Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Hiệu trưởng với công tác xã hội hóa giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.6 KB, 18 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐÊ
Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Tư tưởng đó là một sự đúc kết truyền thống hiếu học, vì sự nghiệp “ Trăm năm
trồng người”, đề cao tính ham học, khả năng tìm tòi, nghiên cứu khám phá kiến
thức văn hóa xã hội, nhân loại, đồng thời cũng đề cao sự chăm lo việc học hành của
dân tộc ta. Xã hội hóa giáo dục vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại
vì lợi ích Quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích gia đình và từng cá nhân con người.
Giáo dục liên quan tác động trực tiếp đến mọi người, là lợi ích mọi người,
của cộng đồng. Đối với gia đình đó là lợi ích của mỗi công dân. Ai cũng có quá
trình học tập nên chịu ảnh hưởng ít nhiều của công tác giáo dục.
Trong các văn kiện của Đảng cũng xác định “Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng” muốn tạo ra nguồn nhân lực thật tốt để đáp ứng sự nghiệp phát triển
kinh tế-xã hội, yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Để đạt được mục tiêu đó không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục mà là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, phải có sự tham gia tích cực, phối hợp chặt chẽ của
toàn xã hội.
Trong những năm qua công tác xã hội hóa giáo dục nói chung và đơn vị nhà
trường nói riêng đã đạt nhiều kết quả đáng trân trọng, nhận thức chung về giáo dụcđào tạo được nâng lên, huy động sự tham gia đóng góp nhân lực, tài lực, vật chất
cho giáo dục,…Từ đó bộ mặt của nhà trường có nhiều khởi sắc, thu hút được sự
quan tâm chăm lo cho sự phát triển, đầu tư để ngày càng khang trang, đầy đủ hơn
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo.
Tuy nhiên, công tác xã hội hóa giáo dục ở đơn vị vẫn chưa phát huy một
cách toàn diện sự tham gia của toàn thể cộng đồng, mỗi người dân, công tác tuyên
truyền cả bề rộng lẫn chiều sâu chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Còn một bộ phận
gia đình cha mẹ học sinh có tư tưởng giao khoán chuyện dạy dỗ, giáo dục con cái
cho thầy cô, nhà trường, thờ ơ đến các hoạt động giáo dục, nhận thức rất hạn chế so
với sự phát triển giáo dục trong tình hình mới.
1


Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, muốn phát triển nhà


trường nhanh và bền vững phải ra sức làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, khi và
chỉ khi mọi người dân, mọi gia đình trên địa bàn quản lý nhận thức sâu sắc về giáo
dục, cùng nhau chăm lo, hiến kế để trường học phát triển, tích cực tham gia vào các
hoạt động của ngành với tinh thần tự nguyện, tâm huyết nhất, khi ấy nhà trường
mới là chỗ dựa đáng tin cậy của cộng đồng, góp phần giáo dục thế hệ trẻ trở thành
những người lao động có tri thức, công dân hữu ích cho xã hội, địa phương sau này.
Tôi cho rằng, trong khi ngân sách chi cho giáo dục còn hạn hẹp, thì nguồn
huy động vật chất từ cha mẹ học sinh, tổ chức xã hội đem lại cho con em họ môi
trường giáo dục tốt. Nếu toàn xã hội và các gia đình quan tâm với công tác xã hội
hóa giáo dục thì con em của chúng ta được hưởng môi trường giáo dục tốt hơn.
Chính vì thế, là một cán bộ quản lý nhà trường tôi nhận thức đầy đủ tầm quan trọng
của công tác xã hội hóa giáo dục nên mạnh dạn chọn đề tài này để cùng chia sẻ,
học tập kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, các đơn vị thực hiện tốt công tác xã hội
hóa.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2


Phần I. Thực trạng của vấn đề
Trường Tiểu học Võ Miếu 2 có 24 lớp, được đặt ở 1 điểm trường chính và 3
điểm trường lẻ với tổng số học sinh 571 em. Nơi đây có dân tộc Kinh, Mường và
dân tộc Dao cùng sinh sống, điều kiện kinh tế khó khăn. Là một xã thuần nông: đất
chật người đông, dân cư sống chuyên canh nghề nông, mua bán nhỏ, một số hộ dân
không có đất canh tác họ phải đi làm thuê kiếm sống, họ thường đi làm ăn xa mang
con theo cái hoặc phó thác việc học tập của con em mình cho nhà trường.
Bên cạnh những khó khăn chung, nhiều học sinh không có đủ sách vở, quần
áo đi học, các em học sinh lớp 4,5 phải phụ giúp gia đình, một số ít học sinh nhà xa
trường (khoảng cách 3km) phải đi qua một khu dân cư mới đến trường nên việc học
tập của các em có phần hạn chế. Sách giáo khoa không đủ để đáp ứng cho hoạt

động dạy-học. Sân trường không bằng phẳng để các em sinh hoạt vui chơi, học tập,
phòng học xuống cấp, không đủ ánh sáng. Chất lượng học tập còn thấp so với bình
quân chung của toàn huyện. Một bộ phận cha mẹ học sinh nhận thức về công tác xã
hội hóa còn hạn hẹp, nghĩ là việc đó của nhà nước, nhà trường. Dân ở nơi đây khó
khăn về kinh tế, phần đông làm thuê để sinh sống, nên công tác xã hội hóa không
vận động rộng rãi trong địa bàn, chỉ có một số ít nhà hảo tâm, mạnh thường quân đi
làm ăn xa thường xuyên đóng góp hỗ trợ cho nhà trường.
Công tác tuyên truyền vận động xã hội làm công tác xã hội hóa giáo dục
chưa đi vào chiều sâu, người dân thường giao khoán cho nhà trường.
Các phiên họp cha mẹ học sinh định kì do trường tổ chức, số lượng phụ
huynh tham dự rất ít nên việc trao đổi, bàn bạc về vấn đề học tập không được thuận
lợi.
Nhu cầu về cơ sở vật chất vẫn chưa được đáp ứng kịp thời như: hàng rào, sân
chơi, bãi tập, ánh sáng trong lớp học,…rất cần sự đóng góp từ phía xã hội để chăm
lo cho giáo dục.

3


Các phong trào ngành phát động, nhà trường chỉ tập trung cho công tác giảng
dạy là chính, chưa đầu tư đúng mức nên trong những năm qua không gặt hái nhiều
thành tích.
Trong nội bộ nhà trường chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác xã hội
hóa giáo dục; phương pháp, cách thức tiến hành xã hội hóa giáo dục còn mang tính
tự phát chưa tuân thủ theo quy trình, các nguyên tắc cơ bản nhằm thực hiện đạt hiệu
quả cao.
Từ thực trạng trên, cần xây dựng mục tiêu phấn đấu của trường, từng bước
làm chuyển biến nhận thức trong đội ngũ cán bộ, giáo viên và củng cố lòng tin đối
với xã hội. Đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển nhà trường trong xu thế
chung của ngành giáo dục. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, thực hiện phương

châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” góp phần tạo ra môi trường giáo dục thân
thiện, hợp tác, cộng đồng trách nhiệm vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ đúng theo
quan điểm của Đảng: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”.
Phần II: Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Quán triệt trong nhà trường mục đích xã hội hóa giáo dục:
Để hiểu và thực hiện đúng vấn đề xã hội hóa giáo dục cần nhận thấy các đối
tượng có thể huy động tham gia xã hội hóa giáo dục gồm: Lãnh đạo Đảng, chính
quyền các cấp (lực lượng quan trọng quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà
trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều kiện cho việc xã hội hóa giáo
dục triển khai thuận lợi); gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh
(lực lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường
và cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
đối với học sinh); các cơ quan, ban ngành (nhất là các ngành có chức năng, có trách
nhiệm đối với nhà trường như Y tế, Công an, Bảo vệ, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ
em, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến
học, các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện,…); các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch
vụ tạo khả năng liên kết trong việc huy động các nguồn lực vật chất; bản thân
4


ngành giáo dục đào tạo cũng là một đối tượng để xã hội hóa giáo dục; các tổ chức
quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân”...
Trong quá trình huy động đối tượng thực hiện hiệu quả công tác xã hội hóa
giáo dục cần thực hiện tốt nguyên tắc huy động cộng đồng tham gia xây dựng giáo
dục gồm:
Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của
cả hai phía: nhà trường và cộng đồng, mỗi bên tham gia đều cần tìm thấy lợi ích
chung của cá nhân, tập thể.
Nhà trường cũng như các lực lượng xã hội, các tổ chức,... đều có những chức
năng và trách nhiệm riêng. Để khai thác, phát huy, khuyến khích họ tham gia vào

một hoạt động nào đó thì phải phát hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của
đối tác. Thí dụ: Đối với cấp ủy và chính quyền địa phương thì nội dung huy động
phải là chủ trương, văn bản chỉ đạo, hoặc đất xây dựng,...
Tạo môi trường công khai, bình đẳng để cộng đồng hiểu đúng về giáo dục và
nhà trường hơn, đồng thời góp phần thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” các hoạt động xã hội hóa giáo dục để mối quan hệ giữa nhà
trường, gia đình và xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực.
Cán bộ quản lý giáo dục phải biết lựa chọn thời gian thích hợp nhất để đưa ra
một chủ trương xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc này là phải
xây dựng cho được kế hoạch cụ thể và kế hoạch mang tính định hướng.
Khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo lý, đề cao sự học,
đề cao giá trị của học vấn... của mỗi gia tộc, dòng họ; niềm tin của cá nhân vào sự
nghiệp phát triển chung của giáo dục, của từng nhà trường để có thể huy động
nhiều nguồn lực khác nhau chăm lo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa địa phương và ngành giáo dục, “nhà
trường gắn liền với xã hội”.
Kế hoạch hóa là một trong bốn chức năng quản lý và là một chức năng mang
tính chủ đạo trong quá trình quản lý của người Hiệu trưởng. Kế hoạch xã hội hóa
5


giáo dục được xây dựng trên một số yếu tố sau: Mục tiêu của việc huy động xã hội;
xác định đối tượng huy động; kết quả dự kiến đối với từng đối tượng; thời gian
thích hợp nhất; nguyên tắc ưu tiên để sử dụng trong quá trình triển khai thực hiện
huy động cộng đồng; sự phân công một số thành viên trong chủ thể huy động; chi
tiết hóa kế hoạch và hệ thống giải pháp cụ thể.
Kinh nghiệm cho thấy, trong nhiều trường hợp đối tượng tham gia xã hội hóa
giáo dục tuy ít nhưng lại cho những kết quả bất ngờ nếu như người cán bộ quản lý
giáo dục biết đột phá vào các bước phát triển quan trọng có thể làm thay đổi chất
lượng giáo dục. Ngành giáo dục và đào tạo là lực lượng nòng cốt trong việc triển

khai công tác xã hội hóa giáo dục trong đó bản thân nhà trường, cán bộ quản lý
giáo dục cùng tập thể sư phạm, đội ngũ giáo viên giữ vai trò quan trọng trong quá
trình giảng dạy và giáo dục trẻ.
Mặt khác, mỗi nhà giáo có mối quan hệ xã hội rất rộng bởi vì họ có rất nhiều
cha mẹ học sinh. Chính quyền các cấp với chức năng quản lý Nhà nước của mình
không chỉ huy động, khuyến khích mà còn tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động và
tổ chức điều hành sự phối hợp các lực lượng xã hội tham gia xây dựng và phát triển
giáo dục.
Trong quá trình quản lý, tổ chức mọi hoạt động giáo dục, phương châm đặt
ra là phải xã hội hóa, trong đó có phân tích đánh giá tiềm năng của cộng đồng, năng
lực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, xác định nội dung cần phối hợp, phân
định trách nhiệm rõ ràng, luôn lắng nghe ý kiến, dư luận xã hội về nhà trường để từ
đó điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với thực tiễn.
2. Định hướng mục tiêu phát triển đơn vị:
Đây là công việc phải đầu tư đúng mức, phù hợp với nhiệm vụ từng năm học
do ngành đề ra. Trong huy động xã hội hóa giáo dục gắn với việc xây dựng nhà
trường đạt được các tiêu chí trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, mức chất lượng
tối thiểu trường Tiểu học.

6


Điều quan trọng là phải xây dựng kế hoạch cụ thể, vừa sức mang tính khả
thi. Mỗi nội dung công việc đều được thông qua các tổ chức xã hội, các ban ngành
đoàn thể địa phương, Ban đại diện cha mẹ học sinh, những cá nhân có uy tín, ảnh
hưởng lớn trong địa bàn quản lý.
Vào dịp khai giảng mỗi năm học, trường phải nêu được những việc cần làm,
tham khảo ý kiến để hoàn chỉnh các điều kiện thực hiện, khi mọi người có ý kiến,
tham gia hiến kế thì trong triển khai, tổ chức thực hiện sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn.
Lưu ý: trường học chỉ dừng lại xin “chủ trương” thực hiện chứ không “xin

tiền”, vì khi xã hội thấy điều đó cần làm, thiết thực, giải quyết được bức xúc nào đó
trong hoạt động dạy học, thì mọi việc sẽ nhận được sự hỗ trợ đến nơi đến chốn.
Ví dụ: Đặt vấn đề về xây dựng sân chơi để các em có được các hoạt động vui
chơi bổ ích góp phần giáo dục toàn diện, tránh được những thói hư tật xấu. Hỗ trợ
trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy-học; giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn để các em được cắp sách đến trường đảm bảo quyền được học hành của
trẻ,….Những vấn đề đó khi nhà trường đưa ra bàn bạc thì các lực lượng sẽ đồng
tình ủng hộ ngay.
Nếu nhà trường làm được như vậy, các tổ chức, cá nhân cảm thấy mình được
tôn trọng, nhận rõ trách nhiệm vì sự phát triển chung, dám đầu tư suy nghĩ làm và
làm cho bằng được, bổ sung những vấn đề chưa được, hiệu quả cao, ngày càng thấy
gắn bó với trường lớp hơn phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường-gia đình và xã hội.
Qua nhiều năm thực hiện, các tổ chức cá nhân đã có sự chuyển biến tích cực,
cùng làm giáo dục, xem giáo dục là của mỗi gia đình, mỗi người. Mọi sự huy động
đóng góp cho nhà trường đều được tiến hành thuận lợi, mọi người cảm thấy tự hào
khi mình có đóng góp vào cái chung ấy.
3. Tạo ra vấn đề bức xúc cần giải quyết:
Ngoài định hướng mục tiêu phát triển như trên, bản lĩnh của người quản lý
nhà trường là phải biết tạo ra tình huống thật sự, việc làm trước mắt mọi người để
lôi cuốn tất cả các lực lượng vào cuộc, chung vai gánh vác với nhận thức trách
7


nhiệm cùng nhau làm, không đắn đo, so sánh mà muốn trường được đẹp hơn, hoàn
thiện hơn.
Khơi dậy tính tập thể, tính quần chúng trong giải quyết công việc, không
được đứng riêng lẻ. Xem phối hợp các lực lượng thường xuyên, liên tục là trọng
tâm trong quản lý giáo dục ở đơn vị. Tuy nhiên, không phải việc gì cũng huy động
mọi lực lượng, tổ chức qui mô, nên cân nhắc các tính chất, mức độ để vừa làm, dễ
quan hệ, gọn nhẹ nhưng đạt kết quả mong muốn.

Xã hội, cộng đồng muốn san sẻ, lo toan cho giáo dục, nhưng điều gì cần san
sẻ, lo toan cái gì và lo như thế nào thì lại là sự chủ động, sáng tạo trước hết từ phía
nhà trường. Với tư cách là cơ quan chuyên môn không chỉ đề xuất các nhu cầu, giải
pháp mà còn chủ động đặt ra tình huống, nêu được vấn đề bức xúc để tranh thủ
cộng đồng chia sẻ cùng tổ chức thực hiện.
Chẳng hạn: muốn đổi mới phương pháp dạy học thì điều kiện học tập của
học sinh, giảng dạy của giáo viên phải đầu tư tốt hơn, từ đó các lực lượng xã hội
nhận thức được sẽ cùng chăm lo với nhà trường.
Để vận động một học sinh bỏ học có khi cần một người có uy tín ảnh hưởng
đến gia đình các em, như thế thì hiệu quả hơn nhiều (ít tốn thời gian, công sức).
Bằng cách làm này, nhà trường đã san lắp mặt bằng cổng trường điểm lẻ
Thanh Hà vận động được gần 10 triệu đồng hỗ trợ trực tiếp cho học sinh khó khăn.
4. Đẩy mạnh công tác tham mưu, tuyên truyền giáo dục:
Muốn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục thì công tác tham mưu và tuyên
truyền vận động là vô cùng quan trọng, tham mưu phải biết cách, tuyên truyền vận
động phải khôn khéo và tạo được lòng tin trên cơ sở dựa vào các văn bản pháp quy.
" Không có lí luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng " (Lê nin).
Trong quá trình tuyên truyền, tham mưu thực hiện công tác xây dựng cơ sở
vật chất cần lưu ý:
Phải căn cứ vào tính cấp bách, yêu cầu cụ thể và khả năng thực hiện để đề ra
nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài theo từng giai đoạn. Vấn đề đặt ra là tham
8


mưu phải có hiêu quả, phải đảm bảo tính khả thi và huy động cao nhất nội lực sẵn
có. Việc xây dựng, mua sắm phải đảm bảo tính lâu dài, tính bền vững không chắp
vá và đảm bảo tính khoa học cao.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, nhà trường đã định hướng nội dung công tác
xã hội hóa giáo dục hàng năm, tích cực tham mưu với Đảng ủy, Ủy ban nhân dân
xã, đưa ra bàn bạc công khai, dân chủ trong ngày khai giảng, họp cha mẹ học sinh

đầu năm học. Qua thống nhất ý kiến chung, tất cả các bên chắc lọc những vấn đề
trọng tâm cần giải quyết trước mắt cũng như lâu dài theo khả năng thực tế, đồng
thời tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể cộng động nhằm tranh thủ sự đồng thuận
chung trong tổ chức thực hiện. Với quy trình tham mưu, tuyên truyền xã hội hóa
giáo dục như trên, nhìn chung hàng năm nhà trường đều huy động tốt các nguồn
lực để giải quyết cơ bản những yêu cầu bức thiết đặt ra, tích lũy thêm kinh nghiệm
thực tiễn nhằm cải tiến, đổi mới cách làm đem lại hiệu quả cao.
5. Xây dựng mối quan hệ, phối hợp:
Trong Điều lệ trường Tiểu học cũng đã qui định trường Tiểu học có nhiệm vụ
phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện các
hoạt động giáo dục. Trách nhiệm của nhà trường phải chủ động phối hợp thường
xuyên và chặt chẽ với gia đình, Ban đại diện cha mẹ học sinh để xây dựng môi
trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục. Huy
động mọi lực lượng của cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng
phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh.
Từ đó, đơn vị đã xây dựng được mối quan hệ theo chức năng, nhiệm vụ cụ
thể. Chỉ có quan hệ tốt, phối hợp đồng bộ thì công việc chung của nhà trường mới
được giải quyết, xử lý kịp thời đạt hiệu quả.
Nhà trường là môi trường “Văn hóa giáo dục” của địa phương, nơi trực tiếp
tiến hành công tác giáo dục và phối hợp các lực lượng xã hội, gia đình cùng chăm
lo công tác giáo dục từ xây dựng cảnh quan sư phạm, cơ sở vật chất, nền nếp kỉ

9


cương, chất lượng giảng dạy, học tập,…cho đến việc giám sát, đánh giá các hoạt
động giáo dục do trường tổ chức.
Tham mưu với cấp ủy, Ủy ban nhân dân địa phương đề ra được các Nghị
quyết về giáo dục, giúp Ủy ban nhân dân chỉ đạo, huy động các lực lượng xã hội
tham gia vào xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển có chất

lượng và hiệu quả cao.
Trường học luôn thực hiện xã hội hóa giáo dục, xây dựng được môi trường
đồng bộ từ gia đình, nội bộ nhà trường và trong xã hội, để xã hội chăm lo, giúp đỡ
nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn được nhân dân giao phó.
Vì vậy mọi hoạt động của đơn vị được các lực lượng trong và ngoài nhà
trường ủng hộ, vừa làm vừa góp ý rút kinh nghiệm, có sơ kết đánh giá những mặt
hạn chế, tồn tại trong mối quan hệ phối hợp. Từ đó, xây dựng niềm tin lẫn nhau,
cùng nhau tháo gỡ khó khăn bức xúc.
6. Trân trọng những đóng góp của các tổ chức, cá nhân:
Xã hội hóa giáo dục cũng như xã hội hóa trên các lĩnh vực khác. Khi nhận
thức đúng đắn và tự nguyện tham gia đóng góp không ai mong muốn sẽ được đền
trả, mà luôn mong đợi xã hội ghi nhận, điều đó mang lại niềm vui và có tác động
rất lớn về mặt tinh thần.
Đây là một vấn đề hết sức tế nhị, trường cần thấu hiểu tâm tư nguyện vọng
của cá nhân được khen. Việc kê khai thành tích, khen thưởng không bao giờ thực
hiện được; khâu này nhà trường phải đảm nhận, trên cơ sở tham khảo ý kiến trao
đổi trước để thống nhất (vì tất cả đều thích làm vì công việc chung chứ không phô
trương thành tích cá nhân).
Thực trạng hiện nay cùng với xã hội hóa giáo dục trên lĩnh vực giao thông,
thủy lợi, y tế, thể dục thể thao,…cũng xã hội hóa rộng rãi. Nên dù đóng góp nhỏ
hay lớn đều cũng là những tâm huyết đối với sự phát triển giáo dục cần được nhà
trường trân trọng và phát huy, cần nhân rộng điển hình tốt để tạo chất men kích
thích tham gia của tất cả mọi người, mọi gia đình.
10


7. Tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm:
Nhà trường đã tổ chức họp định kì nhằm đánh giá lại công tác xã hội hóa
giáo dục, điểm gì chưa được thì khắc phục, điểm gì đã được thì phát huy… Phần
đông cha mẹ học sinh đều có ý kiến nhà trường cần có tuyên truyền rộng rãi hơn

nữa; thông tin kịp thời để cha mẹ học sinh hiểu được việc làm cụ thể chủ trương xã
hội hóa giáo dục; biểu dương các gương điển hình đối với các nguồn thu từ huy
động các nguồn lực; cùng với Ban đại diện cha mẹ học sinh sử dụng nguồn đầu tư
cho hiệu quả; thường xuyên trao đổi thông tin; thành lập Hội đồng tư vấn, làm công
tác xã hội hóa giáo dục cùng với nhà trường đề ra phương hướng cụ thể xã hội hóa
giáo dục trong thời gian tới. Mặc dù, chủ trương xã hội hóa giáo dục được mọi
người đánh giá là đúng đắn, tuy nhiên trong quá trình thực hiện, vẫn còn nhiều
người chưa hiểu và ủng hộ công tác xã hội hóa giáo dục như: tham gia cùng với
nhà trường hỗ trợ ủng hộ việc dạy và học, tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho
các học sinh, chăm lo cơ sở vật chất điều kiện dạy và học… để công tác xã hội hóa
giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
Phần 3: Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua ba năm áp dụng các biện pháp tiến hành công tác xã hội hóa giáo dục
(từ năm 2013 đến năm 2015), nhà trường đã vận động các nguồn lực trong và ngoài
địa phương với tinh thần chủ động, thực hiện theo mục tiêu cụ thể đã đề ra, các
thành phần tham gia công tác này được mở rộng, nguồn đóng góp ngày càng tích
cực hơn, cụ thể:
Mỗi dịp lễ, tết nhà trường cùng các đoàn thể tổ chức thăm hỏi, tặng quà
nhằm khích lệ tinh thần đối với sự nghiệp giáo dục, tạo tình cảm gắn bó, thân thiết,
gần gũi giữa nhà trường với cả cộng đồng.
Nhiều năm qua phát huy công tác xã hội hóa giáo dục, mọi lực lượng xã hội
cùng tham gia làm giáo dục, nên bước đầu đã tháo gỡ được khó khăn, tạo ra môi
trường thuận lợi nhằm đáp ứng nhu cầu dạy và học.

11


Sự đồng thuận của toàn xã hội đối với các hoạt động nhà trường rất rõ nét,
khi được thống nhất, triển khai đều nhận được sự đồng tình, hưởng ứng mạnh mẽ,
duy trì được hoạt động thường xuyên, lâu dài.

Ngoài ra, các lực lượng xã hội chẳng những tham gia đóng góp tiền của,
công sức mà còn hiến kế cho trường thực hiện các giải pháp hiệu quả, có bước đột
phá, sáng tạo dẫn đến kết quả khả quan như mong muốn.
1. Về chất lượng học tập và công tác duy trì sĩ số:
Phong trào xã hội hoá giáo dục đã góp phần quan trọng động viên, khích lệ
giáo viên, học sinh nỗ lực vươn lên đạt thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
Số lượng học sinh giỏi tăng qua các năm, cụ thể:
Năm học

TSH
S

Giỏi
SL
%

Khá
SL
%

TBình
SL
%

Yếu
SL

%

2012-2013


378

55

14,6

137

36,2

173

45,8

13

3,4

2013-2014

398

64

16,1

148

37,2


180

45,2

6

1,5

2014-2015
2. Kết quả thi đua các phong trào:
Có thể nói, bậc tiểu học chúng tôi là nơi phát hiện ra tài năng, còn vun đắp
cho nó phát triển là gia đình và xã hội, nhờ vào sự vận động gia đình và xã hội
tham gia xã hội hóa giáo dục nên mới có được kết quả:
Kết quả thực hiện
Phong trào thi đua

- Giáo viên dạy giỏi.
-Viết sáng kiến kinh
nghiệm

Năm học 2014-

Năm học 2012-

Năm học 2013-

2013

2014


cấp huyện: 02

cấp huyện: 02

cấp huyện: 02

cấp huyện: 06

cấp huyện: 08

cấp huyện: 10

2015

12


- Học sinh giỏi lớp 5

cấp huyện: 02

- Học sinh tham gia
HKPĐ
- Học sinh thi kể

cấp huyện: 04

cấp huyện: 06


cấp huyện: 03

cấp huyện: 04

chuyện về tấm
gương đạo đức Bác

01 giải ba cấp
huyện

Hồ
Tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục, vận động học sinh bỏ học, tổ
chức nhiều hoạt động phong trào, cùng nhiều đóng góp khác mang lại hiệu quả
thiết thực, tạo nên phong trào xã hội hóa giáo dục sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân
dân.
Tuy nhiên, trong việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục với những giải
pháp tiến hành như trên vẫn còn một số tồn tại nãy sinh cần tiếp tục nghiên cứu,
tháo gỡ là: các lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động nhà trường bằng công
sức, tiền của là chính, chứ chưa hiến kế hay để giúp nhà trường đột phá phát triển
mạnh hơn, nhanh hơn. Việc nắm bắt kịp thời thông tin, dư luận trong cộng đồng
nhằm bổ sung, điều chỉnh công việc còn nhiều hạn chế.
3. Nguyên nhân thành công và những tồn tại:
3.1. Nguyên nhân thành công.
- Tạo được lòng tin với xã hội, trong đó khâu quan trọng nhất là nâng cao
chất lượng dạy-học, duy trì sĩ số hàng năm, không có học sinh bỏ học giữa chừng
và sự chuyển biến của đội ngũ cán bộ giáo viên.
- Sự quan tâm và hỗ trợ kịp thời của cấp Ủy,chính quyền và Phòng Giáo dục.
- Ban Đại diện cha mẹ học sinh nhiệt tình, năng nổ, đặc biệt là vai trò của
trưởng Ban đại diện cha mẹ học sinh đã làm tốt cầu nối giữa nhà trường với doanh
nghiệp và phụ huynh.

- Nhà trường có định hướng và xây dựng kế hoạch vận động xã hội hóa giáo
dục rõ ràng.
13


- Tác động đúng lúc, đúng chỗ các nhà hảo tâm và phụ huynh, các mạnh
thường quân.
- Công tác tuyên truyền vận động phù hợp, không gây tâm lí căng thẳng,
phụ huynh thể hiện sự đóng góp tự nguyện.
3.2. Những tồn tại.
- Vận dụng nguồn quỹ đối lưu gặp nhiều khó khăn, nghĩa là xã hội hóa 2
phần trường cũng phải đầu tư vào1 phần.
- Phân công thành viên trong Ban đại diện cha mẹ học sinh tổ chức vận động
gặp khó, thường thì các doanh nghiệp đầu tư nhiều là những đối tác gần gũi với
thành viên của Ban đại diện cha mẹ học sinh có quan hệ kinh tế trong cuộc sống.
Từ những khó khăn chung trong công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường
trong thời gian qua, bản thân đúc kết một vài cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề:

III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận:
14


Xã hội hóa giáo dục là một việc làm cần thiết cần đẩy mạnh hơn nữa, làm
cho cuộc vận động này được tiến hành sâu rộng, xuyên suốt trong các hoạt động
của nhà trường, nhằm nâng cao nhận thức, thống nhất về tư tưởng trong các lực
lượng xã hội, các tầng lớp nhân dân góp phần đưa các chủ trương, Nghị quyết của
Đảng về xã hội hóa giáo dục đi vào cuộc sống xã hội. Thực tiễn đã chứng minh nơi
nào có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, quản lý và điều hành của Nhà nước, các Hội
nghề nghiệp (như Hội khuyến học, Ban Đại diện cha mẹ học sinh,…) được củng cố

và hoạt động tốt, sự đồng thuận của Ban ngành đoàn thể, cộng đồng dân cư thì nới
đó có phong trào xã hội hóa giáo dục tốt.
Xác định mục tiêu xã hội hoá giáo dục là xây dựng môi trường giáo dục
trong sạch, lành mạnh; tăng cường sự phối hợp giữa ngành giáo dục với các ban,
ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; huy động nhân lực, vật
lực, kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ cho giáo dục, huyện đã tập trung xây
dựng môi trường giáo dục nền nếp, văn minh trong và ngoài nhà trường thông qua
quy chế, nội quy đối với thầy và trò, thông qua các tổ chức Đoàn, Đội. Vài năm trở
lại đây, hoạt động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể được ngành chú trọng,
tranh thủ sự quan tâm của nhiều cấp, ngành tham gia quản lý con em học sinh ở gia
đình và cộng đồng. Ngoài ra còn chỉ đạo các ấp, tổ tự quản, xây dựng các quy ước,
hương ước và thực hiện tốt nội dung, tiêu chí giáo dục trong phong trào xây dựng
làng xóm, ấp văn hoá. Các hoạt động vui chơi lành mạnh cho các em học sinh được
duy trì.
Vai trò quản lý, chỉ đạo:
Xã hội hóa công tác giáo dục là cuộc vận động lớn trong xã hội có sự lãnh
đạo chặt chẽ của cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của Uỷ ban nhân dân xã, trong
đó vai trò nồng cốt là của trường học. Nếu được thực hiện tốt, có hiệu quả sẽ tạo ra
được động lực mới cho sự phát triển giáo dục nói chung và của từng trường học nói
riêng.

15


Gắn nhà trường với đời sống cộng đồng, do cộng đồng thực hiện và lợi ích
của cộng đồng. Vì thế, đòi hỏi nhà trường, cán bộ quản lý phải suy nghĩ đề ra các
giải pháp thực hiện từng giai đoạn cho phù hợp với tình hình, xu thế phát triển với
phương châm: Kiên trì, không ngại khó, sát thực tiễn và cả tính quyết đoán.
Người lãnh đạo, quản lý phải đặt công tác này ở vị trí xứng tầm hơn, tạo ra
sự toàn tâm, toàn ý trong cộng đồng. Đầu tư để phát triển nhà trường, đạt được mục

tiêu đào tạo của ngành giáo dục, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, các cuộc
vận động lớn, đặc biệt là phải hướng đến nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Về chuyên môn, sư phạm:
Nghiên cứu kỹ các văn bản hướng dẫn, quan điểm chỉ đạo về xã hội hóa giáo
dục của các cấp ủy Đảng, từ đó định hướng công việc đúng đắn, tránh những sai sót
hạn chế.
Nắm bắt tình hình thực tiễn, ước mơ của gia đình trong việc dạy dỗ, giáo dục
con cái, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong tham gia cùng làm giáo dục
(thông qua các lần họp cha mẹ học sinh, họp Hồi đồng giáo dục, các lễ hội của nhà
trường). Lắng nghe ý kiến đóng góp về nhà trường để bổ sung điều chỉnh.
Tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường tích cực tham gia vào công
tác xã hội hóa giáo dục ngay trên lớp học, phạm vi toàn trường, nâng cao hiệu quả
công tác này qua từng năm.
Trên cơ sở những việc đã vận dụng tại đơn vị, hướng tới sẽ phát huy kết quả
đạt được trong thời gian qua, đồng thời nghiên cứu, bổ sung nhiều hình thức vận
động xã hội hóa giáo dục. Đưa ra mọi hoạt động của nhà trường gần gũi với đời
sống cộng đồng. Nâng cao hơn nữa nhận thức đối với mỗi người dân, mỗi gia đình,
sao cho chuyện giáo dục là cần thiết, quan trọng trong đời sống của mọi người. Khi
xã hội, cộng đồng nhận thức đầy đủ, đúng đắn sẽ chuyển đổi được những hành vi
theo nhận thức đó.
Công tác xã hội hóa giáo dục đạt kết quả cao hơn cùng với sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, sự phát triển của ngành giáo dục đào tạo, đáp ứng ngày càng
16


tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, xây dựng nhà trường thành trung tâm văn
hóa của địa phương./.
2. Những kiến nghị, đề xuất:
. Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp của các cấp,
các ngành trong công tác xã hội hóa giáo dục nhằm tạo được sức lan tỏa cả bề rộng

lẫn chiều sâu, nâng cao hiệu quả, chuyển biến tích cực qua từng năm.
. Cần thường xuyên chú trọng đến việc sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân
rộng mô hình xã hội hóa giáo dục tốt cho các đơn vị học tập, vận dụng vào thực
tiễn công tác.
Võ Miếu, ngày 31 tháng 12 năm 2015
NGƯỜI VIẾT

Đinh Mạnh Tuấn
.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17


1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
2. Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XI
3. Văn kiện Hội nghị lần thứ II của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII.
4. Tài liệu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
5. Nghị quyết số 05/2005/NQCP ngày 18/4/2005 về việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục các hoạt động y tế, văn hóa, thể dục thể thao.
6. Xã hội hóa công tác giáo dục của Giáo sư-Tiến sĩ Phạm Minh Hạc.
7. Báo cáo tổng kết của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Trường.
8. Báo cáo tổng kết của đơn vị.
9. Nghị quyết của Chi bộ.

18




×