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này
mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành đợc thắng lợi cuối cùng".
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Phải làm
cho các dân tộc thuộc địa từ trớc đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phơng Đông tơng lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô
sản".
Bản án chế độ thực dân Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay
đổi quốc tịch" của một số ngời mang t tởng cải lơng t sản, đồng thời đề
cao tinh thần tự lực, tự cờng, tự mình giải phóng cho mình: "công cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện đợc bằng sự nỗ lực của bản thân anh
em" và hớng cách mạng thuộc địa phát triển theo con đờng cách mạng của
Quốc tế cộng sản. Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu
tiên của cách mạng nớc ta, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó và các bài viết của đồng chí Nguyễn ái Quốc,
nhân dân ta, trớc hết là những ngời trí thức tiểu t sản yêu nớc, tiến bộ đã

hớng về và tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tháng 6 năm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc rời nớc Pháp đến Mátxcơva
để tham dự Hội nghị nông dân quốc tế lần thứ nhất (10-1923); đồng thời
trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng Mời Nga và chủ
nghĩa Lênin. Ngày 17 tháng 6 năm 1924, đồng chí đợc Trung ơng Đảng
cộng sản Pháp ủy nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau
đó, đồng chí còn tham gia các đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc tế phụ
8


nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ. Tại các Đại hội quốc tế nói trên,
đồng chí Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan điểm của mình về
vai trò lịch sử của giai cấp vô sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong
trào cách mạng ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và nêu rõ sự
cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trớc khi
xoá bỏ chế độ thối nát này trên toàn thế giới.
Giữa tháng 12 năm 1924, với t cách là ủy viên Bộ phơng Đông của Quốc tế
cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phơng Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong
trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nớc ở Đông Nam á. Tại đây,
đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn
Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở á - Đông.
Tháng năm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội, trong đó có tổ chức trung kiên là Cộng sản
đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô
sản Việt Nam. Ngời đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo đợc hơn
200 cán bộ cách mạng. Trong số này, nhiều ngời đợc chọn đi học trờng Đại
học phơng Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, v.v...); một

số đợc cử đi học quân sự ở trờng Hoàng Phố (Trung Quốc) nh Trơng Vân
Lệnh, Phùng Chí Kiên; còn phần lớn đa về nớc hoạt động. Ngời cho ra tờ báo
Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
Đầu năm 1927, cuốn Đờng cách mệnh gồm những bài giảng của Ngời
trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu đợc Bộ tuyên truyền của Hội liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng
này, đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những t tởng cơ bản về chiến lợc và
sách lợc của cách mang Việt Nam. Đờng cách mệnh đề cập đầu tiên đến
vấn đề t cách ngời cách mạng, nhắc nhở cán bộ phải vị công vong t, nói
thì phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lòng ham muốn về vật chất,...
hy sinh,... giữ bí mật,... phục tùng đoàn thể, v.v...
Tác phẩm nêu ra ba loại t tởng về cách mạng và chia ra hai thứ cách mạng
là "dân tộc cách mạng" và "thế giới cách mạng", rồi khẳng định: tuy có khác
nhau "nhng hai thứ cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với nhau". "Tất cả dân
cày, ngời thợ trong thế giới bất kỳ nớc nào, nòi nào đều liên hợp nhau lại nh
anh em một nhà, để đạp đổ tất cả t bản trong thế giới, làm cho
nớc nào, dân nào cũng đợc hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế
giới cách mệnh". Tác phẩm phân tích những hạn chế của cách mạng t sản ở
Mỹ (1776), ở Pháp (1789) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mời Nga
là cuộc cách mạng triệt để.
Đờng cách mệnh chỉ rõ đối tợng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là t
bản đế quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực
và lực lợng cách mạng: "công nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông". Trong khi
kêu gọi sự đồng tâm, nhất trí làm cách mạng, giải phóng dân tộc, tác phẩm
9


đã phê phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh hớng cơ hội chủ
nghĩa khác chỉ xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm

cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cờng. Quần chúng một khi đã đợc
giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lợng cách mạng vô địch: "dân khí
mạnh thì quân lính nào súng ống nào cũng không chống lại".
Đờng cách mệnh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới. Tác phẩm còn nhấn mạnh ý thức tự lực tự cờng, muốn ngời ta
giúp cho thì mình phải tự giúp mình trớc. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
thấy khả năng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trớc, không thụ
động chờ đợi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi để đợc giải phóng.
Ngời viết: "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì t bản Pháp yếu, t
bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ" .
Tác phẩm khẳng định: muốn đa cách mạng đến thắng lợi, trớc hết phải
có đảng cách mạng. Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ
nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". Tác
phẩm đã giới thiệu các tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ăn hợp
tác và hớng nhân dân ta tham gia các tổ chức đó. Đờng cách mệnh chỉ rõ:
"Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam". Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đờng cách mệnh đã
trực tiếp chuẩn bị về t tởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành
lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
Từ năm 1928 đến năm 1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội thực hiện chủ trơng "vô sản hoá" thì phong trào công nhân đã có
những bớc phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu, đi
lính vẫn nhằm vào bọn t bản thực dân và tay sai của chúng, nhng đã có tổ
chức, có kỷ luật hơn. Phản ánh bớc phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng,
một chiến sĩ cách mạng vô sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của
Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mời Nga, đã viết: Từ chỗ phong
trào rời rạc, nhờ ảnh hởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Ngời
cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bớc đầu lan rộng, bớc đầu có tổ
chức, để đầu năm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách

mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng.
Từ hình thức các hội hữu ái, tơng tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức
ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các công hội nhà
máy xe lửa Trờng Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi măng Hải Phòng,
công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai...
Ngày 28 tháng 4 năm 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ đợc thành lập. Tiếp đó,
tháng 10 năm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời. Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hởng mạnh mẽ
trong phong trào nông dân và có vai trò quyết định trong việc làm cho
phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong trào công nhân.
Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành
quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp t sản, phần
quyết định là giai cấp nào nắm đợc nông dân. Cơng lĩnh của Việt Nam
10


thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công tất
cả ruộng đất của tụi đồn điền, nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và
đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch
ký về phân phối cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng năm
mất mùa", "Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cỡng chiếm những
đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa
ruộng năm mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn su,
miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu". Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu
nớc khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngoài chủ trơng giải phóng dân
tộc đều không có chủ trơng đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và
nông dân.
Đánh giá sự trởng thành của phong trào công nông trong những năm
1928-1929, Dự thảo Luận cơng chính trị (10-1930) của Đảng viết: "Vô sản

giai cấp Đông Dơng tuy cha đông đúc, nhng số thợ thuyền càng ngày càng
thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng
hăng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch
liệt. Những cuộc bãi công trong hai năm 1928-1929, những cuộc đấu tranh
rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong năm nay (1930) đã chứng tỏ
rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dơng ngày càng lớn mạnh. Điều đặc
biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dơng là sự đấu
tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ không phải
là chịu ảnh hởng quốc gia chủ nghĩa nh trớc nữa". Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ đã
tranh thủ đợc tầng lớp trí thức tiểu t sản Việt Nam. Vào cuối năm 1929, đầu
năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một đảng vô sản ở Việt Nam đã
chín muồi.
Trớc sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lợng
cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều.
Cần phải thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một
yêu cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định.
Tháng 3 năm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Văn Cung, Trịnh Đình
Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc,
Nguyễn Văn Tuân, Dơng Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Hà Nội,
quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trơng tiến tới thành lập Đảng
cộng sản thay thế Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh
đạo cách mạng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ
Bắc Kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không đợc chấp
nhận. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội về nớc, ra lời kêu gọi công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trơng thành lập Đảng cộng

sản. Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ, Hàm
11


Long đã họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập
Đông Dơng cộng sản Đảng, cử ra Ban chấp hành trung ơng lâm thời gồm các
đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung,
Nguyễn Phong Sắc, Trần T Chính, Nguyễn Văn Tuân; thông qua Tuyên ngôn
và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức
đảng và các đoàn thể quần chúng.
Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
Hội bế mạc, sáu ủy viên mới đợc bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn
Thiệu, Châu Văn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng đã
họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí
lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trơng này, những cộng sản đoàn
còn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã hình thành
các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có
chi bộ cộng sản ngời Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung
Quốc).
Thợng tuần tháng 8 năm 1929, An Nam cộng sản Đảng đợc thành lập tại
căn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu", ở đờng Bônác Philippin Sài
Gòn (nay là góc đờng Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực thành phố Hồ Chí Minh).
Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí:
Châu Văn Liêm (tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Mão, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Văn Liêm làm bí th.
Sau Đông Dơng cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng, các đảng viên
Tân Việt cách mạng Đảng chịu ảnh hởng của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dơng cộng sản liên
đoàn vào ngày 1 tháng 1 năm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chơng,
Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức

Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội cha kết thúc thì các đại biểu đã
bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đông Dơng cộng sản liên đoàn ra đời
nhng cha có Ban chấp hành trung ơng. Đông Dơng cộng sản Đảng và An
Nam cộng sản Đảng sau khi ra đời đã có sự tranh giành ảnh hởng, tranh
giành quần chúng và công kích lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong
quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam.
Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hớng biệt phái, tiểu t sản
trong phong trào công nhân và phong trào yêu nớc. Hai đảng đã nhiều lần
trao đổi th từ để giải quyết những bất đồng nhng vẫn không thống nhất
đợc. Những ngời cộng sản và những ngời yêu nớc chân chính đều nhận
thấy cần phải sớm khắc phục hiện tợng trên, thành lập một đảng cộng sản
thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên.
3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cơng lĩnh đầu tiên
của Đảng

Trớc tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nớc, Quốc tế
cộng sản đã gửi th cho những ngời cộng sản ở Đông Dơng nêu rõ: "nhiệm vụ
12


quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những ngời cộng sản
Đông Dơng là sớm lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là
một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng duy nhất và ở
Đông Dơng chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Quốc tế cộng sản
đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các
phần tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận
chỉ thị này, mùa thu năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại
Hơng Cảng chuẩn bị kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói
trên.
Hội nghị hợp nhất diễn ra từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại nhà

một công nhân ở xóm thợ thuộc bán đảo Cửu Long (Hơng Cảng), dới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Tham gia hội nghị có các đồng chí
Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh đại biểu Đông Dơng cộng sản Đảng;
Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm đại biểu của An Nam cộng sản Đảng. Tổng
số đảng viên của Đông Dơng cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng cho
tới tháng 2 năm 1930 là 565 đồng chí.
Hội nghị đã nhất trí bỏ thành kiến cũ, thành thật hợp tác và quyết định
những vấn đề trọng đại sau:
1. Thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản
duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam theo đề xuất của đồng chí
Nguyễn ái Quốc.
2. Thông qua Chánh cơng vắn tắt, Sách lợc vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn ái Quốc khởi thảo. Hội nghị còn thông qua
Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng
Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, đồng bào và đồng chí
trong cả nớc nhân dịp thành lập Đảng. Những văn kiện quan trọng nêu trên là
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng.
Chính cơng vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ
thuộc địa, nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì t bản Pháp
hết sức ngăn trở sức sinh sản, làm cho ngành công nghiệp bản xứ không thể
mở mang đợc". Kinh tế nông nghiệp chiếm u thế, "nông nghiệp ngày một
tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều".
Tình hình đó đa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là
dân tộc ta, trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một
bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp t sản và địa
chủ là những đối tợng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "T bản bản
xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc đợc,
chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ
nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "t
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng

sản". Đây là một loại hình cách mạng vô sản ở các nớc thuộc địa mà sinh
thời Mác, Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng cha nói đến. Sau này,
Đảng ta hoàn chỉnh tên gọi của loại hình cách mạng này là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
13


Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lợc
và tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân.
Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam.
Theo t tởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng t sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc
vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây
dựng đất nớc độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận
động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc
vận động trớc thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành
thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tờng ngăn cách, không phải tiến
hành một cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề
chính quyền nh cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ
rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu
suốt con đờng phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng là cơng lĩnh giơng cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cơng lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nớc Nam đợc hoàn toàn độc lập, tổ

chức ra quân đội công nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của t bản đế quốc,
thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
cày nghèo, bỏ su thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ". Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội
dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi bật là
nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (đại địa chủ, đại t sản phản cách mạng
và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân
tộc.
Về lực lợng cách mạng, Cơng lĩnh của Đảng chủ trơng đoàn kết tất cả các
giai cấp cách mạng, các lực lợng tiến bộ và cá nhân yêu nớc, tập trung lực lợng
đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai,
mở đờng cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo đảng tiên phong của giai cấp công nhân,
Đảng chủ trơng giải quyết hài hoà từng bớc quyền lợi của các giai cấp cách
mạng dù còn có những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Về vấn đề
ruộng đất, "xơng sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ trơng tiến
hành từng bớc với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai
đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai
của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân
nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc
bọn đại địa chủ và phong kiến". Đối với chủ nghĩa t bản thì "thâu hết sản
14


nghiệp lớn (nh công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v...) của t bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các
tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và t bản An Nam mà cha rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi
cách mạng giải phóng dân tộc giành đợc thắng lợi, chính quyền đã về tay
công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại

những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những nhà t sản và những ngời vô sản một cách công bằng hơn.
Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lợc vắn tắt
của Đảng vạch rõ "phải hết sức liên lạc với tiểu t sản, trí thức, trung nông
Thanh niên, Tân Việt, v.v... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp". Về
nguyên tắc liên minh, Sách lợc vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai
cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhợng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đờng thoả hiệp".
Cơng lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo
lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng
con đờng cải lơng. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là
Liên Xô. Sách lợc vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nớc An
Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức
dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Cơng lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
"thu phục cho đợc đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo đợc dân chúng... phải thu phục cho đợc đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn
đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách
mạng và tầng lớp yêu nớc khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giải
phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công
nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những ngời tiên tiến trong nông dân lao
động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng t tởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên
phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chơng trình Đảng và Quốc tế cộng sản,

hăng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh
phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". Trong tôn chỉ của mình,
Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để
tiêu trừ t bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Do sớm nhận thức đợc sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nớc thuộc địa, coi trọng
độc lập tự chủ, tự lực tự cờng của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ tr15


ơng thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những
ngời cách mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong của dân
tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 năm 1930,
một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân lao động
Lào đã ra đời ở Viên Chăn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu năm 1930, một số nhóm
cộng sản ở Campuchia đợc thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi
bộ cộng sản đầu tiên ở Campuchia đợc thành lập ở trờng trung học Xixôvát
(Phnômpênh).
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nớc thuộc địa, giai cấp công nhân
chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có Cơng lĩnh cách mạng đúng đắn ngay từ
đầu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nớc chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, phát huy đợc truyền thống yêu nớc, đánh giá đúng vị
trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn kết đợc các lực lợng yêu nớc, nhờ đó
mà Đảng đã nắm đợc quyền lãnh đạo cách mạng. Cơng lĩnh đầu tiên là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đờng lối
của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ
thể nớc ta, là sự thể hiện tập trung t tởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái
Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nớc

thuộc địa nửa phong kiến.
Đờng lối chiến lợc đợc thể hiện trong Cơng lĩnh là mục tiêu, lý tởng của
Đảng và phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Cơng lĩnh trở
thành ngọn cờ đoàn kết, tập hợp toàn dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc để đi tới chủ nghĩa xã hội. Sau này, Hồ Chí Minh đánh giá: "Cơng lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân
ta Vì vậy, Đảng đã đoàn kết đợc những lực lợng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị
phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai
cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cờng"1.
Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn thể quần
chúng; thông qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên
cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc
thống nhất chống đế quốc) ...
Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nớc, thể thức cử Ban chấp hành trung ơng lâm thời và bàn việc liên hệ để
thu nạp Đông Dơng cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về
nớc các đại biểu đều lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là
đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất.
Nói về nỗi vui sớng của ngời cộng sản trớc sự kiện lịch sử này, về sau đồng
chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản Đảng dự Hội nghị hợp
nhất đã viết: "Tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vơng (tức đồng chí Nguyễn ái
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996, tr. 8.

1

16


Quốc) đã làm cho tôi đợc thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất
theo tinh thần mới. Có thể nói rằng, mỗi ngời đều đợc mà chẳng ai mất gì.
Đồng chí Vơng đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần

những điều mà chúng tôi mong ớc. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ đợc
vì quá vui mừng".
Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng
chí Nguyễn ái Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã
đợc hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng thống nhất theo điều lệ mới.
Lâm thời chấp ủy của Đảng ở các xứ đợc chỉ định và Ban chấp hành trung
ơng lâm thời đợc thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới,
Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt
đợc các đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ơng lâm thời do đồng chí
Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lu
Lập Đạo tham gia Ban chấp hành trung ơng lâm thời của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Ngày 24 tháng 2 năm 1930, hai đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu
thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt
thay mặt Ban chấp hành trung ơng lâm thời cùng với đồng chí Ngô Gia Tự,
Bí th lâm thời chấp ủy của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp
nhận Đông Dơng cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Nh vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ
chức cộng sản ở Đông Dơng đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy
nhất - Đảng cộng sản Việt Nam.
Chính vì quyết định mọi vấn đề trọng đại nêu trên, nên Hội nghị
thành lập Đảng (2-1930) có ý nghĩa nh một đại hội. Thành quả lớn nhất của
hội nghị là đã quy tụ, thống nhất toàn bộ phong trào công nhân và phong
trào yêu nớc dới sự lãnh đạo của một đội tiên phong duy nhất, với một đờng
lối cách mạng đúng đắn; tạo sự thống nhất trong toàn Đảng về chính trị, t
tởng và tổ chức; chấm dứt tình trạng phân tán, chia rẽ của phong trào Cộng
sản Đông Dơng.
Thắng lợi của hội nghị là thắng lợi của ý thức giác ngộ vì lợi ích căn bản và
lâu dài của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc; là kết quả tất yếu của
sự chuẩn bị công phu, gian khổ, với những bớc đi phù hợp để thể hiện năng

lực tổ chức tài tình của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc; là sự thắng thế của t tởng vô
sản đối với đờng lối chính trị của giai cấp vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chứng tỏ cách mạng Việt Nam đã chấm
dứt đợc tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo. Đánh giá về sự kiện lịch sử
trọng đại này, Hồ Chí Minh viết: "Việc thành lập Đảng là một bớc ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai
cấp vô sản ta đã trởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng"1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ đơn độc, biệt lập của
phong trào dân tộc Việt Nam. Từ đây gắn chặt phong trào cách mạng thế
giới, kết hợp sức mạnh thời đại và sức mạnh trong nớc, kết hợp chủ nghĩa yêu nớc
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996, tr. 8.

1

17


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nớc. Đây là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở
một nớc nửa thuộc địa phong kiến và có truyền thống yêu nớc từ hàng ngàn
năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về sự ra đời
của Đảng Cộng sản dựa trên căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ thể ở
Việt Nam nh sau:
Một là, Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nớc Việt Nam. Chủ nghĩa Mác Lênin, theo t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Song xuất phát từ thực tiễn nớc ta, một nớc thuộc địa nửa
phong kiến, một nớc ngoài sự phát triển của phong trào công nhân đầu thế
kỷ XX thì phong trào yêu nớc đợc kế thừa từ truyền thống hàng nghìn năm

dựng nớc và giữ nớc tạo nên, phát triển sôi nổi. Con đờng giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội đòi hỏi phải có một hệ t tởng khoa học tiên tiến thay
thế cho hệ t tởng phong kiến lỗi thời, hớng dẫn, chỉ đạo con đờng phát
triển. Song hệ t tởng ấy phải có một tổ chức tiên phong cách mạng tập hợp
quần chúng nhân dân đông đảo, biến hệ t tởng khoa học đó thành hiện
thực. Hồ Chí Minh coi "công nông là gốc cách mạng", song công nông và
dân chúng nói chung phải giác ngộ, và muốn đợc giác ngộ, đi từ tự phát
đến tự giác thì phải có đảng cách mạng dẫn đờng. Đảng nh ngời cầm lái,
ngời cầm lái có vững, thuyền mới chạy. Và trong tiến trình cách mạng, mọi cơng lĩnh, chính sách, chủ trơng của Đảng đều bắt nguồn từ hệ t tởng đó:
chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng càng khó khăn, gian khổ càng phải kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin. Xa rời hệ t tởng Mác - Lênin thì cách mạng đi
vào ngõ cụt và không tránh khỏi sự thất bại thảm hại.
Hai là, Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, ngời đại biểu trung thành cho
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt
Nam. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta thể hiện ở chỗ Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin là nền tảng t tởng; Đảng ta lấy độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; lấy dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu
lý tởng của mình. Đảng tuân thủ nguyên tắc tổ chức của Đảng là Đảng kiểu
mới, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, giai cấp công nhân là một bộ phận
trong dân tộc nên vấn đề dân tộc và giai cấp có quan hệ khăng khít với nhau.
Ngay phạm trù giai cấp công nhân cũng cần đợc nhận thức cho đầy đủ.
Mác từng nói đến giai cấp công nhân đại diện cho lực lợng sản xuất tiên tiến
nhất của thời đại. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ mới, nội hàm của giai cấp công nhân cũng phải đợc mở rộng đến
các lực lợng lao động trí óc rộng lớn, thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trong thực
tiễn, Đảng ta gắn bó máu thịt với dân tộc, với nhân dân và đợc nhân dân
thừa nhận. Toàn bộ nghị lực của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy sinh của các
thế hệ đảng viên đều hớng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân dân, giành tự do, độc lập, hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài mục tiêu
đó, Đảng ta không có mục tiêu nào khác. "Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân

18


dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác". Trong những khúc quanh co của lịch
sử, Đảng ta luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm to lớn
đối với nhân dân, đối với vận mệnh của dân tộc. Trong các cuộc kháng chiến
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn thể hiện là ngời chiến sĩ
tiên phong, hoàn thành sứ mệnh lịch sử cao cả mà dân tộc, nhân dân giao
cho, giải phóng dân tộc, thống nhất giang sơn về một mối, bảo vệ từng tấc
núi, thớc sông, bầu trời, biển cả bao la của Tổ quốc. Trong công cuộc xây dựng
đất nớc, có những lúc chúng ta đã mắc sai lầm, khuyết điểm nh chủ quan,
duy ý chí, áp dụng mô hình của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp quá lâu dài và cả những khuyết điểm, sai lầm khác. Song Đảng ta
thẳng thắn nhận rõ sai lầm thiếu sót kiên trì con đờng đi lên chủ nghĩa xã
hội, quyết tâm lãnh đạo nhân dân vợt qua khó khăn thử thách, trụ đợc trong
bão táp và đi lên.
Ba là, Nguyễn ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngời đã đi từ
chủ nghĩa yêu nớc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình tìm đờng cứu nớc, Ngời đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó Ngời đã dày
công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nớc ta, vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nớc. Việc thành lập Thanh niên cách mạng đồng chí Hội
(1925) bao gồm những chiến sĩ yêu nớc để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào trong nớc là hiện thân của sự kết hợp ba yếu tố ngay từ những bớc
chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nớc, ngay từ
khi mới ra đời Đảng ta đã phát huy đợc truyền thống yêu nớc, đoàn kết đợc
các lực lợng cách mạng và nhờ đã giữ đợc quyền lãnh đạo cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những trong phong trào
công nhân mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa cộng
sản trong nông dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nớc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách

mạng nớc ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đờng lối cứu nớc, là cơ sở dẫn
đến những thắng lợi oanh liệt và những bớc nhảy vọt lớn trong lịch sử dân
tộc những năm sau.

II. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành chính quyền cách mạng
(1930-1945)
1. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi từng phần tiến tới
Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đợc thành lập. Đó là
bớc ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc, đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng của cách mạng Việt Nam kéo dài trong suốt nửa cuối thế kỷ XIX và
những năm đầu của thế kỷ XX.
19


Dới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng của nhân dân ta phát
triển ngày càng mạnh mẽ trong khắp đất nớc. Từ những cuộc đấu tranh của
công nhân nhà máy sợi Nam Định, đồn điền Phú Riềng, công nhân các nhà
máy ở Hải Phòng, Vinh - Bến Thủy; đấu tranh của công nhân ở các hầm mỏ,
đồn điền... phong trào đã nhanh chóng lan về nông thôn và trở thành cao
trào cách mạng rộng lớn, tác động trực tiếp đến hệ thống chính quyền đế
quốc phong kiến trong cả nớc. Dới sự lãnh đạo của Xứ ủy, ở hai tỉnh Nghệ An
và Hà Tĩnh phong trào đấu tranh của nhân dân đã làm rung chuyển hệ
thống chính quyền của bọn đế quốc phong kiến. Tuy cha có chủ trơng
giành chính quyền nhng một hình thức chính quyền mới đã đợc thiết lập
đó là nền chuyên chính công - nông dới hình thức Xô-viết. Khi Xô-viết hình
thành, Trung ơng Đảng đã có nhiều chỉ thị cho Xứ ủy Trung Kỳ và các cấp
ủy đảng ở Nghệ - Tĩnh phải thực sự bảo vệ và hớng cho Xô-viết hoạt động.

Trớc tình hình đó, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp khốc liệt phong trào
đấu tranh yêu nớc và cách mạng của nhân dân ta, đặc biệt là phong trào
Xô - viết Nghệ - Tĩnh. Dới sự chỉ đạo của Trung ơng, tổ chức đảng ở các
địa phơng trong toàn quốc đã lãnh đạo, đa phong trào đấu tranh tiếp tục
phát triển. Khẩu hiệu ủng hộ Xô-viết, lên án thực dân Pháp đàn áp dã man
Xô-viết đã vang lên khắp nơi trong cả nớc. Từ cuối năm 1930 đến đầu năm
1931, làn sóng đấu tranh sôi sục của quần chúng công - nông đạt tới mức cao
trào. Phong trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ - Tĩnh đã
giáng cho kẻ thù một đòn choáng váng, báo hiệu thời kỳ sụp đổ không thể
tránh khỏi chế độ thống trị của đế quốc phong kiến tay sai ở Việt Nam.
Phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ - Tĩnh
cuối cùng đều bị thực dân Pháp khủng bố, dìm trong biển máu. Đảng ta bị
tổn thất nặng nề, sau Hội nghị tháng 3 năm 1931 phần lớn ủy viên Ban
Chấp hành Trung ơng bị bắt, một số phải tạm thời lánh ra nớc ngoài. Cuộc
đấu tranh khôi phục cơ sở đảng cũng nh phong trào quần chúng lúc này trở
nên hết sức khó khăn, phức tạp. Đầu năm 1932, nhiều chi bộ vừa mới khôi
phục trở lại thì đã bị kẻ địch khủng bố, phá vỡ ngay. Tuy vậy, các chiến sĩ
cách mạng và quần chúng trung kiên vẫn không hề nao núng, kiên trì móc
nối, xây dựng cơ sở cả trong và ngoài nớc. Cuối năm 1932, đầu năm 1933,
nhìn chung cơ sở đảng bớc đầu đợc hồi phục trong phạm vi toàn quốc.
Mặc dù phong trào bị thực dân Pháp khủng bố dã man nhng ý nghĩa to
lớn và sâu sắc của nó đã trở thành bất tử. Thông qua phong trào đấu tranh
rầm rộ, sôi nổi đó, Đảng ta đã khẳng định trên thực tế độc quyền lãnh
đạo cách mạng của mình. Đờng lối, chủ trơng của Đảng đợc kiểm nghiệm
trong thực tế và ăn sâu vào quần chúng nhân dân. Khối liên minh công
nông, động lực chính của cách mạng Việt Nam đợc hình thành, tạo nên sự
liên kết vững chắc không gì có thể phá vỡ. Phong trào cách mạng trong
phạm vi toàn quốc, đặc biệt là Xô-viết Nghệ - Tĩnh đã để lại cho cách
mạng nớc ta và cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý báu. Đó là
những vấn đề cơ bản nh xác định nhiệm vụ cách mạng, xây dựng đờng

lối, xây dựng khối liên minh công nông, phơng pháp cách mạng, vấn đề
giành, giữ, xây dựng chính quyền, v.v...
20


Đầu 1934, Ban lãnh đạo ở nớc ngoài của Đảng - coi nh Ban Chấp hành lâm
thời của Đảng - đợc thành lập nhằm đào tạo cán bộ, đề ra chủ trơng, kế
hoạch hoạt động và thống nhất nội bộ. Tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ
nhất của Đảng đã đợc triệu tập, họp ở Ma Cao (Trung Quốc), đánh dấu sự hồi
phục hoàn toàn của Đảng, tiếp tục đa phong trào cách mạng phát triển trong
giai đoạn mới. Song song với việc khôi phục các tổ chức đảng, phong trào
cách mạng của quần chúng từ giữa năm 1932 cũng đã xuất hiện ở nhiều
nơi. Đầu năm 1934, phong trào đã có ở khắp ba kỳ, kể cả vùng rừng núi
đến đồng bằng. Tuy không sôi nổi rầm rộ nh những năm 1930-1931, quy
mô không lớn nhng các cuộc đấu tranh đã thu hút rộng rãi nhiều tầng lớp
hơn. Bên cạnh giai cấp công nhân, nông dân xuất hiện tầng lớp học sinh,
sinh viên, tiểu thơng, viên chức Hình thức tổ chức phong phú, bên cạnh
bí mật là chủ yếu thì đã biết lợi dụng triệt để các hình thức hợp pháp và
nửa hợp pháp, lợi dụng các tổ chức sẵn có trong quần chúng để tập hợp
quần chúng. Nhìn chung các cuộc đấu tranh đều giành đợc thắng lợi vì
yêu cầu đề ra không cao. Qua đó, Đảng đã dần dần tập hợp quần chúng
xung quanh mình. Phong trào quần chúng đi từ thấp đến cao và cuối cùng
đã tập hợp đợc lực lợng trên quy mô toàn quốc.
Trong thời gian này, tình hình quốc tế có những chuyển biến hết sức
sâu sắc. Chủ nghĩa phát xít đang hình thành và phát triển nhanh chóng
là mối đe dọa lớn đối với toàn nhân loại. Để đối phó với nguy cơ mới, Đại hội
Quốc tế Cộng sản lần thứ VII (họp vào tháng 7-1935) đã có bớc chuyển hớng
quan trọng, chủ trơng lập Mặt trận nhân dân thế giới, bao gồm quần
chúng cách mạng và các lực lợng dân chủ chống chủ nghĩa phát xít gây
chiến tranh, bảo vệ hòa bình.

Thực hiện Nghị quyết VII (1935) của Quốc tế Cộng sản, xuất phát từ
tình hình thực tế, Đảng ta xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dơng lúc này là bọn phản động thuộc địa - thực chất cũng là bọn phát xít
đang điên cuồng đàn áp phong trào cách mạng. Đảng chủ trơng lập Mặt
trận phản đế Đông Dơng, sau đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ
Đông Dơng, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dơng. Sách lợc đấu tranh, phơng thức hoạt động lúc này của Đảng đợc xác định là lấy hoạt động bí mật
là chủ yếu, đồng thời tranh thủ điều kiện thuận lợi để hoạt động hợp pháp
và nửa hợp pháp, thông qua đó mà tuyên truyền, giáo dục và rèn luyện quần
chúng. Chính nhờ sách lợc đúng đắn ấy nên Đảng đã phát động đợc cao
trào cách mạng rất rộng lớn. Đó là phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa bình, đòi cải thiện dân sinh nổ ra rất
mạnh mẽ trong những năm 1936-1939, đỉnh cao là những năm 1937, 1938,
thu hút đợc hầu hết các giai tầng trong xã hội Việt Nam tham gia.
Cao trào đấu tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lợc diễn
ra với nhiều hình thức phong phú. Một mặt Đảng ta khai thác tối đa thời cơ
thuận lợi tổ chức quần chúng công khai đấu tranh hợp pháp nh phong trào
Đông Dơng đại hội, phong trào đấu tranh dới hình thức đón rớc, các cuộc
mít tinh, biểu tình, đấu tranh trên lĩnh vực t tởng thông qua báo chí, Hội
Tuyên truyền chủ nghĩa Mác, đấu tranh đòi phòng thủ Đông Dơng...; mặt
21


khác hết sức chú ý xây dựng các cơ sở bí mật, hình thức hoạt động bí
mật, bất hợp pháp. Điều này thể hiện tính nhạy cảm đặc biệt của Đảng ta
trong nhận thức tình hình chung cũng nh bản chất của kẻ thù cách mạng. Tại
"chính quốc" Pháp, Mặt trận bình dân đã đợc thành lập và Chính phủ
Bình dân ra đời. Đây vẫn là nền chuyên chính t sản nhng trớc áp lực quốc
tế nó đã thi hành một số chủ trơng tiến bộ. ở thuộc địa chúng thả tù chính
trị, thi hành một số cải cách xã hội nhỏ mọn, đa lại một số quyền lợi cho
quần chúng lao động. Mức độ cải cách tuy rất thấp nhng đối với nớc thuộc
địa, lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là điều kiện hết sức quý hiếm với

phong trào đấu tranh yêu nớc và cách mạng của nhân dân ta.
Từ năm 1936-1939, phong trào đấu tranh dân chủ là một phong trào
cách mạng khá đặc biệt trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Mặc dù mọi quyền
lợi cuối cùng đều bị thực dân Pháp tớc bỏ nhng phong trào có ý nghĩa to lớn.
Đảng đã căn cứ chủ trơng của Quốc tế Cộng sản và tình hình cụ thể ở
Đông Dơng đề ra sách lợc đấu tranh thích hợp nhằm tạo điều kiện cho
phong trào cách mạng phát triển rộng lớn. Đặt ra nhiệm vụ chống phản động
thuộc địa, tay sai, đòi tự do dân chủ, chống phát xít, chiến tranh nhng nó
khác về bản chất so với tất cả các cuộc cải lơng. Bởi Đảng không coi phong
trào này là mục đích mà chỉ là sách lợc đấu tranh trong quá trình cách
mạng khi điều kiện lịch sử cho phép. Vì thế, cao trào 1936-1939 là một
giai đoạn trong quá trình đấu tranh giành chính quyền ở Việt Nam. Thông
qua các hình thức đấu tranh đã hình thành đạo quân cách mạng rất rộng
lớn cả về chính trị, t tởng và tổ chức. Đạo quân cách mạng của Đảng đợc
phát triển mạnh mẽ không chỉ ở giai cấp công - nông mà còn phát triển rộng
rãi ở các tầng lớp khác. Cơ sở cách mạng của ta ở nông thôn, thành thị đều
mạnh lên, tạo tiền đề quan trọng cho vấn đề giành chính quyền trong giai
đoạn tiếp theo. Đặc biệt, chính phong trào đã đào tạo cho Đảng một đội
ngũ cán bộ đông đảo. Phạm vi lãnh đạo của Đảng đã đợc mở rộng. Trớc kia,
chủ yếu là giai cấp công - nông, bây giờ Đảng đã ảnh hởng đợc các tầng lớp
khác. Với những ý nghĩa cơ bản đó phong trào đấu tranh dân chủ thời kỳ
1936-1939 là bớc chuẩn bị t tởng, chính trị, là cuộc tập dợt lần thứ hai cho
Cách mạng tháng Tám.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (9-1939), ở Đông Dơng,
thực dân Pháp đặt Đảng Cộng sản và phong trào đấu tranh yêu nớc, dân
chủ ra ngoài vòng pháp luật. Trớc tình thế đó, Đảng ta đã kịp thời chỉ thị
cho các tổ chức đảng, các cơ sở của cách mạng hoạt động công khai nhanh
chóng rút ngay vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác từ thành thị về
nông thôn. Chủ trơng này có ý nghĩa lịch sử quan trọng, bởi đi vào nông
thôn Đảng ta có điều kiện hoạt động tốt hơn. Tuy vậy, một số nơi cách

mạng cũng bị tổn thất do không hiểu rõ thời thế, chần chừ trong việc tổ
chức rút lui. Chủ trơng rút lui, bảo toàn lực lợng là rất đúng đắn nhng cha
đáp ứng đợc yêu cầu của thời cuộc. Tình hình lúc này đòi hỏi Đảng phải có
chủ trơng mới đáp ứng sự phát triển toàn diện của cách mạng Việt Nam trớc
bớc ngoặt mới. Hội nghị lần thứ sáu (11-1939), lần thứ bảy (11-1940), lần thứ
tám (5-1941) của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng (khóa I) đã đánh giá toàn
22


diện tình hình thế giới, trong nớc, đề ra và hoàn chỉnh chủ trơng chuyển
hớng chỉ đạo chiến lợc trong giai đoạn cách mạng mới. Trên cơ sở đánh giá
tình hình và chỉ ra một cách cụ thể nhiệm vụ mới của cách mạng Việt
Nam, Đảng ta khẳng định: Vấn đề cấp bách nhất là giải quyết mâu thuẫn
dân tộc, nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận tập hợp lực
lợng rộng rãi, chuẩn bị lực lợng vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là
nhiệm vụ trung tâm lúc bấy giờ. Để tập trung lực lợng giải quyết vấn đề
dân tộc, tạm gác khẩu hiệu "tịch thu ruộng đất của địa chủ, việt gian,
phản động chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô thuế, chia lại ruộng
công".
Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ tám, Hồ Chí Minh nhận
định: "Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã đa đến kết quả sự ra đời
của nớc Nga, chiến tranh thế giới lần thứ hai chắc chắn sẽ có nhiều nớc xã hội
chủ nghĩa mới ra đời, cách mạng nhiều nớc sẽ thành công". Cuộc chiến tranh
đế quốc đã tạo ra khủng hoảng mới, mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân
tộc trên thế giới sâu sắc hơn, đa tới sự phát triển mạnh mẽ phong trào đấu
tranh trên phạm vi thế giới.
Về tình hình Đông Dơng: Các nghị quyết của Hội nghị Trung ơng đều
nhấn mạnh tới những chính sách kinh tế, chính trị, quân sự thời chiến của
Pháp, Nhật. Nhân dân ta cha lúc nào bị áp bức nặng nề nh từ năm 1939
trở đi. Hậu quả đó đã làm cho thái độ chính trị của các giai cấp biến

chuyển khá sâu sắc, Đảng đánh giá sự chuyển biến của t sản dân tộc và
địa chủ có những điểm mới: một số khá đông căm ghét đế quốc, đứng
trung lập, có lợi cho cách mạng. Để thực hiện nhiệm vụ giải phóng, Đảng chủ
trơng thay đổi hình thức tổ chức mặt trận; thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi thay Mặt trận dân chủ. Tại Hội nghị lần thứ tám (1941)
Đảng đa ra chủ trơng thành lập chính quyền riêng ở Việt Nam: Chính phủ
dân chủ cộng hòa Việt Nam là chính phủ phản ánh thành phần rộng rãi
trong dân tộc ta, phản ánh thắng lợi của Mặt trận Việt Minh.
Từ năm 1939 trở đi, Đảng ra sức xây dựng phát triển lực lợng Việt Minh và
vận động t sản, tiểu t sản, những ngời yêu nớc nhằm cô lập kẻ thù. Tổ chức
các hội của thanh niên, phụ nữ, lôi cuốn nhiều trí thức, học sinh tiểu t sản,
Đảng đã thông qua Mặt trận Việt Minh để lôi cuốn trí thức, học sinh yêu nớc. Tiếp tục xây dựng lực lợng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh chính trị của giai cấp công - nông và các tầng lớp
khác; từng bớc thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích, xây dựng các căn
cứ; đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực t tởng văn hóa; củng cố lực lợng có đủ
năng lực lãnh đạo; việc chuẩn bị lực lợng có ý nghĩa quyết định trực tiếp
cho thắng lợi về sau. Năm 1939, một số địa phơng đã bắt đầu tổ chức
đội tự vệ.
Từ những tháng đầu năm 1940, ở Nam Bộ lực lợng tự vệ phát triển mạnh,
đến cuối năm 1940 có khoảng 15 vạn ngời tham gia, trong đó 5.000 ngời
đợc vũ trang thô sơ. Một số địa phơng đã chuẩn bị sản xuất bom, tạc đạn,
quyên góp đồng, sắt, gang. Một số lò rèn tiến hành sản xuất vũ khí. Trong
những năm 1940-1941 đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa
23


Nam Kỳ, binh biến Đô Lơng. Đây không phải là ngẫu nhiên mà là tất yếu
trong quá trình vận động cách mạng của Đảng. Nó chứng tỏ sức mạnh quật
cờng của nhân dân, báo hiệu sự trở mình của phong trào cách mạng do
Đảng ta lãnh đạo: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Đội du kích Bắc Sơn đã hình

thành. Đội du kích Bắc Sơn đợc thành lập và duy trì là dựa vào sự ủng hộ
của đồng bào dân tộc miền núi, dựa vào địa thế hiểm trở rừng núi. Cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn đã mở ra khả năng khởi nghĩa từng phần, xây dựng
căn cứ địa, mở đờng tiến lên tổng khởi nghĩa.
Tháng 7 năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ có cuộc họp, thống nhất tổ chức khởi
nghĩa. Chủ trơng này đợc báo cáo ở cuộc họp Ban Chấp hành Trung ơng lần
thứ bảy ở Bắc Ninh. Hội nghị đã kết luận, nếu khởi nghĩa nổ ra sẽ thất bại
vì thời cơ mới chín muồi ở một phần Nam Bộ, trong lúc cả nớc cha có điều
kiện thích hợp về chính trị, kinh tế... Do vậy nhiệm vụ lúc này là phải ra
sức giáo dục quần chúng tích cực chuẩn bị, chờ thời cơ toàn quốc khởi
nghĩa vũ trang. Nhng khi đồng chí Phan Văn Lu, ngời mang chỉ thị của
Trung ơng về đến Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban bố. Cuộc khởi
nghĩa có ý nghĩa rất lớn, nổ ra trên phạm vi rộng, có tổ chức, có sự tham
gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Cuộc khởi nghĩa đã khẳng
định nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến có quan hệ khăng khít
với nhau, lực lợng của giai cấp công nhân và nông dân là đội quân chủ lực
đông đảo nhất, vĩ đại nhất. Khi công - nông đã đoàn kết, có sự lãnh đạo
của Đảng thì chúng ta có sức mạnh lật đổ kẻ thù. Khởi nghĩa có tác dụng
đánh đòn rất nặng vào phát xít và tay sai. Có tác dụng cổ vũ quần chúng
toàn quốc tích cực chuẩn bị lực lợng vũ trang. Mặc dù Sài Gòn không khởi
nghĩa nhng các địa phơng khác đều khởi nghĩa, nhiều nơi giành đợc
thắng lợi, có nơi giành chính quyền, duy trì đợc 50 ngày. Trớc tình hình
đó, tối ngày 22, rạng ngày 23 ở Sài Gòn, địch ra lệnh giới nghiêm và lùng
bắt cơ quan đầu não xứ ủy.
Bớc sang năm 1945, trớc thắng lợi của Đồng minh, thực dân Pháp tăng cờng
hoạt động, nuôi âm mu chờ Đồng minh đánh Nhật để khôi phục quyền
thống trị. Nhật biết trớc âm mu của Pháp nhng cha có điều kiện trừng trị,
nên nó đang tạm thời hòa hoãn. Trung ơng dự kiến: cuộc đọ sức Pháp, Nhật
nhất định sẽ nổ ra. Và rồi Nhật đã lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dơng
vào đêm 9 tháng 3 năm 1945.

Trớc tình hình đó, Ban Thờng vụ Trung ơng đã triệu tập hội nghị mở
rộng vào đêm 9 tháng 3 năm 1945, tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) Hội
nghị ra Chỉ thị: "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Bản
chỉ thị phân tích nguyên nhân dẫn tới cuộc đảo chính và chỉ ra: cuộc
khủng hoảng chính trị ở Đông Dơng phát triển sâu sắc. Cuộc đảo chính
của Nhật làm cho chính quyền Pháp ở Đông Dơng tan rã, chính quyền của
Nhật cha ổn định đợc để hoạt động. Trung ơng nhận định, thời cơ cách
mạng sẽ nhanh chóng chín muồi, bởi vì: nạn đói đang diễn ra ghê gớm,
quần chúng oán ghét quân cớp nớc; cuộc chiến tranh thế giới đang đi vào
giai đoạn quyết liệt, cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, kẻ thù không
rảnh tay đối phó với cách mạng; quân Đồng minh sẽ có thể đổ bộ vào Đông
24


Dơng đánh Nhật. Song thời cơ để tổng khởi nghĩa vẫn cha xuất hiện bởi
vì: Đội tiên phong chuẩn bị cha thật đầy đủ trong cả nớc. Trớc mắt đang
còn lúng túng trong việc sửa soạn, cha sẵn sàng chiến đấu, cha quyết tâm
hy sinh. Hơn nữa quần chúng trung gian hoang mang nhng cần một thời
gian nữa để họ thấy rõ hậu quả, tính chất phản động của Nhật, lúc đó mới
ngả hẳn về phía cách mạng, mới quyết tâm giúp đỡ và đi theo giai cấp
công nhân. Nếu không nhạy bén thì giai cấp trung gian không thấy đợc
bản chất của Nhật. Trong cuộc đọ sức tuy Pháp chống Nhật nhng rất yếu ớt
nên Nhật lật đổ Pháp dễ dàng; thời điểm này Nhật cha đến lúc chia rẽ,
hoảng loạn.
Từ tình hình đó, Trung ơng xác định: kẻ thù trớc mắt của Đông Dơng đã
thay đổi. Nhật là kẻ thù chính, trớc mắt ở Đông Dơng. Pháp đã bị Nhật hất
cẳng nên không phải là kẻ thù trớc mắt. Nhng chúng ta phải đề phòng âm
mu của phái Đờgôn ở Đông Dơng. Trung ơng nêu lên khẩu hiệu: đánh đuổi
phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dơng.
Ban thờng vụ có chủ trơng lớn là phát động cao trào chống Nhật mạnh mẽ

trong toàn quốc, làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Cần phải phát động du
kích chiến tranh, lập căn cứ địa cách mạng. Chuẩn bị sẵn sàng chuyển
qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện thời cơ.
Về thời cơ, Trung ơng nhận định: nếu Đồng minh đổ bộ, ta phát động
quần chúng đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nớc.
Mặt khác, phải cảnh giác với Đồng minh và không nên hoàn toàn lệ thuộc vào
điều kiện đó. Nếu Đồng minh không vào chúng ta cũng có thể tổng khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Nhận thức này của Đảng thể hiện tinh
thần tự lực cánh sinh, chủ động, sáng tạo. Trớc tình hình mới, để phù hợp với
yêu cầu, Trung ơng quyết định thay đổi mọi hình thức tuyên truyền cổ
động, hình thức đấu tranh phải biết nhân cơ hội mà lãnh đạo nông dân
phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói. Thông qua phong trào đó sẽ
thúc đẩy khí thế cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ, động viên
quần chúng xuống đờng biểu tình, chuẩn bị thực lực, nhanh chóng khởi
nghĩa khi thời cơ đến. Nơi có điều kiện thì phải phát động du kích
chiến tranh, phát động khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng bộ
phận ở địa phơng. Trong toàn quốc, cao trào kháng Nhật, cứu nớc nổ ra
mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Cuộc khởi nghĩa từng phần
tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, thành lập các căn cứ địa cách mạng,
tiến lên lập khu giải phóng là mặt trận đấu tranh sôi nổi nhất, có tác dụng
tích cực khẩn trơng cho tổng khởi nghĩa sắp tới. Cuộc đấu tranh chính trị
nổ ra sôi nổi. Nổi bật là phong trào nông dân phá kho thóc, cứu nạn đói.
Nh vậy từ giữa tháng 3 năm 1945, xét nhân tố chủ quan, chúng ta đã chuẩn
bị đủ thực lực cách mạng bao gồm đội quân chính trị quần chúng và có
lực lợng vũ trang làm nòng cốt, đông đảo nhất là lực lợng tự vệ. Đảng ta đã
chuẩn bị sẵn sàng đón lấy thời cơ. Đó là điều kiện chủ quan bên trong thể
hiện thực lực cách mạng. Từ ngày 3 tháng 8 năm 1945 là thời kỳ trực tiếp
chuẩn bị tích cực về lực lợng để tiến tới tổng khởi nghĩa.
25



×