Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

CHUYÊN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 41 trang )

CHƯƠNG TRÌNH NGOẠI KHÓA CHUYÊN ĐỀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN Ở
TRƯỜNG THPT NGUYỄN HUỆ NĂM HỌC 2017 -2018
1. Tuyên bố lý do, giới thiểu đại biểu: cô Hồ Thị Thu Hương
2. Thông qua báo cáo chung của chuyên đề: cô Võ Thị Xuân Thảo
3. Báo cáo tham luận
a. Cô Nguyễn Thị Mỹ Hoa
Giúp học sinh hứng thú trong giờ học Ngữ văn.
b. Cô Lê Thị Tố Nguyên
Hướng dẫn học sinh cách học trên lớp và ở nhà.
c. Cô Trần Thị Kim Lợi
Giúp đỡ học sinh yếu viết được đoạn văn nghị luận xã hội.
d. Cô Trần Thị Hạnh
Rèn kỹ năng làm bài tập Đọc hiểu cho học sinh.
e. Cô Hồ Thị Thu Hương
Chú trọng khâu đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá đối với học
sinh
g. Cô Võ Thị Xuân Thảo
Kỹ năng làm bài thi THPT Quốc gia đạt kết quả tốt nhất
Sau mỗi báo cáo tham luận của giáo viên, các đại biểu tham gia đóng góp
ý kiến
4. Ý kiến chỉ đạo của BGH
5. Kết thúc chuyên đề
Thư ký : cô Hoàng Oanh

1


CHUYÊN ĐỀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN TRƯỜNG THPT
NGUYỄN HUỆ


Năm học 2017-2018
Thực hiện 09 nhiệm vụ trọng tâm và 05 giải pháp trong năm học 20172018; thực hiện sự chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai về triển khai
thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2017-2018 và Kế hoạch năm
học 2017-2018 của nhà trường, tổ Ngữ văn trường THPT Nguyễn Huệ triển
khai nghiêm túc chỉ đạo của cấp trên, thảo luận, bàn bạc đi đến thống nhất
những đánh giá về thực trạng cũng như đề ra các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng bộ môn như sau
I.
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CỦA TỔ
Tổ Ngữ Văn Trường THPT Nguyễn Huệ gồm có 09 thành viên trong đó
Nữ: 09
Dân tộc: 01
Nữ dân tộc: 01
Đảng viên: 03 Nữ: 03
Nữ dân tộc: 01
100% giáo viên đạt chuẩn, tất cả giáo viên trong tổ đều có thời gian 10
năm công tác trở lên. Các thành viên trong tổ đều yêu nghề, yên tâm và nhiệt
tình công tác. Nhiều đồng chí trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, một
số giáo viên nhiệt tâm, nhiệt tình có năng lực và triển vọng tốt.
Trong những năm gần đây tổ luôn đạt được danh hiệu tổ lao động tiên
tiến; 100 % giáo viên trong tổ đạt danh hiệu LĐTT trở lên.
Các thành viên trong tổ đoàn kết thân ái, giúp đỡ nhau trong cuộc sống
cũng như trong công tác.
Tổ luôn nhận được sự quan tâm của Chi bộ, của Ban giám hiệu và
được sự giúp đỡ của các tổ chức trong nhà trường.
II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ VIỆC DẠY VÀ HỌC MÔN NGỮ
VĂN
1. Chất lượng môn Ngữ văn
a. Chất lượng môn Ngữ văn Trường THPT Nguyễn Huệ năm học 20162017
Khối


TB trở lên

Dưới TB

12

100%

0

11

91%

9%

10

87%

13%

2


b.Tỉ lệ tốt nghiệp 12 đạt:
48,04 %
Tỉ lệ tốt nghiệp môn Ngữ Văn của Tỉnh : 58,2%
TT


Họ và tên

Lớp

Sĩ số

Dưới TB
SL

Trên TB
TL

SL

TL

01

Võ Thị Xuân Thảo

A1,A8

78

37

47,4

41


52,6

02

Trần Thị Kim Lợi

A3,A6

76

44

57,9

32

42,1

03

Nguyễn T. Mỹ Hoa

A5

38

20

52,6


18

47,4

04

Hồ Thị Thu Hương

A2,A7

75

35

46,7

40

53,3

06

Lê Thị Tố Nguyên

A4

38

21


55,2

17

44,8

Qua thực tế việc học tập, ôn luyện của học sinh; giảng dạy của giáo viên
và kết qủa đạt được chúng tôi đưa ra những ý kiến sau:
• Về phía học sinh: Học sinh 12, nếu chọn thi ĐH khối A, B hầu hết là bỏ
hẳn hoặc lơ là trong việc học bộ môn Ngữ văn ; phương châm của các em
đó là không liệt là ổn, chỉ là đủ điều kiện xét tốt nghiệp. Vì thế, ngay cả
những em có khả năng đạt điểm trung bình cũng không cần nhu cầu ôn
tập nên dẫn đến kết quả thấp.
Những lớp trong quá trình học tập và đặc biệt là giai đoạn ôn tập cho thi
tốt nghiệp mà không tập trung, chểnh mảng thì kết quả rất thấp.
• Về phía giáo viên chủ nhiệm: Những giáo viên nào nghiêm khắc, theo
dõi, đôn đốc, có sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn;
giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh thì việc học tập,ôn luyện đi vào quy củ và
hiệu quả tương đối
• Về phía giáo viên bộ môn: Cần phải hệ thống hóa kiến thức một cách hợp
lý tránh gây áp lực và nhàm chán cho học sinh. Xây dựng đề cương một cách
khoa học giúp học sinh ít tốn thời gian học tập mà vẫn nắm được kiến thức cơ
bản nhất để áp dụng vào việc làm bài, kết quả cũng rất khả quan.
c. Kết quả khảo sát đầu năm (2017-2018)
Khối

12

Tổng số


365

Dưới TB

Trên TB

SL

TL%

SL

TL

197

53,97

168

46,03

d. Kết quả bài viết số I (2017- 2018)
3


Khối

Tổng số


Dưới TB
SL

Trên TB
TL%

SL

TL

10

473

79

16,7%

394

83,3%

11

396

98

24,7%


298

75,3%

12

352

82

23,3%

270

76,7

• Nhìn chung chất lượng đại trà môn Ngữ văn của trường không cao so với
mặt bằng chung của tỉnh tỉ lệ học sinh đạt khá, giỏi chưa cao. Số giải học sinh
giỏi bộ môn hằng năm vẫn có nhưng còn ít giải cao.
2. Một số nguyên nhân
a. Về phía gia đình và xã hội: Xã hội và phụ huynh học sinh cũng ít
quan tâm đến môn Ngữ văn vì theo họ, môn Ngữ văn không phục vụ thiết thực
cho thi Đại học, việc lựa chọn ngành nghề cũng nhiều hạn chế (ít trường, ít
ngành nghề, ra trường khó tìm việc làm…)
b. Về phía giáo viên:
Giáo viên đa số đã có ý thức đầu tư, đổi mới phương pháp dạy - học phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh nhưng chưa thực sự phát huy được năng lực
tư duy, sáng tạo của học sinh. Giáo viên còn nặng thói quen dạy học đọc chép vì
vậy dẫn đến học sinh sẽ không tích cực, thụ động không phát huy được khả

năng sáng tạo. Một số giáo viên còn hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ
thông tin.
Một bộ phận giáo viên chưa có đầu tư, tìm tòi sáng tạo để bài giảng có sự
hấp dẫn, chưa phát huy được sự say mê của học sinh.. Đánh giá học sinh còn
mang tính động viên, khích lệ nên tạo ra tính chủ quan cho học sinh. Chú trọng
đến việc hình thành,cung cấp kiến thức mà chưa chú trọng đúng mức tới việc
rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh (vốn là đặc trưng của bộ môn)
Các bài đưa vào chương trình có sự chọn lọc, sắp xếp có hệ thống, đảm bảo
trọng tâm kiến thức ở từng bài, thể hiện được tính tích hợp cao, đạt được mục
tiêu giáo dục của cấp học. Chương trình chuẩn và chương trình nâng cao có sự
phân hóa rõ ràng. Tuy nhiên, một số tiết còn nặng kể cả chuẩn kiến thức, kĩ
năng, một số bài còn khó cho đối tượng tiếp nhận là học sinh THPT.
c.Về phía học sinh:
Do nhu cầu nhân lực của nền kinh tế - xã hội, do tâm lí thực dụng của
học sinh hiện nay trong việc chọn ngành, nghề cho mình có thu nhập cao, nên
ban A-B “lên ngôi”, học sinh đổ xô đi học ban A, và các môn KHXH dần dần
trở thành môn phụ. Năm học 2016-2017 theo thống kê ở tất cả các trường phổ
thông, số lượng thí sinh đăng ký thi Đại học, Cao đẳng Khối C, D ngày càng
thu hẹp dần.

4


Thống kê điểm thi THPT Quốc gia của toàn quốc năm học 2016 -2017

(Nguồn Bộ GD & ĐT)
Môn Ngữ văn là môn học duy nhất thi tự luận, nhưng năng lực viết văn của
các em còn rất hạn chế. Chưa xác định trọng tâm bài viết ; văn viết lạc đề, lan
5



man; không biết xác định luận điểm chính của bài; diễn đạt vụng về, không
thoát ý; dùng từ không chính xác, viết văn không đúng phong cách.
Thậm chí, học sinh quan niệm môn Ngữ văn là môn “chém gió” nên trong quá
trình làm bài đã tán gẫu một cách tùy tiện, làm lệch lạc nội dung hoặc một chuỗi
câu vô nghĩa….
(Một vài dẫn chứng minh họa)

THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH

SL

.Thích học Đem lại những kiến thức bổ ích về văn học, xã hội, 108
văn
đời sống…; bồi đắp cho tâm hồn phonh phú, có
(177/445) vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc.
Thầy(cô) giáo tâm huyết, giảng dạy nhiệt tình, 69
lôi cuốn, hấp dẫn
Không
Ít có cơ hội để lựa chọn nghề nghiệp
thích học
Không có năng khiếu, không có sự sáng tao
văn
(268/445)
Không thích môn xã hội vì phải học bài nhiều

15.5%
34.4%

41


9.2%

47

10.6%%

đề Phương pháp học như thế nào để đạt hiệu quả cao 161
sinh
Khả năng vận dụng kiến thức đã học để làm 215
bài(kĩ năng làm văn)

6

24.26%

153

Giáo viên giảng dạy chưa nhiệt tình, khó hiểu 27
bài, ít lôi cuốn
Vấn
học

TL

6.1%
38.8%
51.8%



Có cách giảng phong phú, lôi cuốn hơn; tránh 39 9.4%
gây áp lực, giúp học sinh thấy thoải mái trong
trao đổi với giờ học
giáo viên
Ngữ văn là môn học chính yếu trong nhà trường phổ thông, nhằm trau dồi kiến
thức văn học cũng như rèn luyên kỹ năng nói và viết cho học sinh; ngoài ra còn
góp phần hình thành nhân cách, đạo đức và nuôi dưỡng tâm hồn, ý thức dân tộc
cho học sinh. Điều đáng lo lắng là môn học quan trọng này trong những năm
gần đây ngày càng suy giảm chất lượng đến mức đáng báo động. Cần thấy rõ
những nguyên nhân trên để có thể tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy
và học môn Ngữ văn.
III . GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỘ MÔN
1. Về phía nhà trường:
Có những hoạt động tích cực như trao đổi, ngoại khóa về nghề nghiệp để
học sinh và phụ huynh nhận thức rõ hơn vai trò môn học trong nhà trường và
có những định hướng trong việc chọn trường.
Nhà trường tích cực tham mưu với các cấp có thẩm quyền để hoàn thiện
cơ sở vật chất tạo điều kiện cho giảng dạy và học tập.
Chỉ đạo hoạt động tổ chuyên môn thực hiện các kế hoạch của nhà trường
có hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc các hoạt động kế hoạch kịp thời.
2. Về hoạt động của tổ chuyên môn:
Phân luồng học sinh ngay từ lớp 10 để sàng lọc được các đối tượng học
sinh và có kế hoạch thực hiện để nâng cao chất lượng. Các em yếu được bổ trợ
kiến thức, các em khá, giỏi được quan tâm và phát huy khả năng của mình.
Việc khảo sát chất lượng đầu năm dựa vào kết quả năm học trước và qua bài
khảo sát đầu năm, học sinh lớp 10 xem xét thêm kết quả môn học ở trung học
cơ sở qua học bạ. Giữa mỗi kì rà soát lại kết quả để điều chỉnh và có kế hoạch
bồi dưỡng.
Duy trì đều đặn sinh hoạt tổ chuyên môn. Cùng BGH và các tổ chức khác
trong nhà trường, tổ có sự kiểm tra thường xuyên, kiểm tra đột xuất các giờ

dạy có đánh giá xếp loại. Thường xuyên có sự trao đổi chuyên môn trong tổ,
trong trường để có phương pháp giảng dạy hay, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tổ chức dự giờ thăm lớp giữa các thành viên. Khuyến khích giáo
viên làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng dạy học hỗ trợ cho bài giảng.
Năm học 2017-2018 tổ chuyên môn có kế hoạch tổ chức các buổi sinh hoạt
chuyên đề : Tổ chức hoạt động học theo nhóm và hướng dẫn học sinh tự học;
dạy học tích hợp liêm môn.
Xây dựng bộ đề cương ôn tập dành cho học sinh khối 12 nhằm giúp cho
học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản để làm bài; lên kế hoạch ôn tập cụ
thể để giáo viên thực hiện, tổ chuyên môn tiện theo dõi…
Phối hợp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp để rèn luyện kĩ năng
cho học sinh như phát biểu theo chủ đề,
3. Về giáo viên:
7


Giáo viên cần năng động, nhiệt tình, sáng tạo trong dạy học, là người chủ
đạo, người hướng dẫn, gợi ý để học sinh tìm hiểu, tiếp nhận, khám phá các giá
trị nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm; là người định hướng cho học
sinh tìm hiểu tác phẩm, nhiều khi phải khuyến khích các em tinh thần phản biện,
tìm tòi, phát hiện những cái đẹp trong tác phẩm.
Thường xuyên tự nâng cao trình độ và hun đúc niềm say mê văn học. Có ý
thức và tinh thần trách nhiệm cao, có sự đầu tư về chuyên môn. Tích cực đổi
mới phương pháp dạy học, vận dụng phương pháp dạy học linh hoạt và sáng
tạo, khuyến khích các em tham gia tích cực vào bài học. Có thái độ ứng xử linh
hoạt và thân thiện với học sinh cùng với tâm huyết của người thầy sẽ khơi dạy
niềm yêu thích say mê văn học. Định hướng cho học sinh khá giỏi đọc tài liệu,
sách tham khảo có hiệu quả.
Kiểm tra đánh giá nghiêm túc đảm bảo công bằng nhưng cũng cần có sự
động viên khuyến khích hợp lí. Thường xuyên trao đổi trong tổ, nhóm chuyên

môn về nội dung cách ra đề kiểm
tra 15 phút, kiểm tra 45 phút, 90 phút.
Tích cực kiểm tra việc chuẩn bị bài và học bài của học sinh tạo cho học
sinh ý thức học bài và làm bài trước khi đến lớp. Cho các em những chuyên đề
nhỏ theo chủ đề học sinh hoàn thành chuyên đề ở nhà, giáo viên kiểm tra và
khuyến khích cho điểm đối với những chuyên đề tốt. Tổ chức các buổi ngoại
khóa nhỏ theo chủ đề trong phạm vi tiết học như theo thể loại kịch, trò chơi dân
gian, thi sáng tác thơ theo chủ đề...
Yêu cầu học sinh phải chuẩn bị trước và đọc kỹ tác phẩm, bước đầu cảm hiểu tác phẩm, sơ bộ nắm được chủ đề, kết cấu, trạng thái cảm xúc, hay cốt
truyện, tính cách các nhân vật. Nắm được tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm. Tác phẩm văn học là thế giới nội tâm của nhà văn, thể hiện tư
tưởng, thái độ, tình cảm của nhà văn đối với cuộc sống, khát vọng Chân- ThiệnMỹ của nhà văn. Không nắm được tiểu sử tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm, thì không thể hiểu đúng, đánh giá đúng được tác phẩm… Ôn tập, rèn
luyện kĩ năng làm văn, phát huy tính tích cực chủ động trong học tập. Nâng cao
việc tự học, tự rèn luyện, chịu khó đọc nhiều sách báo để nâng cao năng lực đọc
văn thẩm văn, tham gia viết báo, sáng tác văn học…

BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ RIÊNG CHO HỌC SINH YẾU, KÉM
1.Sớm phát hiện ra những học sinh có lực học yếu hơn với các em khác
trong lớp. Bằng nhiều hình thức, giáo viên có thể đánh giá được trình độ và khả
năng của học sinh trong tuần đầu giảng dạy, ví dụ như thông qua bài kiểm tra,
bài viết trên lớp và qua những trả lời ngắn trên lớp. Ngay từ đầu năm học, sau
khi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm, giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ
môn cần phối hợp phân tích, đánh giá kết quả đạt được của học sinh để đưa ra
các dự báo về học sinh yếu kém.

8


Cả gia đình, nhà trường và xã hội phải chia sẻ trách nhiệm trong công tác

khắc phục tình trạng học sinh yếu kém (không nên đổ lỗi hoặc giao hẳn trách
nhiệm cho giáo viên .
2. Gặp riêng các em để nói về bài kiểm tra, tinh thần ý thức học tập chưa
tốt trong việc hoàn thành bài tập về nhà, tuân thủ các quy tắc của lớp học bao
gồm cả thời gian lên lớp, … Rất nhiều học sinh luôn trốn tránh, không chịu thừa
nhận các khuyết điểm trong học tập của mình với những câu tương tự như: “Dạ
không có gì đâu thưa cô, cô đừng lo.” Những lúc đó, bạn phải chỉ ra cụ thể và
thẳng thắn, ví dụ như “Cô không tìm được một câu nào đúng trong bài viết của
em.”
3. Yêu cầu học sinh tự nhận thấy nhược điểm trong việc học của riêng
mình và tự đưa ra nguyên nhân và hướng giải quyết. Chính sự tự nhận thức và
quyết định khắc phục nhược điểm là chìa khóa thành công cho bất kì học sinh
nào. Bên cạnh đó, giáo viên cố gắng không cho phép học sinh coi nhẹ vấn đề,
và cùng các em phân tích các vướng mặc gặp phải.
4. Lắng nghe học sinh trình bày vấn đề với thái độ chăm chú nhất. Luôn
tỏ thái độ tôn trọng và động viên các em.
5. Giúp học sinh vạch ra kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu mang
tính thực tế. Hãy giúp các em ôn tập lại những kiến thức căn bản và từng bước
nâng cao trình độ. Chúng ta không nên đảm bảo với các em là các em sẽ đạt
điểm qua trong các kì thi và hãy cho các em cơ hội để tiến bộ.
6. Theo dõi sát sao việc thực hiện kế hoạch mà các em đã vạch ra và chắc
chắn rằng các em đang làm đúng theo kế hoạch đó. Hãy cho các em biết là bạn
đang rất quan tâm đến thành công của các em. Và cũng đừng tiếc khi khen ngợi
sự tiến bộ của các em hàng ngày trước lớp nếu các em xứng đáng được khen
ngợi. Những lời động viên, khích lệ của có thể giảm dần khi mà bạn thấy rằng
học sinh đó thực sự tiến bộ.
7. Nhắc nhở các em ghi nhớ mục tiêu đề ra. Bạn có thể gợi ý các em gặp
riêng mình để yêu cầu được giúp đỡ thay vì đưa ra những lời phàn nàn về thái
độ học tập của các em trước lớp.
8. Hãy là nguồn tài nguyên cho học sinh. Gợi ý cho học sinh mượn tài

liệu phù hợp với trình độ của các em.
9. Thay đổi các phương pháp dạy học để học sinh cảm thấy hứng thú như
tạo trò chơi, thảo luận nhóm, phần thưởng… Hãy tạo cơ hội cho những học sinh
yếu hơn được “tỏa sáng” và đánh giá cao khi các em có ý kiến hay. Nhưng bạn
cũng không nên hạ thấp các mức tiêu chuẩn để đánh giá một học sinh chăm chỉ.
10. Hãy công nhận sự cố gắng của các em cho dù các em không vượt qua bài
kiểm tra. Hãy dành một vài phút để khen ngợi sự tiến bộ của học trò. Và hãy để
học sinh tự nhận thấy sự tiến bộ của mình.
Không thể có kết quả tốt, nếu học trò xem nhẹ và không yêu thích môn
học. Cần làm cho học sinh hiểu rằng: Môn Ngữ văn có vai trò cực kì to lớn nhờ
nó mà ta trở nên con người có văn hóa đích thực và có nhân cách tốt.
IV. ĐỀ XUẤT CỦA TỔ:
9


Cần tổ chức việc học phụ đạo cho học sinh (yếu, kém) lóp 10 vì năng
lực viết văn của các em còn quá yếu.
Duy trì việc ôn tập thi THPT Quốc gia một cách nghiêm túc để các em có
thời gian hệ thống và khắc sâu kiến thức bài học; rèn luyện kỹ năng làm
bài,...để từng bước nâng cao chất lượng thật sự của học sinh, góp phần nâng
cao chất lượng chung của toàn trường.
V. KẾT LUẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
Tập thể tổ Ngữ văn trường THPT Nguyễn Huệ nhận thức sâu sắc chủ đề
thực hiện trong năm học “ Tăng cường kỉ cương nề nếp, nâng cao chất lượng
giáo dục” là chủ đề thiết thực phù hợp với giáo dục giai đoạn hiện nay và sẽ
mang lại những kết quả nhất định cho giáo dục và đào tạo. Trong năm học này,
với quyết tâm cao Tổ Ngữ văn không ngừng cố gắng và phấn đấu, thi đua
“Dạy tốt- Học tốt” để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện thắng
lợi chủ để năm học.góp phần đưa sự nghiệp giáo dục lên một tầm cao mới.


CÁC THAM LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
BỘ MÔN NGỮ VĂN
“HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH HỌC
TRÊN LỚP VÀ Ở NHÀ”
Người thực hiện : Lê Thị Tố Nguyên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy và học ở trường phổ thông là công việc quan trọng hàng đầu diễn ra
trong các hoạt động sư phạm. Hoạt động này hướng tới chất lượng của người
thầy cũng như của trò. Vì vậy, người thầy phải không ngừng nghiên cứu, tìm
tòi giải pháp hữu hiệu nhằm tăng hiệu quả giảng dạy của mình.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học
là nhu cầu thiết yếu đặt ra đối với những người đang làm nhiệm vụ giảng dạy.
Vậy, làm thế nào để học sinh ngày nay có tình yêu bộ môn xã hội và đặc biệt
10


có thể học tốt Ngữ Văn ? Đó là vấn đề khiến nhiều giáo viên dạy Ngữ Văn trăn
trở. Với quan điểm cá nhân, tôi nhận thấy đa số học sinh chưa hứng thú trong
học tập, các em học bài cũ và chuẩn bị mới chưa thật chu đáo.
Đa số các em còn thụ động trong việc soạn bài mới, coi đó là nhiệm vụ
bắt buộc khi lên lớp. Một số em khi kiểm tra vở soạn thì rất đầy đủ, sạch đẹp,
trình bày khoa học nhưng thực chất là những bài sao chép trong sách “Để học
tốt Ngữ văn”. Điều này tôi đã gặp ở nhiều năm, nhiều lớp học sinh.
Để khắc phục điều này, chúng ta cần thiết phải hướng dẫn học sinh cách học
trên lớp và cách học ở nhà để chất lượng dạy và học môn Ngữ văn đạt hiệu quả
hơn. Chính vì thế tôi tham luận này với mong muốn giúp các em biết cách
chuẩn bị bài ở nhà và học bài trên lớp một cách hiệu quả nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học.
Tham luận này chỉ xin trình bày một vài giải pháp của cá nhân tôi


B. GIẢI PHÁP CỤ THỂ
I. Ở trên lớp : Chúng ta cần hướng học sinh làm tốt ba kĩ năng sau đây
a. Thứ nhất : Kĩ năng sử dụng sách giáo khoa.
- SGK là một công cụ quan trọng không thể thiếu được trong nhà trường phổ
thông vì đó vừa là một tài liệu chính thống do Bộ Giáo dục biên soạn vừa là cơ
sở tạo nên sự thống nhất trong cách phối hợp làm việc giữa thầy và trò.
Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa ( SGK) là một nhiệm vụ quan
trọng của người giáo viên. Học sinh sử dụng SGK hợp lý là góp phần phát huy
tính chủ động học tập, tính tích cực của tư duy, tạo sự sinh động, thân thiện
cho tiết học trên lớp giữa thầy và trò.
- Tạo thói quen cho học sinh sử dụng SGK như thế nào ? Trước tiên, giáo
viên phải giúp học sinh thấy được sự khác biệt giữa việc có chuẩn bị và không
chuẩn bị bài trước ở nhà theo dặn dò của giáo viên . Thông thường, khi bắt đầu
bài học mới, tất cả học sinh đều mở SGK đặt trên bàn, vừa chú ý nghe giảng
vừa xem trong SGK . Khi giáo viên nêu câu hỏi để học sinh
phát biểu tham gia bài học ( thường là loại câu hỏi ở mức độ nhận biết) thì học
sinh cứ việc nhìn vào SGK để phát biểu, thậm chí có em đọc nguyên văn SGK.
Sử dụng SGK như thế chưa hiệu quả
Biện pháp 1 : Không để học sinh mở SGK ngay từ đầu tiết học mà chỉ mở ra
theo yêu cầu của giáo viên nhằm mục đích nhấn mạnh, giải thích hay bổ sung
hoàn chỉnh kiến thức bằng cách yêu cầu học sinh đọc lại , gạch chân , hay nhìn
vào các chi tiết
Biện pháp 2 : Đặt những câu hỏi thông hiểu để học sinh lí giải, phân tích
hoặc giáo viên yêu cầu học sinh nêu cảm nghĩ, suy nghĩ của các em về nội dung
hay vấn đề mà giáo viên yêu cầu đọc trước trong SGK
Biện pháp 3 : Trước khi giảng bài mới , giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu
hỏi ( có thể là điều các em đã biết hay muốn được giải thích thêm sau khi đọc)
và giáo viên dùng câu hỏi này để yêu cầu học sinh trong lớp tham gia trao đổi,
thảo luận và trả lời . Sự tham gia thảo luận của các em vừa là tích cực hóa hoạt
động của các em vừa giúp cho giáo viên theo dõi một cách gián tiếp sự chuẩn bị

đọc bài trước ở nhà của học sinh.
11


Biện pháp 4 : Giáo viên yêu cầu một vài học sinh trình bày trước lớp một
cách tóm tắt về nội dung đã thu hoạch được sau khi đọc trong SGK theo yêu cầu
của giáo viên.
b. Thứ hai : Kĩ năng nghe
“Nghe ” : nghe trao đổi, thảo luận, nghe thầy cô giảng , nghe các học sinh
trong lớp trả lời câu hỏi.
“Nghe giảng” là một khái niệm rất quen thuộc với nhiều người từ lúc bước
chân đến trường. Tuy nhiên, sẽ có rất nhiều học sinh nghe thầy cô giảng nhưng
không hiểu bài, không nắm bắt được thông tin bài học dẫn tới việc học tập kém
hiệu quả. Câu hỏi đặt ra là nghe giảng có cần phải có kỹ năng không? Và làm
thế nào để có thể nghe giảng một cách hiệu quả?
Theo Joshua D. Guilar, trong quá trình học tập của phần lớn học sinh, hoạt
động nghe của bạn chiếm tới 53%, hơn tổng các hoạt động nói, đọc, viết cộng
lại.

Điều đó chứng tỏ nghe giảng là quá trình tiếp nhận thông tin cơ bản nhất của
việc học tập trên lớp. Vì vậy, việc rèn luyện những kỹ năng học tập, trong đó có
kỹ năng nghe giảng giúp ích rất nhiều cho quá trình học tập của bạn.
“Nếu muốn thông minh, bạn hãy học cách hỏi hợp lý, cách chăm chú lắng
nghe, cách trả lời thông minh và ngừng nói khi không còn gì nói nữa” G.
Lafata
Để học sinh nghe giảng có hiệu quả, giáo viên cần có các bước chuẩn bị cho
học
sinh
:
- Nhắc học sinh đọc trước nội dung bài học: Trước khi đến lớp, bên cạnh

việc giải bài tập, học bài cũ, HS cần đọc qua nội dung bài học của ngày hôm
nay. Thao tác này giúp bạn định hình được nội dung kiến thức sẽ học, khi lên
lớp những điều thầy cô giảng
không
hoàn
toàn
mới
mẻ
với
em.
- Chuẩn bị câu hỏi những chỗ không hiểu: Khi cho HS đọc nội dung bài
học, GV gợi ý cho HS ghi chú những nội dung quan trọng, những câu hỏi,
những vấn đề chưa hiểu; hoặc chưa có cách lý giải để đến lớp đặt câu hỏi nhờ
thầy cô giáo giải đáp.
12


Vậy, làm thế nào thực hiện tốt kĩ năng lắng nghe này thì đòi hỏi phải có một
giờ văn đầy sôi nổi,hào hứng, HS phải hứng thú học tập, tập trung tinh thần
học tập (đã có tham luận của Mỹ Hoa )
c. Thứ ba : Kĩ năng ghi chép
Ghi chép hiệu quả là một trong những kỹ năng quan trọng mà tất cả mọi người
đều phải học. Đối với học sinh, nó đặc biệt có ý nghĩa trong việc nâng cao chất
lượng một bài kiểm tra. Đối với các doanh nhân, ghi chép có thể giúp họ theo
đuổi được những nhiệm vụ và đề án quan trọng mà không bị nhầm lẫn.
Dưới đây là một số thủ thuật để ghi chép hiệu quả khi nghe giàng, GV cần
hướng dẫn HS thực hiện:
1. Hướng dẫn HS sử dụng bút màu để đánh dấu những phần quan trọng,
những nội dung cần chú ý (Ví dụ: dạy các bài văn sử học, đọc – hiểu văn bản
thơ, văn xuôi )

2. Sử dụng các kiểu chữ linh hoạt, hệ thống viết tắt, biểu tượng, bảng biểu, sơ
đồ hóa, phiếu học tập…
Ví dụ 1: Hướng dẫn HS ghi bằng phiếu học tập bài văn học sử
Phiếu học tập 1: Các thành phần của VH Việt Nam từ TK X đến hết TK
XIX
Câu hỏi:
1. VH Việt Nam từ TK X đến hết TK XIX gồm có những thành phần chủ yếu
nào?
2. Nêu sự giống nhau và khác nhau ở những thành phần văn học?
CHỮ HÁN
CHỮ NÔM
Giống nhau
Khác nhau
13


Dựa vào SGK, HS hoàn thành sơ đồ.
CHỮ HÁN
Giống nhau

Khác nhau

CHỮ NÔM

- Vh viết của người Việt
- Mang những đ.điểm của VHTĐ VN cả về phương diện ND
và NT
- Một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc
- Ra đời sớm (TK X)
- Muộn (cuối TK XIII)

- Viết bằng chữ Hán
- Chữ Nôm
- Thể loại VH chủ yếu tiếp thu từ - Tiếp thu VHTQ + t/loại
TQ
của VH d/tộc
- Bao gồm cả thơ và văn xuôi
- Thơ chiếm đa số

Phiếu học tập 2: Các chặng đường thơ của Tố Hữu
Câu hỏi:
1. Tố Hữu có mấy tập thơ và chia thành bao nhiêu chặng đường ?
2. Mỗi chặng đường cần nắm:
+Tên tập thơ
+Thời điểm và hoàn cảnh sáng tác.
+Nội dung chính.
+Tác phẩm tiêu biểu.
HS dựa vào sách giáo khoa và trả lời theo bảng.
Các tập thơ Thời
điểm,
hoàn
cảnh
sáng tác
TỪ ẤY
(1937-1946)
Ra đời trong
phong trào dân
chủ cho đến
CMT8 thành
công


VIỆT BẮC

(1947-1954)

Nội dung chính

Tác phẩm tiêu
biểu

Gồm 3 phần:
- Máu lửa: tiếng reo náo nức
của một tâm hồn được giác
ngộ lí tưởng Đảng, cảm thông
với cuộc sống cơ cực của
những người nghèo khổ, khơi
dậy ở họ ý chí đấu tranh, niềm
tin vào tương lai.
- Xiềng xích: lòng yêu đời,
khát khao tự do, chiến đấu bất
khuất trước kẻ thù
- Giải phóng: ngợi ca thắng
lợi, thể hiện niềm vui bất tận
trước sự đổi đời của đất nước
- Bản hùng ca về cuộc k/c

Từ ấy, Khi con
tu hú, Nhớ
đồng, Tâm tư
trong tù, Tiếng
hát đi đày…


14

Việt Bắc, Ta đi


Kháng
chiến chống Pháp
chống Pháp
- Hình ảnh và tâm tư của quần
chúng, nhân dân kháng chiến
- Kết tinh những tình cảm lớn
của con người Việt Nam
GIÓ LỘNG (1955-1961)
- Niềm vui, tự hào tin tưởng
Miền Bắc xây vào công cuộc xây dựng
dựng XHCN, CNXH ở miền Bắc
miền Nam đấu - Tình cảm tha thiết với miền
tranh chống MĨ Nam ruột thịt
RA TRẬN, (1962-1971),
- Bản anh hùng ca về “miền
MÁU VÀ (1972- 1977)
Nam trong lửa đạn sáng ngời”
HOA
Cả nước chống - Ghi lại một chặng đường
Mĩ hào hùng và CM đầy gian khổ, biểu hiện
thắng lợi vẻ niềm tự hào, niềm vui khi
vang
“toàn thắng về ta”


tới, Hoan hô
chiến sĩ Điện
Biên…

MỘT
TIẾNG
ĐỜN, TA
VỚI TA

Đảng và thơ,
Hôn anh, Một
tiếng
đờn,
Lòng anh…

(1992), (1999)
Đất nước độc
lập, hòa bình
nhưng
còn
nhiều khó khăn

- Tình cảm, cảm xúc suy
ngẫm của nhà thơ về đất nước,
con người, tình đời sau những
năm tháng biến động
- Niềm tin vào lí tưởng và con
đường CM, tin vào chữ nhân
luôn tỏa sáng ở mỗi hồn người


Ba mươi năm
đời ta có Đảng,
Mẹ
Tơm,
Người con gái
Việt Nam, …
Mẹ Suốt, Bác
ơi, Bài ca xuân
68, Nước non
ngàn dặm…

Ví dụ 3:
Vẽ Bản đồ tư duy bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt Bắc
(Tố Hữu )

15


16


3. Ghi trực tiếp trên sách
4. Chỉ cần ghi những gì mà bản thân thấy thật cần thiết và diễn đạt bằng câu
văn của mình, không cần thiết phải chép nguyên lời thầy cô giảng
I . Ở nhà :
- Trong giáo án, sau mỗi tiết dạy, ở phần dặn dò bao giờ cũng có hai phần:
+ Bài cũ: giáo viên yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức đã học và
hoàn thành các bài tập mà giáo viên đã giao.
+ Bài mới: Giáo viên không chỉ dặn dò học sinh về nhà soạn bài nào mà còn
đưa ra một số câu hỏi hướng dẫn cụ thể. Các câu hỏi này được thiết kế theo

trình tự bài học mà giáo viên sẽ giảng trong tiết học sau (dĩ nhiên các câu hỏi
này chỉ mang tính gợi ý khái quát).
Vậy chúng ta cần tập trung cho HS hai vấn đề
a. Học bài cũ
Để học tập đạt kết quả cao, bên cạnh trí thông minh, sự chăm chỉ, chịu khó
thì những kỹ năng cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Mỗi một môn học yêu
cầu những kỹ năng khác nhau, nhưng đối với tất cả các môn học, đặc biệt là
những môn học xã hội điển hình như văn, sử, địa,… thì kỹ năng để học bài sao
cho nhanh thuộc mà nhớ lâu đóng một vai trò quan trọng.
1. Hiểu rõ nội dung vấn đề bạn cần học thuộc
Đây là vấn đề đầu tiên và tiên quyết giúp học sinh thuộc bài nhanh hơn.
Nếu không hiểu vấn đề thì thuộc bài cũng chỉ như “học vẹt” mà thôi, suốt ngày
cứ ê a “rắn là một loại bò, sát không chân” thì không những không đạt hiệu
quả mà còn mất thời gian. Chính vì vậy, khi ở trên lớp, hãy cố gắng tiếp thu
kiến thức được thầy cô truyền đạt, nắm rõ, hiểu đúng bản chất, chỗ nào không
hiểu phải hỏi lại ngay và ghi chép cẩn thận. Làm như thế là bạn đã tiết kiệm
được 50% thời gian học thuộc bài
2. Trước khi học, hãy đọc một lượt nội dung từ trên xuống dưới, gạch dưới
những từ, những ý quan trọng, có thể soạn lại bài và trình bày theo sở thích của
mình sao cho dễ học, dễ nhớ
Nắm được nội dung bài học một cách toàn diện và khái quát như thế sẽ
giúp các em học bài nhanh thuộc hơn rất nhiều vì trong đầu bạn đã hình dung
ra được kết cấu, những kiến thức trọng tâm cần nắm.
3. Chia nội dung bài học thành những mục nhỏ
Có một điều chắc chắn rằng việc phân bài học thành những mục nhỏ tương
ứng với nội dung cụ thể sẽ giúp học sinh học thuộc bài nhanh hơn và tập trung
được nhiều thời gian cho những phần khó thuộc, khó nhớ. Đây chính là
phương pháp “chia nhỏ mục tiêu”, các em sẽ thấy sau khi học thuộc được 1
mục, 1 ý các em sẽ có thêm động lực, sự hào hứng để học tiếp những phần
khác.

4. Kết hợp vừa học vừa ghi
Đây là phương pháp giúp các em nhớ bài vừa nhanh, vừa sâu, vừa có hệ
thống, vừa tăng cường khả năng tập trung. Đối với những đoạn dài các em vừa
17


nhẩm bài vừa ghi ra nháp những nội dung trọng tâm. Riêng những công thức,
những định nghĩa bạn nên ghi lại từ 2-3 lần, có thể nhiều hơn để nhớ lâu, nhớ
sâu hơn nhé.
6. Tưởng tượng lại toàn bộ nội dung bài học sau khi học xong
Một khi đã thuộc bài các em sẽ nhớ được rất rõ những đặc điểm về thứ tự
cách sắp xếp các ý, thậm chí cả dấu chấm, dấu phẩy, ngắt câu nữa đấy. Chính
vì vậy, việc tưởng tượng lại toàn bộ nội dung bài học chỉ mất vài phút nhưng
lại giúp các em nhớ kiến thức một cách sâu sắc hơn Một khi đã nhớ ra được
hình ảnh bài học trong tưởng tượng ấy bạn sẽ lần lượt nhớ lại từng câu từng
chữ trong bài rất hiệu quả.
b. Chuẩn bị bài mới
Giáo viên không chỉ dặn dò học sinh về nhà soạn bài nào mà còn đưa ra một
số câu hỏi hướng dẫn cụ thể. Các câu hỏi này được thiết kế theo trình tự bài
học mà giáo viên sẽ giảng trong tiết học sau (dĩ nhiên các câu hỏi này chỉ
mang tính gợi ý khái quát).
Trước khi học bài “Vợ nhặt” tôi đã dặn học sinh về nhà chuẩn bị những công
việc sau:
- Tìm hiểu về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945
- Tìm hiểu về tác giả Kim Lân và tìm đọc những tác phẩm cùng thời.
- Đọc tất cả các mục trong sách giáo khoa và:
+ Xác định hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm? Giải thích ý nghĩa nhan đề “Vợ
nhặt”? Qua nhan đề và tác giả muốn nói lên điều gì?
+ Phân tích tình huống truyện được xây dựng trong tác phẩm? Ý nghĩa của
nó?

+ Khung cảnh ngày đói ở xóm ngụ cư được tác giả miêu tả như thế nào?
+ Gạch chân trong sách giáo khoa những chi tiết miêu tả các nhân vật: Tràng,
vợ Tràng và bà cụ Tứ từ đó phân tích ba nhân vật ấy. Chú ý diễn biến tâm
trạng của từng nhân vật để thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn của họ. Qua ba
nhân vật ấy, tác giả muốn khẳng định điều gì?
+ Phát hiện những nét chính về nghệ thuật của tác phẩm.
- Chuẩn bị đầy đủ bảng phụ để thảo luận nhóm.

18


“HƯỚNG DẪN HỌC SINH YẾU, KÉM VIẾT ĐƯỢC ĐOẠN VĂN
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (200 từ) TRONG ĐỀ THI THPT QUỐC GIA”
Người thực hiện: Trần Thị Kim Lợi
Nghị luận xã hội là dạng đề thi có mặt bắt đầu từ kỳ thi ĐH – CĐ năm
2009 và trở thành một dạng đề thi ĐH – CĐ không thể thiếu trong những năm
tiếp theo. Dạng đề thi này kiểm tra về kỹ năng, vốn sống của thí sinh; kiểm tra
mức độ hiểu biết của thí sinh về xã hội nói chung. Trên cơ sở đó nhằm giáo dục
nhân cách cho lớp trẻ. Sự thay đổi về khâu ra đề này đã mang đến một câu hỏi
khá thú vị để các thí sinh có quyền được nói lên những suy nghĩ của mình về
cuộc sống, về những tâm tư tình cảm của mình thông qua một bài văn nghị
luận Đã nhiều năm làm quen với dạng đề thi này nhưng nó vẫn còn quá khó
đối với nhiều thí sinh. Bởi vốn sống của các em chưa nhiều, ngôn ngữ diễn đạt
còn hạn chế, khi làm bài thì nghĩ gì trong đầu là viết nấy chứ không biết cách
lập luận. Điểm khác biệt giữa đề Nghị luận xã hội thông thường với đề Nghị
luận xã hội 200 chữ trong kì thi THPT Quốc gia của Bộ :
Thứ nhất : Thay đổi về cách ra đề .
19



Đề bài yêu cầu bàn luận/ đánh giá về một vấn đề được đặt ra trong đề đọc
hiểu. Có những đề yêu cầu dựa vào nội dung ở phần đọc hiểu, anh ( chị) hãy
viết đoạn văn 200 chữ bàn về… Hoặc có những đề trích dẫn một câu văn và
yêu cầu học sinh bàn luận,…
Học sinh chỉ có thể làm tốt phần nghị luận xã hội khi đã hiểu thông điệp của văn
bản ở đề đọc hiểu và câu văn được trích dẫn .
Thứ hai : Bị giới hạn về dung lượng. Trước đây học sinh viết bài văn nghị
luận xã hội, nhưng hiện nay chỉ cần viết đoạn văn nghị luận xã hội ( 200 chữ ).
Vì vậy thời lượng làm bài và biểu điểm bị rút ngắn, rất nhiều em gặp khó khăn
về vấn đề này.
Với thiết kế đề thi như trên, nếu suy nghĩ và trả lời sâu, chắc ở phần đọc
hiểu, thí sinh sẽ rất thuận lợi khi triển khai vấn đề ở câu nghị luận xã hội. Bởi
vấn đề nghị luận không thể đi chệch khỏi nội dung tư tưởng quan trọng bao
trùm nhất từ văn bản đọc hiểu. Nội dung trả lời câu hỏi do đó sẽ liên quan gần
như trực tiếp tới đoạn văn nghị luận xã hội.
Tuy nhiên, học sinh cần lưu ý phương pháp làm bài, tránh kể lể, nhắc lại
những chi tiết trong ngữ liệu đọc hiểu hoặc chép lại phần đọc hiểu "lắp ghép"
vụng về vào đoạn nghị luận xã hội.
Để nhanh chóng bắt kịp với sự thay đổi này, chưa có một tài liệu tham khảo
chuyên sâu nào, giáo viên chỉ biết bám vào cấu trúc đề thi minh họa môn Ngữ
văn kì thi THPT Quốc gia để xây dựng ma trận đề, tìm tòi ngữ liệu, xây dựng
hướng dẫn làm bài. Dưới đây tôi xin chia sẻ cùng đồng nghiệp một số kinh
nghiệm rút ra được từ thực tế dạy học rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận
cho đối tượng học sinh trung bình, yếu
I/ Những kiến thức cơ bản về đoạn văn nghị luận
Theo định nghĩa, đoạn văn là một phần của văn bản, diễn đạt tương đối
trọn vẹn một nội dung.
*Về hình thức, đoạn văn bắt đầu từ chữ viết hoa, lùi đầu dòng và kết thúc là
dấu chấm câu xuống dòng. Đối với đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ,
điều cơ bản đầu tiên học sinh cần ghi nhớ là không được ngắt xuống

dòng.
Cấu trúc đoạn văn đảm bảo 3 phần liền mạch: mở đoạn, thân đoạn và kết
đoạn. Các câu trong từng phần được liên kết chặt chẽ.
Đoạn văn có thể trình bày theo nhiều cách lập luận: diễn dịch, quy nạp,
tổng phân hợp, song hành hay móc xích; đoạn văn so sánh, giải thích, tương
phản, tự sự, thuyết minh hay nghị luận…Các câu đều hướng về làm rõ chủ đề
của đoạn.
Trong phạm vi một đoạn văn ngắn, chỉ nên chọn một dẫn chứng mang tính
tiêu biểu, điển hình và phù hợp làm nổi bật vấn đề nghị luận. Diễn đạt phải
trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp
Với dung lượng khoảng 200 chữ, số điểm là 2 và vấn đề nghị luận đã được
khai thác sâu kỹ ở phần đọc hiểu, đoạn viết nghị luận xã hội nên dành thời gian
nhiều nhất là 20-25 phút. Học sinh tránh lan man dài dòng ở câu hỏi này, làm
ảnh hưởng tới thời gian cho câu nghị luận văn học có số điểm nhiều nhất trong
20


đề. Dung lượng an toàn của một đoạn là 2/3 tờ giấy thi, tương đương khoảng
20 dòng viết tay.
Cần lưu ý nguyên tắc viết đoạn, tránh kể lể bàn luận lan man trùng lặp.
Phần mở đoạn và kết đoạn chỉ nên viết trong một câu ngắn gọn. Trong đó mở
đoạn giới thiệu vấn đề nghị luận, thân đoạn triển khai nội dung nghị luận, kết
đoạn viết về bài học cho bản thân…
II. Cách viết đoạn văn trong đề thi môn Ngữ văn:
1. Xác định và đáp ứng các yêu cầu của đề:
– Về nội dung: Đề bài có thể trích dẫn hoặc không trích dẫn câu văn trong phần
đọc hiểu. Điều quan trọng là các em cần hiểu yêu cầu của đề và xác định hướng
đi đúng đắn.
+ Thứ nhất: Phải xác định được Đề bài yêu cầu viết về vấn đề gì? (nội dung của
đoạn văn).

Đây là yêu cầu quan trọng nhất, đòi hỏi người viết phải bày tỏ quan điểm cá
nhân rõ ràng.
Cụ thể: Người viết hiểu vấn đề đó là gì (giải thích), tại sao lại nói như thế (phân
tích).
+ Thứ hai: Cần phải có dẫn chứng thuyết phục bằng các ví dụ cụ thể trong đời
sống.
+ Thứ ba: Phải đánh giá và nêu thái độ của người viết trước vấn đề đang bàn
luận. Cần nêu ra những bài học nhận thức sau khi bàn luận. Từ đó, đề xuất
những giải pháp thiết thực và khả thi cho bản thân mình và tất cả mọi người.
2. Hai loại đoạn văn thường gặp:
Dạng 1: Bàn luận về một tư tưởng, đạo lí:
– Đề bài thường trích một câu trong đọc hiểu để yêu cầu thí sinh bày tỏ ý kiến,
bàn luận. Cũng có những đề bài không trích dẫn văn bản mà trực tiếp nên vấn
đề cần nghị luận.
Để nắm vững phần này, các em nên ÔN TẬP THEO CHỦ ĐỀ. Các vấn đề từ
câu nói thường yêu cầu bàn luận như:
+ Nhận thức: lí tưởng, khát vọng, niềm đam mê, mục đích sống…
+ Phẩm chất: lòng yêu nước, tính trung thực, lòng dũng cảm, sự khiêm tốn, sự
tự học, lòng ham hiểu biết, sự cầu thị…
+ Quan hệ gia đình: tình mẫu tử, tình anh em…
+ Quan hệ xã hội: tình bạn, tình thầy trò, tình đồng bào…
+ Cách ứng xử của mọi người trong cuộc sống: lòng nhân ái, thái độ hòa nhã, sự
vị tha…
+ Các tư tưởng lệch lạc, tiêu cực: ích kỉ, thực dụng, dối trá, hèn nhát…
Cấu trúc chung của đoạn văn:
Mở đoạn: (khoảng 2 dòng)
Dẫn dắt vào vấn đề
Trích dẫn câu nói.
Thân đoạn:
Bước 1: Giải thích ý nghĩa câu nói/ vấn đề.

Yêu cầu:
21


+ Chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh còn ẩn ý hoặc chưa rõ nghĩa.
+ Phải đi từ yếu tố nhỏ đến yếu tố lớn: giải thích từ ngữ, hình ảnh ẩn ý trước rồi
mới khái quát ý nghĩa của cả câu nói.
+ Nên dựa vào nôi dung phần Đọc hiểu để giải thích ý nghĩa, tránh suy diễn tùy
tiện. Bởi vì có những câu nói khi đứng độc lập thì nó có ý nghĩa khác so với
nghĩa trong văn cảnh
Nếu đề bài không trích dẫn câu nói thì chỉ cần giải thích ngắn gọn khái niệm/
vấn đề cần bàn luận.
Bước 2: Bình luận, nêu quan điểm của cá nhân (thấy đúng, sai hay cả đúng
cả sai). Lý giải quan điểm đó (Vì sao đúng? Vì sao sai?)
Yêu cầu:
+ Phân tách các vế của câu nói để xem xét cặn kẽ, thấu đáo.
+ Khi bàn luận, cần có căn cứ khách quan.
Bước 3: Minh chứng bằng các dẫn chứng, ví dụ cụ thể (Biểu hiện như thế
nào?)
Yêu cầu:
+ Dẫn chứng phải tiêu biểu, hợp lí, phục vụ cho việc bàn luận.
+ Nên kết hợp dẫn chứng lịch sử – hiện tại, trong nước – ngoài nước, người nổi
tiếng – người bình thường… sao cho phong phú và có sức thuyết phục.
Bước 4: Luận bàn mở rộng vấn đề: Phê phán điểm hạn chế, phân tích mặt
tích cực.
Bước 5: Áp dụng tư tưởng đạo lí vào trong thực tế: Nêu bài học nhận thức
và hành động (Cần phải làm gì?)
Yêu cầu:
+ Bài học phải được rút ra từ chính tư tưởng, đạo lí mà đề bài yêu cầu bàn luận.
+ Bài học cần chân thành, giản dị, hướng tới tuổi trẻ, không sáo rỗng, hình thức.

+ Nên rút ra hai bài học, một bài học về nhận thức, một bài học về hành động.
Kết đoạn:
Đưa ra một thông điệp hay một lời khuyên cho mọi người.
Lưu ý : Có những dạng “đề nổi” , xác định rõ phạm vi nội dung bài viết. Các em
cần xác định rõ đâu là luận điểm chính, đâu là luận điểm phụ , không phải tất cả
các bước đều triển khai dung lượng như nhau.
Ví dụ : Bàn về vai trò của lòng khoan dung…
Với đề bài này, sau khi giải thích khái niệm, biểu hiện, các em cần làm rõ vai trò
của lòng khoan dung trong cuộc sống. Đây là luận điểm chính, then chốt của bài
viết
Dạng 2: Bàn luận về một hiện tượng đời sống
Phân loại :
– Các hiện tượng tích cực trong đời sống: tương thân tương ái, tự học thành
tài…
– Các hiện tượng tiêu cực trong đời sống: ô nhiễm môi trường, thực phẩm bẩn,
tai nạn giao thông, gian lân trong thi cử…
– Các hiện tượng hai mặt: đam mê thần tượng, du học rồi ở lại nước ngoài,
mạng xã hội…b. Dàn ý chung:
22


– Mở đoạn:
+ Dẫn dắt vào hiện tượng.
+ Nêu thái độ đánh giá về hiện tượng.
– Thân đoạn:
+ Bước 1: Nêu rõ thực trạng, các biểu hiện cụ thể của hiện tượng trong đời sống
(Nó như thế nào?)
+ Bước 2: Nêu nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên (Nguyên nhân khách quan
và chủ quan; Nguyên nhân sâu xa và trực tiếp).
+ Bước 3: Nêu thái độ đánh giá, nhận định về mặt đúng – sai, lợi – hại, kết quả

– hậu quả, biểu dương – phê phán.
+ Bước 4: Biện pháp khắc phục hậu quả hoặc phát huy kết quả. (Cần phải làm
gì?)
+ Bước 5: Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động cho mình.
– Kết đoạn:
Đưa ra thông điệp hay lời khuyên cho tất cả mọi người.
Đặc biệt lưu ý : Trên đây chỉ là dàn ý chung cho đoạn văn bàn về hiện tượng đời
sống. Tùy vào từng đề thi cụ thể, các em cần linh hoạt khi làm bài. Có những đề
thi không nhất thiết phải triển khai đầy đủ các bước, có thể nhấn mạnh vấn đề
đang bàn luận.
Ví dụ : Đề bài yêu cầu anh/ chị hãy bình luận về nguyên nhân và giải pháp để
khắc phục hiện tượng trên. Thì chúng ta cần làm rõ nguyên nhân và đề xuất
được những giải pháp đúng đắn, thuyết phục người đọc. Những luận điểm phụ
chỉ là tiền đề để triển khai luận điểm chính. Tránh viết chung chung, dàn trải.
3 . Các bước viết đoạn văn hoàn chỉnh :
*Sau khi tìm được những ý chính cho đoạn văn, chúng ta tiến hành viết câu mở
đầu.
+ Câu mở đầu có nhiệm vụ dẫn dắt vấn đề.
+ Đối với đoạn văn trong đề đọc hiểu, nên dẫn dắt từ nội dung/ câu nói của văn
bản được trích dẫn.
– Đoạn văn có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cách đơn giản
nhất phù hợp với học sinh yếu là trình bày theo kiểu diễn dịch:
+ Tức là câu chủ đề nằm ở đầu đoạn (thường là lời bày tỏ ý kiến đánh giá, nhận
xét câu nói/ vấn đề).
+ Các câu sau triển khai ý, làm rõ ý của câu mở đầu (ý kiến đánh giá, nhận xét
câu nói/ vấn đề).
* Viết các câu nối tiếp câu mở đầu :
- Các câu nối tiếp lần lượt sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích – Phân tích
– Chứng minh – Bình luận – Bác bỏ – Bình luận mở rộng.
– Viết câu kết của đoạn văn :

+ Câu kết của đoạn có nhiệm vụ kết thúc vấn đề.
+ Dù đoạn văn dài hay ngắn thì câu kết cũng giữ vai trò quan trọng, để lại ấn
tượng cho người đọc. Câu kết có thể nêu cảm xúc cá nhân, mở rộng vấn
đề (nêu bài học chung), hoặc tóm lược vấn đề vừa trình bày
23


Trên đây là cách nhận diện và viết một đoạn văn nghị luận xã hội , tuy nhiên
muốn đạt điểm tối đa trong phần này đòi hỏi tính kiên trì rèn luyện và sự sáng
tạo từ phía bản thân học sinh

“RÈN KỸ NĂNG LÀM BÀI TẬP ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH
THPT”
Người thực hiện: Trần Thị Hạnh
Ngày 01/4/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi Công văn số
1656/BGDĐT-KTKĐCLGD về việc hướng dẫn tổ chức thi tốt nghiệp Trung học
phổ thông năm 2014, trong đó có nội dung: Đề thi môn ngữ văn có 2 phần: Đọc
hiểu và làm văn. Bộ lưu ý việc thực hiện việc đổi mới kiểm tra đánh giá chất
lượng học tập môn Ngữ văn trong kì thi tốt nghiệp THPT, thực hiện theo hướng
đánh giá năng lực học sinh nhưng ở mức độ phù hợp. Cụ thể là tập trung đánh
giá hai kỹ năng quan trọng: kĩ năng đọc hiểu văn bản và kĩ năng viết văn bản.
Đề thi gồm hai phần: Đọc hiểu và Tự luận (làm văn), trong đó tỷ lệ điểm của
phần viết nhiều hơn phần Đọc hiểu.
Đây là xu hướng đổi mới kiểm tra đánh giá sự ghi nhớ những kiến thức của
học sinh chuyển sang kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh (tự mình
khám phá văn bản). Dạng câu hỏi Đọc hiểu bắt đầu được đưa vào đề thi để thay
24


thế cho dạng câu hỏi tái hiện kiến thức. Có thể nói đây là sự đổi mới tích cực

trong cách ra đề Ngữ văn theo định hướng mới. Nếu dạng câu hỏi tái hiện kiến
thức chỉ có thể kiểm tra học sinh ở mức nhận biết, thông hiểu, có biết, hiểu, nắm
được những kiến thức văn học đã được dạy trong chương trình hay không thì
dạng câu hỏi Đọc hiểu đã nâng cao hơn một mức vận dung thấp, vận dụng sáng
tạo, kiểm tra, phát triển được năng lực tự cảm nhận một văn bản bất kì. (có thể
văn bản đó hoàn toàn xa lạ đối với các em) Như vậy có thể thấy, bên cạnh việc
ôn tập, rèn kỹ năng viết phần tự luận thì việc ôn tập và rèn kỹ năng làm dạng
câu hỏi đọc hiểu là điều cần thiết phải trang bị cho học sinh.
Đọc hiểu văn bản là một trong hai phần bắt buộc có trong một đề kiểm tra,
đề thi. Phần này tuy không chiếm phần lớn số điểm nhưng lại có vị trí rất quan
trong bởi nó quyết định điểm cao hay thấp trong một bài thi. Nếu học sinh làm
sai hết phần này thì chắc chắn điểm toàn bài còn lại dù có tốt mấy cũng chỉ đạt
khoảng 6,0 điểm. Ngược lại nếu học sinh làm tốt phần đọc hiểu các em sẽ có
nhiều cơ hội đạt điểm văn 7,0 hoặc 8,0. Như vậy phần Đọc hiểu góp phần
không nhỏ vào kết quả kiểm tra, kết quả thi môn Văn. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ
năng đọc hiểu cho học sinh như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu là điều mà bất cứ
giáo viên dạyVăn nào cũng phải quan tâm.
* Đề xuất cách hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng làm bài tập đọc hiểu
1. Ôn luyện lý thuyết Đọc hiểu: Học sinh nắm bắt được những dạng kiến thức
lý thuyết liên quan đến câu hỏi Đọc hiểu trong đề kiểm tra. Bao gồm các dạng
như:
– Các loại phong cách ngôn ngữ
– Các phương thức biểu đạt
– Các thao tác lập luận
– Các biện pháp tu từ
– Các phép liên kết
– Phân biệt các thể thơ
– Xác định nội dung, chi tiết, hình ảnh chính trong văn bản (nhan đề, chủ đề, chi
tiết, hình ảnh đặc sắc)
– Viết một đoạn văn ngắn trình bày quan điểm của cá nhân về một vấn đề của

cuộc sống có liên quan đến văn bản.
2. Một số lưu ý về phương pháp làm đề Đọc hiểu
Học sinh cần chú ý cách làm bài như sau:
Về trình bày: Học sinh cần phải trình bày khoa học, không nên tẩy xóa ,
viết chèn dòng trong bài. Nếu có sai thì gạch chéo và làm lại. Cần dùng các kí
hiệu thống nhất với đề bài.
Về nhận diện câu hỏi:Đọc kĩ yêu cầu đề để xác định nội dung câu hỏi có
mấy ý, từ đó trả lời cho đúng, trúng vấn đề. Ví dụ nếu đề hỏi chỉ ra các phương
thức/ các thao tác lập luận trong văn bản trên thì câu trả lời sẽ từ hai phương
thức/ hai thao tác trở lên. Nhưng nếu câu hỏi chỉ ra thao tác nào/ phương thức
nào là chính hoặc chủ yếu thì câu trả lời chỉ là một phương thức/ một thao tác.
Về cách trả lời: Văn bản đọc hiểu thường không dài nên yêu cầu học sinh
đọc văn bản để chọn câu trả lời cho phù hợp. Các em cần đọ lướt để tìm chủ đề
25


×