Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

LUẬN văn phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở trường sĩ quan chỉ huy pháo binh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.24 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hoạt động thực tiễn của con người, để tránh những sai lầm
khuyết điểm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xã hội của mình, con người cần
có sự chỉ dẫn của tư duy khoa học. Song thực tế, không phải khi nào vận dụng
tri thức khoa học vào thực tiễn cũng có thể đạt hiệu quả cao, điều này được
quy định bởi khả năng tư duy lôgic. Tư duy lôgic là một dạng tư duy khoa
học, phản ánh đúng lôgic khách quan, là sự thống nhất lôgic chủ quan với
lôgic khách quan, một trong những nhân tố rất quan trọng, phản ánh trình độ
nhận thức của chủ thể. Quyết định chất lượng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của chính mình. Vì vậy trình độ tư duy lôgic thật sự là thước đo năng lực
nhận thức và vận dụng vào giải quyết nhiệm vụ thực tiễn đặt ra của mỗi con
người. Trong từng trường hợp cụ thể, con người thích ứng với xã hội ra sao,
hoạt động của họ có giải quyết được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
hay không? phụ thuộc rất lớn vào năng lực tư duy của họ.
Nhận thức rõ vai trò của phát triển năng lực nói chung và năng lực tư
duy học viên trong quá trình đào tạo sĩ quan, Nghị quyết số 769 của Quân ủy
Trung ương đã chỉ rõ: “ Mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với tổ quốc, với nhân
dân; có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; có kiến
thức, năng lực toàn diện…” [10]
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng, toàn dân và sự
nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đang đặt
ra những yêu cầu cao hơn cho toàn xã hội và từng con người cụ thể. Đây là
điều kiện thuận lợi phát triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa, cũng
là sự đòi hỏi năng lực tư duy lôgic của học viên trong các nhà trường quân đội
nói chung, của học viên ở trường sĩ quan Pháo binh nói riêng, để đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục – đào tạo của Nhà trường. Với tính đặc thù
trong hoạt động như: tính toán các phần tử bắn, thao tác vũ khí, khí tài Pháo
binh hiện đại. Điều này đặt ra yêu cầu cao sự hệ thống, chính xác trong tư duy


3


của người học viên; theo đó mỗi học viên phải có sự phát triển toàn diện về tri
thức, thao tác tư duy và khả năng tâm lý trong quá trình nhận thức. Tuy nhiên,
để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, xây dựng và phát triển quân đội và
Binh chủng trong giai đoạn cách mạng mới, thì tư duy lôgic của họ đang còn
những hạn chế, bất cập, chưa hệ thống, thiếu chặt chẽ…. Sự hạn chế về tư duy
của người học viên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả học tập
công tác và nghiên cứu khoa học quân sự của học viên ở Trường sĩ quan Pháo
binh hiện nay.
Từ những yêu cầu và thực tế này, đòi hỏi học viên ở Trường sĩ quan
Pháo binh phải không ngừng nâng cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo và
năng lực nhận thức. Do đó phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở
Trường sĩ quan chỉ huy Pháo binh hiện nay vừa là vấn đề cơ bản thường
xuyên, vừa là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng đơn vị Pháo binh nói
riêng và xây dựng quân đội nói chung trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đền đề tài
Vấn đề tư duy, phát triển năng lực tư duy đã được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Đặc biệt trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, với đường lối đổi mới tư duy mà Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng, các công trình đó đã đi sâu nghiên cứu dưới nhiều góc
độ, phạm vi khác nhau.
Nghiên cứu về tư duy và năng lực tư duy, có các công trình tiêu biểu
như: Nguyễn Thị Tuyết Mai, “Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển năng
lực tư duy phản biện cho sinh viên Việt Nam hiện nay” [33], Tác giả đã đưa
ra quan niệm về tư duy phản biện, (đối lập với tư duy siêu hình và tư duy duy
tâm), năng lực tư duy phản biện. Đưa ra sự cần thiết và một số giải pháp
phát triển năng lực tư duy phản biện; Nguyễn Trọng Chuẩn, “Vấn đề rèn
luyện và nâng cao năng lực tư duy cho cán bộ trong điều kiện hiện nay” [4];

Lương Đình Hải, “Triết học và năng lực tư duy của con người trong kỷ
nguyên toàn cầu” [15]; Tô Duy Hợp, “Phương pháp tư duy - vấn đề kế thừa
và đổi mới” [20]; “Về việc bảo đàm sự nhất quán lôgic của tư duy” [22];

4


Dương Văn Minh, “Phát huy tư duy năng động sáng tạo của người học. Mâu
thuẫn và hướng giải quyết” [36]; Lê Hữu Nghĩa, “Một số căn bệnh trong
phương pháp tư duy của cán bộ ta” [37]; Phạm Ngọc Quang, “Yêu cầu về
năng lực tư duy của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” [39]; Hổ Bá Thâm,
“Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ cấp xã [45]; “Bàn về năng
lực tư duy" [46]; Lê Thi, ‘Thực trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn
nguyên của nó” [47]. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu làm rõ khái
niệm tư duy, vai trò quan trọng của tư duy và đánh giá thực trạng tư duy của
đội ngũ cán bộ, đảng viên ta hiện nay; chỉ ra những mâu thuẫn, những thiếu
sót khuyết điểm trong phương pháp tư duy. Qua đó, đề cập đến vấn đề rèn
luyện và nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, sinh viên
trong điều kiện hiện nay - kỷ nguyên hội nhập toàn cầu hóa.
Nghiên cứu về tư duy quân sự, có các công trình tiêu biểu như: Đào
Văn Tiến, “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp
phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [50], Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 1998. Luận án đã làm rõ khái
niệm, cấu trúc năng lực tư duy sáng tạo và sự biểu hiện của nó ở đội ngũ sĩ
quan cấp phân đội; chỉ ra bản chất, đặc điểm vai trò của năng lực tư duy
sáng tạo đối với hoạt động thực tiễn của người sĩ quan trẻ quân đội ta; chỉ ra
vấn đề có tính quy luật trong tăng cường rèn luyện, trải nghiệm hoạt động
thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy phân đội; phát triển trong sự tác động biện chứng
với các yếu tố khác trong nhân cách của họ; phát triển phụ thuộc sự tác động
biện chứng của các yếu tố chủ quan - điều kiện cho sự phát triển của năng

lực đó; phụ thuộc vào sự tác động biện chứng giữa các yếu tố của hệ thống
tri thức với hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hổ Chí Minh.
Ngoài ra, còn có các đề tài của: Trương Quang Đãn, “Phát triển tư duy quân
sự cho học viên đào tạo ở Học viện Lục quân hiện nay" [12]; Trần Xuân
Kiểm, “Quan hệ giữa tư duy triết học và tư duy quân sự để bồi dưỡng năng
lực tư duy quân sự cho cán bộ trong lực lượng vũ trang” [25];Nguyễn Khắc

5


Luyện, “Phát triển tư duy quân sự của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay” [32]; Nguyễn Đình Thủy,
“Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ cán bộ chính trị phân đội
bộ đội tên lửa phòng không hiện nay” [49].
Các công trình trên làm rõ phát triển tư duy lý luận của học viên đào
tạo hiện nay. Đó là quá trình hoàn thiện khả năng trừu tượng hóa, khái quát
hóa, nâng cao trình độ nắm bắt và vận dụng các quy luật trong quá trình đào
tạo. Quá trình phát triển tư duy lý luận là quá trình tích lũy dần về lượng đến
sự chuyên hóa về chất; là quá trình không ngừng phát hiện và giải quyết các
mâu thuẫn trong quá trình nhận thức; đồng thời là quá trình phủ định biện
chứng những tri thức kinh nghiệm của họ. Các công trình đã đi sâu phân tích
thực trạng và đưa ra những giải pháp cơ bản nhàm phát triển tư duy lý luận
của người học viên quân đội hiện nay.
Nghiên cứu về tư duy biện chứng và phát triển tư duy biện chứng, có
các công trình tiêu biểu như: “Đặc điểm quá trình phát triển tư duy biện
chứng duy vật của sĩ quan phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam trong
nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay” [7], Luận án Tiến sĩ Triết
học, Nguyễn Bá Dương, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2000. Luận
án đã đưa ra năm đặc điểm của tư duy biện chứng duy vật - loại hình tư duy
phát triển cao nhất của loài người so với các loại hình tư duy khác có trong

lịch sử triết học; là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp
biện chứng, hàm chứa nội dung hiện thực trong phản ánh thế giới khách
quan; phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển và chuyển hóa không
ngừng của thế giới khách quan; có tính khách quan; là tư duy khoa học,
cách mạng, có tính phê phán và chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép ;
Tư duy biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng. Tư duy biện chứng duy vật giúp người sĩ quan
cấp phân đội không những nhận thức đúng tình hình, nhiệm vụ huấn luyện,

6


sẵn sàng chiến đấu mà còn tìm ra những giải pháp phù hợp để hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ được giao, luôn tiến bộ, trưởng thành.
Về vấn đề này còn có các đề tài của: Dương Phú Hiệp, "Quán triệt tư
duy biện chứng duy vật và nội dung quan trọng của đổi mới tư duy” [19];
Trần Viết Quang. ‘Vai trò của các nguyên tắc, phạm trù lôgic biện chứng đối
với việc rèn luyện năng lực tư duy biện chứng” [41]; Trần Văn Riễn, “Phát
triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân
sự quân đội ta hiện nay” [42].
Nghiên cứu về tư duy khoa học và phát triển tư duy khoa học, có các
công trình tiêu biểu như: Chu Nam Hải, “Phát triển tư duy khoa học của
học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Công
binh hiện nay” [16], luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quân sự,
Hà Nội, năm 2007. Luận văn đã tập trung luận giải khoa học những vấn đề lý
luận và thực tiễn phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo sĩ quan chỉ
huy cấp phân đội ở Trường sĩ quan Công binh, trên cơ sở đó đề xuất những
định hướng và giải pháp cơ bản phát triển tư duy khoa học của đội ngũ học
viên này. Làm rõ khái niệm, vai trò, những vấn đề có tính quy luật phát triển
tư duy khoa học của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường

sĩ quan Công binh. Phân tích quá trình hình thành và rút ra một số bài học
kinh nghiệm phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy
cấp phân đội ở Trường sĩ quan Công binh. Đề xuất những định hướng và giải
pháp cơ bản phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy
cấp phân đội ở Trường sĩ quan Công binh hiện nay.
Ngoài ra, về lĩnh vực này còn có Trần Đức Đình, “Vai trò triết học
Mác - Lênin trong phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo cấp phân
đội Quân đội ta hiện nay” [13]; Đoàn Duy Hưng, “Nâng cao vai trò của tư
duy khoa học trong phát triển năng lực chính trị ở sĩ quan cấp phân đội Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [24]; Lê Thanh Bình, “Xây dựng phong

7


cách tư duy khoa học của người cán bộ đảng viên theo gương Bác Hồ vĩ đại"
[3]; Phạm Duy Hải, ‘Thử nêu mấy nét chủ yếu của phong cách tư duy khoa
học hiện đại” [17]; Dương Quang Hiển, “Mối quan hệ giữa phát triển năng
lực sư phạm và phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay” [18].
Nghiên cứu về tư duy lôgic, có các công trình tiêu biểu như: Tô Duy
Hợp, “Thấm nhuần tinh thần phi cổ điển trong đổi mới tư duy lôgic ở nước ta
hiện nay” [21]; Vũ Văn Viên, “Tư duy lôgic bộ phận hợp thành của tư duy khoa
học” [57]; Nguyễn Văn Phương, “Vai trò của tư duy lôgic trong phát triển năng
lực tư duy sáng tạo cho đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội ” [38], Trong luận
văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Văn Phương đã đề cập đến vai trò to lớn của tư
duy lôgic trong hình thành, phát triển năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ
quan chính trị cấp phân đội, thông qua đó rút ra những kết luận có tính
nguyên tắc về sự tác động, ảnh hưởng của tư duy lôgic đến năng lực tư duy
sáng tạo của người sĩ quan chính trị cấp phân đội trong quá trình tiến hành
công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ sở. Luận văn cũng đã làm rõ

mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành năng lực tư duy sáng tạo,
khẳng định được tư duy lôgic là yếu tố không thể thiếu trong năng lực tư
duy sáng tạo, nó là nền tảng của hoạt động tư duy sáng tạo của sĩ quan chính
trị cấp phân đội. Khẳng định tính tất yếu của việc nâng cao năng lực tư duy
lôgic cho sĩ quan chính trị cấp phân đội bằng việc trang bị tri thức về lôgic
học. Tiến hành khảo sát thực trạng tư duy lôgic của đội ngũ sĩ quan chính trị
cấp phân đội trong tiến hành công tác đảng, công tác chính trị. Qua đó đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lôgic góp phần
nâng cao hiệu quả của hoạt động tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan chính
trị cấp phân đội ở các đơn vị cơ sở hiện nay.
Đã có nhiều công trình và bài viết nghiên cứu về tư duy dưới các góc độ
và phạm vi khác nhau của một số tác giả được công bố trên các tạp chí như sau:
Nguyễn Mạnh Cường “Về bản chất của tư duy” đăng trong tạp chí Triết học số

8


01 năm 2004, từ trang 52 đến trang 57. Nguyễn Thanh Tân “Sự hình thành tư
duy và một số đặc trưng của nó” đăng trong Tạp chí Triết học số 02 năm 2004
từ trang 43 đến trang 47. Trần Viết Quang, Vai trò của các nguyên tắc, phạm trù
lôgic biện chứng đối với việc rèn luyện năng lực tư duy biện chứng, đăng trong
tạp chí Triết học số 12 năm 2006, từ trang 54 đến trang 59.
Tóm lại, các công trình khoa học, các bài viết kể trên đã đề cập, làm rõ
tương đối toàn diện về khái niệm, đặc điểm, năng lực tư duy, tư duy sáng tạo,
tư duy lý luận, tư duy quân sự, tư duy khoa học, tư duy biện chứng, tư duy
phản biện, tư duy lôgic; vai trò của tư duy và năng lực tư duy đối với hoạt động
của con người; mối quan hệ giữa tư duy và tư duy quân sự, mối quan hệ tư duy
lý luận vấn đề bồi dưỡng năng lực tư duy và nâng cao năng lực trí tuệ phẩm
chất tư duy, phát triển tư duy quân sự, phát triển tư duy lý luận...; vai trò của tư
duy trong hình thành phương pháp tư duy khoa học, những vấn đề có tính

nguyên tắc của tư duy lôgic; vai trò của tư duy lôgic trong phát triển năng lực
tư duy sáng tạo. Các bài viết bàn nhiều về vai trò tư duy lôgic trong hình thành
phương pháp tư duy khoa học, những vấn đề có tính nguyên tắc của lôgic tư
duy và tư duy lôgic, về bản chất tư duy. Tuy vậy, ở Trường sĩ quan Pháo binh
chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề này dưới góc độ Triết học. Do
việc xác định giới hạn đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
chưa có công trình nào nghiên cứu cơ bản, hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển năng lực tư duy lôgic của đội ngũ học viên đào tạo sĩ
quan ở Trường sĩ quan Pháo Binh, nhất là nghiên cứu vấn đề đó trong giai đoạn
hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển năng lực tư duy lôgic của
học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn, từ đó đề xuất một
số giải pháp cơ bản phát triển năng lực tư duy lôgic của đội ngũ học viên ở
Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay.

9


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực
tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh, những biểu hiện cơ
bản tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh.
Đánh giá thực trạng và chỉ ra những yêu cầu phát triển năng lực tư duy
lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển năng lực tư duy lôgic của
học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về bản chất, những vấn đề có tính quy
luật phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phát triển năng lực tư duy lôgic
của học viên ở Trường Sĩ quan Pháo binh. Thời gian khảo sát từ năm 2012
đến nay, các khóa 54, 55, 56, 57, 58 ở các tiểu đoàn học viên 2, 3.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Nghị quyết của Đảng ủy
Trường sĩ quan Pháo binh; Nghị quyết của Đảng bộ Bộ tư lệnh Pháo binh và một
số công trình khoa học nghiên cứu về tư duy lôgic và phát triển năng lực tư duy.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên các Nghị quyết, báo cáo của Binh chủng Pháo binh;
các công trình tổng kết, thống kê kết quả đào tạo của học viên ở Trường sĩ
quan Pháo binh từ năm 2012 đến nay. Tác giả khảo sát thực tiễn, tham khảo
số liệu điều tra, khảo sát của các công trình khoa học có liên quan, các số liệu

10


điều tra, tác giả khảo sát về thực trạng năng lực tư duy lôgic của học viên ở
Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp phân
tích và tổng hợp; phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp hệ thống và cấu trúc;
điều tra xã hội học và phương pháp xin ý kiến tư vấn của chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn góp phần luận giải làm rõ năng lực tư duy lôgic của học viên
ở Trường sĩ quan Pháo binh. Thực chất, nội dung và một số giải pháp phát
triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, tài
liệu giảng dạy ở Trường sĩ quan Pháo binh và trong các nhà trường quân đội
hiện nay, làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý học
viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY LÔGIC CỦA HỌC VIÊN
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN PHÁO BINH

1.1. Thực chất phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở
Trường sĩ quan Pháo binh
1.1.1. Tư duy lôgic và biểu hiện tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ
quan Pháo binh
Khái niệm tư duy và tư duy lôgic:
Nhận thức là một quá trình, trên cơ sở những dữ liệu đã thu nhận được
ở giai đoạn cảm tính, trong óc người với hàng loạt các thao tác như: phân tích,
so sánh, tưởng tượng, khái quát hóa, trừu tượng hóa…, đã rút ra những thuộc
tính chung, bản chất của đối tượng. Những hiểu biết đó đến lượt nó lại được
ngôn ngữ mã hóa thành các khái niệm, và những khái niệm này sẽ tiếp tục
được liên kết với nhau theo một cách thức nhất định để trở thành những phán

đoán. Từ những phán đoán đã biết với những thao tác lý tính của óc người,
con người lại có thể rút ra những tri thức mới thông qua phép suy luận….
Toàn bộ những hoạt động trên đây đều diễn ra một cách liên tục, hệ thống trong
quá trình óc người phản ánh hiện thực và quá trình đó được gọi là tư duy.
Vì vậy, nếu xét về mặt nhận thức luận tư duy sẽ thống nhất với ý thức:
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan; xét về mặt bản thể luận, thì đó
chính là những thao tác lý tính của óc người trong quá trình phản ánh gián
tiếp hiện thực.
Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau,
dưới góc độ triết học, khái niệm tư duy có thể được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất,
tư duy là kết quả của sự phản ánh, là sản phẩm của quá trình nhận thức, tồn tại
dưới dạng các khái niệm, phán đoán, suy lý; thứ hai, với những thao tác lý tính
của óc người, tư duy là quá trình vận động phát triển của nhận thức nhằm phản
ánh ngày càng đầy đủ, chính xác về đối tượng nhận thức. Dù tiếp cận dưới góc

12


độ nào thì tư duy đều là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao,
đó là óc người phản ánh thế giới hiện thực dưới dạng trừu tượng. Theo Từ điển
Triết học: “Tư duy - sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách
đặc biệt là bộ não; quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, suy luận, v.v.” [56, tr.1295].
Tư duy, bao giờ cũng bao gồm các yếu tố sau:
Một là, đối tượng phản ánh của tư duy: là hiện thực khách quan. Không
một khái niệm, phán đoán hay tư tưởng chân thực nào mà không gắn với sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan, vì vậy bất kỳ một khái niệm, một phán đoán
hay một tư tưởng nào đó được hình thành trong tư duy đều gắn với một đối
tượng xác định của hiện thực khách quan.
Hai là, nội dung phản ánh của tư duy: Khi con người tiếp xúc với hiện

thực để phản ánh, cải tạo sự vật hiện tượng khách quan, tác động cải tạo đối
tượng làm cho nó bộc lộ những đặc trưng, những dấu hiệu, những thuộc tính,
những mối liên hệ. Bằng hệ thống các giác quan, con người thu thập những
thông tin mà đối tượng bộc lộ ra và trở thành nội dung phản ánh của tư duy.
Ba là, ngôn ngữ của tư duy: Kết quả tư duy được mã hóa, ghi lại bởi
ngôn ngữ, ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, không có ngôn ngữ, tư duy của
con người cũng không thể tồn tại và phát triển. Ngay từ khi xuất hiện, tư duy
đã gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện thông qua ngôn ngữ.
Bốn là, hình thức tổ chức, kết cấu của tư duy: Là phương thức tổ chức, sắp
xếp, liên kết các bộ phận cấu thành nội dung để hình thành các khái niệm, phán
đoán tạo nên tư tưởng phản ánh về đối tượng, ở đây thường xảy ra hai trường hợp:
Thứ nhất, quá trình tổ chức, sắp xếp, liên kết nội dung để hình thành
các khái niệm, phán đoán, suy lý đúng với quy luật, quy tắc, phù hợp với
lôgic của sự vật, hiện tượng đảm bảo cho tư duy phản ánh đúng hiện thực
khách quan, tức là các tri thức mới được con người mã hóa (khái niệm, phán
đoán, suy lý) này đúng.

13


Thứ hai, quá trình tổ chức, sắp xếp, liên kết các bộ phận cấu thành nội
dung hình thành các khái niệm, phán đoán, suy lý nếu không phù hợp lôgic
khách quan, không đúng quy luật, quy tắc thì các tri thức mới đó (phán đoán,
suy lý) này sai, hay nói cách khác là tư duy đó phản ánh sai hiện thực khách
quan. Như vậy, tư duy được hình thành gắn liền với bộ não người, nó vừa là
sản phẩm của bộ óc người, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội và quá trình
hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Do tính chất phản ánh gián tiếp của nó nên tư duy có thể đưa đến
những sai lầm, trong khi đó thực tiễn lại luôn đòi hỏi phải được hướng dẫn
bởi những chân lý – sản phẩm của một tư duy chính xác phù hợp với hiện

thực khách quan. Chính vì thế, cùng với sự phát triển của thực tiễn, nhu cầu
về một tư duy chính xác phù hợp với hiện thực khách quan ngày càng trở
nên bức thiết. Thực tế lịch sử đã cho thấy rằng, lúc đầu để xác định được
tính chất (chính xác hay không chính xác, phù hợp hay sai lầm) của tư duy,
con người chỉ có thể dựa vào một tiêu chuẩn duy nhất đó là thực tiễn.
Nhưng cũng chính trong thực tiễn, một tư duy chính xác, phù hợp với hiện
thực khách quan, lúc đầu chỉ được phát hiện và sử dụng một cách ngẫu
nhiên, sau đó do được lặp lại hàng nghìn triệu lần (V. I. Lênin) mà dần trở
thành những biểu tượng bền vững, nó có vai trò như những tiên đề không
cần phải chứng minh, nhưng đều phải tuân theo của mọi tư duy khoa học.
Đó chính là cái mà người ta gọi là lôgic của tư duy và một tư duy tuân thủ
theo lôgic ấy được gọi là tư duy lôgic.
Tư duy lôgic là một dạng của tư duy, có những đặc điểm của tư duy
như đã trình bày. Tuy nhiên, tư duy lôgic có những dấu hiệu đặc thù và vị trí,
vai trò của nó cũng được xác định tương đối độc lập so với tư duy nói chung.
Hướng nghiên cứu của luận văn chỉ nghiên cứu tư duy lôgic phù hợp
với hiện thực khách quan để phân biệt với tư duy siêu hình máy móc. Luận
văn không nghiên cứu tư duy lôgic mang tính duy tâm, tư biện theo kiểu tư
duy Hêghen đã từng lập luận trong biện chứng của ý niệm.

14


Quan niệm về tư duy lôgic được xác định: “tư duy lôgic là tư duy phản
ánh đúng lôgic khách quan, là sự thống nhất lôgic chủ quan với lôgic khách
quan, là tư duy có tính trật tự và tính quy luật” [46, tr.3]. Với quan niệm theo
hướng tiếp cận này thì tư duy lôgic có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tư duy lôgic mang tính tất yếu, khách quan. Nghĩa là tư duy
muốn chính xác thì các thao tác tư duy nhất định phải diễn ra như thế,
không thể khác được, nó do hiện thực khách quan quy định. Chìa khóa để

tối ưu hóa khả năng phát triển cá nhân và khả năng hoạch định tổ chức công
việc một cách hiệu qủa, đó chính là "Tư duy có lôgic" và một tư duy tuân
thủ lôgic ấy được gọi là tư duy lôgic. Nói đến tư duy lôgic thì nhân loại, ở
châu Phi hay ở châu Âu, ở châu Á hay ở châu Mỹ, từ Albert Einstein cho
đến mỗi người chúng ta, ai ai trong đầu cũng đều có so sánh, phán đoán, suy
lý, trên cơ sở các ý niệm, khái niệm về các hiện tượng, sự vật xung quanh.
Nghĩa là, tự nhiên ban cho con người bộ não hoạt động tư duy với các quy
luật lôgic vốn có, khách quan ở tất cả mọi người trên thế giới. Đối với tư
duy lôgic là tư duy phù hợp với lôgic của hiện thực khách quan, gắn bó chặt
chẽ với hiện thực khách quan, hình thành và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển của hiện thực khách quan, xét về hình thức tư duy lôgic
là thuộc về chủ quan, nó là sản phẩm của óc người – chủ thể tư duy, nhưng
xét về mặt nội dung, tư duy lôgic lại có nguồn gốc sâu xa từ hiện thực khách
quan, vì nội dung của tư duy lôgic do hiện thực khách quan quy định. Về
bản chất, tư duy lôgic là sự phản ánh đúng hiện thực khách quan, là tư duy
có hệ thống theo một trình tự tất yếu, chặt chẽ và chính xác, bảo đảm tính
đúng đắn, tính trật tự, tính quy luật của tư duy lôgic do hiện thực khách
quan quy định, không phải do ý muốn chủ quan. Nói cách khác tư duy của
con người phải đạt tới sự thống nhất với cái lôgic khách quan. Khi lôgic chủ
quan trong tư duy phù hợp với lôgic khách quan của hiện thực, có nghĩa là
con người đã đạt tới sự tư duy lôgic

15


Thứ hai, tư duy lôgic phản ánh hiện thực khách quan trong sự liên hệ,
vận động, biến đổi, phát triển không ngừng. Nếu tư duy siêu hình phản ánh
hiện thực khách quan theo kiểu soi gương, chụp ảnh, phản ánh một cách máy
móc phiến diện “nhìn thấy cây mà không thấy rừng” thì tư duy lôgic phản
ánh hiện thực khách quan trong sự liên hệ, quan hệ biện chứng. Tư duy lôgic

ở góc độ chung nhất nó phản ánh hiện thực khách quan với những mối quan
hệ, liên hệ cơ bản, chủ yếu nhất.
Thứ ba, tính chặt chẽ của tư duy lôgic được thực hiện thông qua hệ
thống các khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận. Đó là tư duy theo những
quy luật, quy tắc nhất định, dựa vào những lý do đầy đủ và những căn cứ
vững chắc. Sự phong phú của hệ thống các khái niệm là tiền đề có ý nghĩa
quyết định trong quá trình tư duy lôgic. Cùng với khái niệm với tư cách là
công cụ của tư duy phải kể tới ngôn ngữ của tư duy lôgic có tính độc lập
tương đối so với hệ thống ngôn ngữ của các loại hình tư duy khác.
Thứ tư, tư duy lôgic được thực hiện trên cơ sở tuân thủ những nguyên
tắc, quy luật của tư duy. Chính hệ thống nguyên tắc này thống nhất với các
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, của lôgic học và của lý luận
nhận thức mác xít. Cùng với hệ thống nguyên tắc đó, tư duy lôgic còn được
thực hiện thông qua các thao tác của tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa, đây là các nguyên tắc phương pháp
thao tư duy lôgic.
Theo lý luận nhận thức mácxít, nhận thức là một quá trình biện chứng,
trong đó con người tiến hành hàng loạt các thao tác tư duy như phân tích,
tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… theo một lôgic nhất định. Những
thao tác này có nội dung khác nhau nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, thống
nhất biện chứng với nhau. Các thao tác tư duy được tiến hành ra sao, theo
trình tự nào lại do đối tượng, mục đích nghiên cứu quy định. Cách thức tư
duy từng bước được ghi nhận như những dấu ấn trong bộ nhớ con người và

16


dần dần hình thành như những phương pháp tư duy. Và những phương pháp
tư duy này được truyền thụ, phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác trong
quá trình lịch sử.

Biểu hiện tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh:
Học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh: là những học
viên đào tạo với mục tiêu để trở thành những sĩ quan chỉ huy Pháo binh – Tên
lửa. Họ là những thanh niên, sinh ra và lớn lên trong chế độ xã hội định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, có sức khỏe, có kiến thức, kế thừa các giá trị
truyền thống của gia đình, dòng họ, quê hương, truyền thống yêu nước của
các thế hệ trước, quyết tâm vươn lên và có hoài bão ước mơ về cuộc sống tốt
đẹp. Là những học sinh, quân nhân đã trúng tuyển trong các kỳ tuyển sinh
quân sự và được thẩm tra, xét tuyển kỹ về lai lịch chính trị. Tuy vậy, họ chưa
được trải nghiệm qua thực tiễn cách mạng, nhận thức và kinh nghiệm cuộc
sống trong thực tiễn chưa nhiều, kinh nghiệm hoạt động quân sự và thực tiễn
đấu tranh cách mạng chưa có, để trở thành người sĩ quan chỉ huy Pháo binh
cấp phân đội đòi hỏi phải được học tập, rèn luyện nghiêm túc và công phu để
nâng cao trình độ về mọi mặt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nếp sống lành
mạnh và năng lực tổ chức chỉ huy để có khả năng hoàn thành tốt chức trách
người sĩ quan chỉ huy Pháo binh theo mục tiêu yêu cầu đào tạo. Có thể khái
quát những đặc điểm cơ bản biểu hiện của tư du lôgic của học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy Pháo binh như sau:
Đặc điểm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo sĩ quan chỉ huy Pháo binh: Quá
trình giáo dục đào tạo học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh,
người học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh phải suy luận, tính
toán hệ thống, lôgic các bài tập 8toán học, hình học, lượng giác… rất nhiều,
những giai đoạn giáo - dục đào tạo trong môi trường quân sự chung của các học
viện - nhà trường trong quân đội, phong phú về hình thức giáo dục - đào tạo,
mức - cường độ học tập cao, học tập, rèn luyện rất căng thẳng. Ngoài những

17


buổi học trên lớp, hình thức tổ chức huấn luyện dã ngoại, thực hành, thực tập

được tiến hành thường xuyên, yêu cầu ngày càng cao theo quy trình giáo dục –
đào tạo, người học viên phải thực hành cương vị người sĩ quan chỉ huy Pháo
binh thực thụ ở các đơn vị chiến đấu từ thấp đến cao (thực tập các vai, đảm
nhiệm các chức trách ở các đơn vị Pháo binh, tên lửa), huấn luyện sát với thực tế
chiến đấu, ý thức địch tình căng thẳng, trong học tập chuyên ngành Pháo binh,
những môn học như Binh thao, Bắn pháo yêu cầu người học viên phải có một
khả năng tư duy lôgic trong tính toán chuẩn bị các phần tử ( suy luận, đồ giải,
tính toán các bài lượng giác, hình học) theo một lôgic chặt chẽ, hệ thống các ký
tín hiệu, khẩu lệnh yêu cầu phải ngắn gọn, chính xác từ đó đặt ra yêu cầu đối với
người học viên vừa phải có khả năng thao tác tư duy chính xác vừa bảo đảm về
mặt thời gian theo các tiêu chuẩn giáo trình, trong một thời gian rất ngắn (2 - 4
phút) bằng khả năng tính toán chính xác hàng vài chục phép tính phức tạp, xử lý
hàng trăm con số nhưng phải đạt độ chính xác cao (tới hàng lô ga zít)…. Vì vậy
đòi hỏi sự huy động cao cả về trí lực và thể lực, sự thận trọng, ý thức tổ chức kỷ
luật trong huấn luyện, không cho phép họ được sai sót vì một sai sót nhỏ trong
huấn luyện và sử dụng vũ khí, khí tài Pháo binh sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng
về an toàn huấn luyện, uy hiếp tính mạng và thiệt hại lớn về kinh tế “ Sai một ly
là đi một dặm”. Điều đó đặt ra yêu cầu ở người học viên, họ phải được chuẩn bị
đầy đủ, toàn diện về mọi mặt như khả năng chính xác trong xử lý thông tin, các
kỹ năng, kỹ xảo trong tính toán chuẩn bị phần tử bắn, khẩu lệnh động tác của
học viên sĩ quan Pháo binh. Tính hệ thống trong hoạt động tập thể, trong phát
hiện ra mâu thuẫn của các số trong khẩu đội, khả năng làm việc tỉ mỷ và đặc
biệt là năng lực tư duy lôgic của họ đặt ra yêu cầu rất cao.
Đặc điểm về những đòi hỏi đối với người học viên đào tạo sĩ quan ở
Trường sĩ quan Pháo binh hiện nay là: phải có khả năng hoạt động xã hội,
hoạt động quân sự chuyên ngành Pháo binh, có hiểu biết toàn diện, có khả
năng kiểm soát mọi hoạt động, cả trong việc sử dụng tri thức khoa học và

18



tri thức chuyên ngành Pháo binh. Sau khi ra trường có khả năng huấn luyện
bộ đội thuộc quyền tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc yêu cầu của bộ đội
Pháo binh, điều chỉnh phương pháp huấn luyện phù hợp với diễn biến tình
hình, đáp ứng những yêu cầu thực tiễn đang đặt ra trong tương lai. Chiến
tranh công nghệ cao trong tương lai đòi hỏi người sĩ quan chỉ huy Pháo
binh phải có khả năng phân tích xử lý linh hoạt sử dụng thành thạo các loại
vũ khí, khí tài hiện đại, tư duy phải nhanh nhạy để phân tích kỹ tình hình
trước khi đưa ra quyết định. Kiên định về tâm lý và bền bỉ về thể chất, có
nền tảng thể lực để làm việc liên tục trong dài ngày và trong suốt quá trình
chiến dịch; có bản lĩnh vững vàng trước mọi căng thẳng, khắc nghiệt của
chiến tranh để hành động và tổ chức lực lượng hành động thống nhất, đạt
chất lượng, hiệu quả cao, chiến đấu hiệp đồng để lập công tập thể. Nắm
chắc tính năng cấu tạo, nguyên lý hoạt động và tình trạng của vũ khí trang
bị kỹ thuật Pháo binh – Tên lửa, phương pháp sử dụng phải độc lập làm
chủ thông tin, nắm chắc tình hình và tự phân tích xử lý các thông tin để lập
kế hoạch chiến đấu và điều hành chính xác, kịp thời. Như vậy, sự vận hành
của một bộ phận, chất lượng kết quả huấn luyện sẽ phụ thuộc vào trình độ
chuyên môn, khả năng, ý thức trách nhiệm của sĩ quan trong huấn luyện,
giữa thành tích của tập thể và cá nhân gắn bó chặt chẽ, phụ thuộc nhau.
Điều này đã được khái quát sâu sắc qua khẩu hiệu truyền thống vẻ vang
của bộ đội Pháo binh đã được Bác Hồ tặng tám chữ vàng truyền thống:
“Chân đồng vai sắt, đánh giỏi- bắn trúng” và “ Đoàn kết hiệp đồng - Lập
công tập thể”, để đáp ứng những yêu cầu thực tiễn đang đặt ra, bộ đội Pháo
binh – Tên lửa đang thực hiện tốt phương châm “ Thao trường gắn với
chiến trường. Nhà trường gắn liền với đơn vị”.
Ngoài ra còn phải kể đến đặc điểm sự tác động của những yếu tố
khách quan như: vị thế người sĩ quan chỉ huy Pháo binh đã được bao thế hệ
cha anh xây dựng hun đúc và phát triển trong những năm qua, ảnh hưởng


19


của lối sống ngoài xã hội, thời tiết, khí hậu và đời sống vật chất, tinh thần
cũng như địa bàn đóng quân của nhà trường đang hàng ngày tác động đến
quá trình giáo dục – đào tạo người học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan
Pháo binh hiện nay.
Từ việc xác định tư duy lôgic và đặc thù học viên ở Trường sĩ quan
Pháo binh, ta có quan niệm: Tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ
quan Pháo binh là hệ thống những tri thức, quy luật, khái
niệm, phạm trù phán đoán, suy luận và những nguyên tắc,
thao tác của tư duy đúng đắn, phản ánh hiện thực khách
quan trong học tập và rèn luyện của người Học viên Pháo
binh.
Thứ nhất, tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh là
quá trình hình thành những tri thức mới chuyên ngành Pháo binh, là những
quy luật, nguyên tắc thao tác và yêu cầu của tư duy đúng đắn, phản ánh
đúng hiện thực khách quan. Đó là tri thức của người học viên về các đối
tượng chuyên ngành Pháo binh trong môi trường học tập của họ một cách
linh hoạt, sáng tạo từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, là sự tích lũy
dần dần về lượng tri thức để nhảy vọt về chất từ người học sinh thành người
học viên chuyên ngành Pháo binh, trong sự liên hệ, quan hệ, vận động, biến
đổi, phát triển không ngừng mọi mặt của người học viên đào tạo sĩ quan ở
Trường sĩ quan Pháo binh, đáp ứng mục tiêu yêu cầu giáo dục - đào tạo . Là
giai đoạn nhận thức lý tính phản ánh quá trình học tập, rèn luyện thông qua
các hình thức cơ bản, như khái niệm, phán đoán, suy luận, cùng các thao
tác, phân tích, tổng hợp so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa... của người
học viên, nhằm không ngừng tiếp thu tri thức khoa học, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao nhiệm vụ chiến đấu và công tác của bộ đội Pháo binh – Tên
lửa trong mọi tình huống.


20


Thứ hai, tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh là quá
trình thực hiện hệ thống nguyên tắc và các thao tác tư duy trong quá trình
nhận thức chung và nhận thức về chuyên ngành. Biểu hiện là khả năng phân
tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa các tri thức chuyên ngành
Pháo binh thu nhận được thành các khái niệm công cụ chuyên ngành của
người học viên, phản ánh hoạt động đặc thù quá trình học tập rèn luyện
của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh, mang tính chuyên ngành
nhưng phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc và thao tác tư duy trong quá
trình nhận thức chung. Đây là giai đoạn thể hiện các thao tác quan trọng
nhất của tư duy lôgic của người học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan
Pháo binh, các quy luật, thao tác của tư duy lôgic, suy luận, phán đoán...
được tuân thủ chặt chẽ trong các nội dung chuyên ngành như tính toán
chuẩn bị phần tử, trong hệ thống các khẩu lệnh… của người học viên đào
tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh, tổng hợp các yếu tố, yếu lĩnh để
có những khẩu lệnh kịp thời, chính xác.
Thứ ba, tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh là quá
trình đòi hỏi cao các phẩm chất tâm lý phù hợp với hoạt động nhận thức
trong lĩnh vực đặc thù. Đây là quá trình phản ánh các hoạt động học tập, rèn
luyện… đòi hỏi cao sự sâu sát, tỷ mỉ, cụ thể, chính xác của người học viên.
Đối với từng nhiệm vụ và các hoạt động, ở thời bình cũng như thời chiến, tư
duy lôgic thể hiện sự chặt chẽ giữa nói, viết và làm, đảm bảo không thừa,
không thiếu , không vòng quanh. Hơn thế, phải phấn đấu tới mức tối thiểu về
lời nói, từ ngữ, nhưng tối đa về ý nghĩa và nội dung; tránh sự hiểu lầm khi
dùng từ nhiều nghĩa, đảm bảo cho họ luôn luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ. Tư
duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh mang tính độc lập, tự
chủ, nhất quán và quyết đoán. Bởi hoạt động của sĩ quan chỉ huy Pháo binh

mang tính đặc thù, đòi hỏi họ phải phát huy tính tích cực, chủ động, nhất quán

21


và quyết đoán. Biết phát hiện, giải quyết các vấn đề bằng chính năng lực của
bản thân, thông qua sự quan sát, nghiên cứu, đánh giá tình hình và quyết tâm
thực hiện công việc một cách có cơ sở khoa học.
Tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh mang tính năng
động, khẩn trương song không mâu thuẫn và phải đảm bảo có đầy đủ luận
chứng, luận cứ. Tính năng động, khẩn trương của học viên ở Trường sĩ quan
Pháo binh đã có nhưng chứa đựng sự chưa vững chắc, thiếu bền vững là một
đặc điểm của người học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh.
Thấy rõ đặc điểm tư duy lôgic này của người học viên đào tạo sĩ quan ở
Trường sĩ quan Pháo binh sẽ giúp chúng ta có kế hoạch, chương trình đào tạo,
bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, khắc phục
những hạn chế làm cho tư duy của họ trở nên chính xác, nhanh nhạy, sắc sảo
hơn, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ và thực tiễn đang đặt ra.
Ngoài ra, tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh được
thực hiện thông qua hệ thống ngôn ngữ mang tính đặc thù đó là ngôn ngữ
quân sự và ngôn ngữ có tính chuyên ngành kỹ thuật Pháo binh - Tên lửa. Phải
mã hóa để khẩu lệnh ngắn gọn nhưng đầy đủ thông tin nhất, chính xác
nhất, dễ hiểu, rõ ràng dứt khoát.
1.1.2. Quan niệm về phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở

Trường sĩ quan Pháo binh
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: Phát triển là một phạm trù
triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy phát triển
là một trường hợp của vận động, nhưng là trường hợp đặc biệt, quá trình phát

triển sẽ hình thành những tính quy định mới cao hơn về chất, làm tăng tính
phức tạp, kết cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện
tượng cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Tùy theo
trình độ tổ chức kết cấu của sự vật, hiện tượng khác nhau, các lĩnh vực khác
22


nhau (cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy) mà sự phát triển của các sự vật hiện
tượng, các lĩnh vực sẽ khác nhau. Biểu hiện sự phát triển trong lĩnh vực tư
duy là ở trình độ, khả năng nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc cái
bản chất của hiện thực khách quan. Tuy nhiên, theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng khuynh hướng chung của mọi sự phát triển là quá trình cái
mới phủ định cái cũ, quá trình phủ định đó cái mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế
thừa những yếu tố hợp lý trong lòng cái cũ, theo cơ chế chu kỳ phủ định cái
phủ định để khẳng định sự tiến lên, cứ như vậy…. Con đường tiến lên trong
quá trình phát triển không phải là đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc quanh
co phức tạp, bao gồm cả sự thụt lùi tạm thời.
Trong “Luận cương về Phoiơbắc” C. Mác đã chỉ rõ: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [3, tr. 11], đó
là con người được xem xét như một thực thể hoạt động sáng tạo ra mọi giá trị vật
chất, tinh thần – con người thực tiễn, ở đó bản chất của họ được biểu hiện ra qua
các mối liên hệ phổ biến, tất yếu, bản chất của họ. Hoạt động của con người bao
giờ cũng dựa trên một ý thức nhất định. Nó bao gồm nhiều yếu tố khác nhau: trí
thức, lòng tin, ý chí… trong đó tri thức là hạt nhân của ý thức. Dựa vào tri thức
đúng đắn con người mới hoạt động có hiệu quả và đạt tới mục đích nhất định.
Tri thức đóng vai trò rất quan trọng đối với năng lực của con người. Nhưng nếu
chỉ có tri thức thì chưa đủ hình thành năng lực của chủ thể, mà tri thức đó phải
biến thành niềm tin, ý chí, tình cảm…tức là những phẩm chất tâm lý. Do vậy,
năng lực phải là sự thống nhất hữu cơ của cả những phẩm chất tâm lý và tri thức.
Năng lực không phải trừu tượng, mặc dù tồn tại cả dưới dạng năng lực tiềm tàng

và năng lực thông qua hoạt động thực tiễn của con người trong con người. Năng
lực thể hiện thông qua hoạt động nào đó và trong những điều kiện hoàn cảnh
nhất định, ở người có năng lực thì khả năng hoàn thành nhiệm vụ cao hơn và
ngược lại người không có năng lực sẽ hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ thấp, thậm
chí không hoàn thành nhiệm vụ.

23


Năng lực tư duy lôgic : Để xác định phạm trù năng lực tư duy lôgic cần
thấy được thực chất của hoạt động tư duy con người. Cũng như mọi hoạt động
khác, hoạt động tư duy bị chi phối bởi phương pháp luận chung nhất định với
chức năng định hướng, gợi mở cho quá trình hoạt động. Khi nói tư duy lôgic
hay phương pháp tư duy, là nói đến loại hình tư duy được định hướng bởi
phương pháp luận biện chứng hay phương pháp luận siêu hình như tác giả đã
trình bày. Năng lực tư duy lôgic là một dạng năng lực tư duy, phản ánh khả
năng làm chủ và mức độ thành thạo của chủ thể trong việc vận dụng các
nguyên tắc, các thao tác, suy luận tư duy lôgic của chủ thể vào nhận thức (và
giải đáp) những vấn đề nẩy sinh từ thực tiễn ở các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Năng lực tư duy lôgic một mặt, giúp con người huy động và sử dụng thành
thạo toàn bộ trí lực để nhận thức bản chất, phương thức tồn tại, kết cấu… của
sự vật. Mặt khác, giúp cụ thể hóa những nhận thức đó để chỉ đạo hành động cụ
thể của con người thành hoạt động thực tiễn của họ. Năng lực tư duy lôgic
thuộc về năng lực của từng người, về từng lĩnh vực và có thể biểu hiện thành
từng kiểu, từng loại năng lực tư duy khác nhau.
Năng lực tư duy lôgic là một dạng năng lực, là trình độ phát triển của
tư duy, phản ánh khả năng làm chủ và mức độ thành thạo hay cách vận dụng
các thao tác tư duy lôgic vào nhận thức hiện thực.
Năng lực là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống
và trong nghiên cứu khoa học. Tùy thuộc vào các khoa học khác nhau, cách

tiếp cận khác nhau mà quan niệm về năng lực được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Theo Từ điển tiếng Việt “năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” [56, tr. 660-661]. Năng
lực là khái niệm dùng để chỉ một thuộc tính của con người trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Năng lực tư duy lôgic thể hiện ở khả năng nắm vững và
vận dụng những quy luật, nguyên tắc và thao tác tư duy theo yêu cầu tư duy
đúng đắn một cách chủ động, sáng tạo phương pháp luận biện chứng duy vật

24


cũng như các nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phạm trù của tư duy lôgic, là quá
trình hình thành những trí thức mới, theo những quy luật, nguyên tắc
thao tác và yêu cầu của tư duy đúng đắn, phản ánh đúng hiện thực
khách quan, là tổng thể các tác động hợp quy luật của các chủ thể nhằm hình
thành và từng bước biến đổi về chất các yếu tố cấu thành năng lực tư duy
lôgic, theo hướng ngang tầm với chức năng nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trong
mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Theo đó có thể xem xét, phân loại năng lực
tư duy của chủ thể là cao hay thấp, tốt hay chưa tốt, nhuần nhuyễn hay chưa
nhuần nhuyễn. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra: năng lực tư duy lôgic là tổng
thể các tác động hợp quy luật của các chủ thể nhằm hình thành và từng bước
biến đổi về chất các yếu tố cấu thành năng lực tư duy lôgic, theo hướng đáp
ứng yêu cầu chức năng nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trong thực tiễn.
Năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh, trước
hết là một dạng của năng lực tư duy, là một trình độ phát triển nào đó của tư
duy, phản ánh khả năng làm chủ và mức độ thành thạo hay cách vận dụng
các thao tác lôgic vào nhận thức giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thực tiễn
đời sống học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh đang đặt ra.
Như vậy : Năng lực tư duy lôgic không phải trừu tượng, mà nó là khả năng tư
duy của con người phản ánh hiện thực khách quan theo nguyên tắc, quy luật

của tư duy lôgic, bao gồm cả khả năng tiềm ẩn có thể huy động được để giải
quyết các vấn đề đặt ra về mặt tư duy, mặc dù tồn tại dưới dạng tiềm tàng
trong con người, nhưng khi cần huy động nó có thể được thể hiện thông qua
hoạt động nào đó và trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, như vậy
năng lực tư duy lôgic được tồn tại dưới hai dạng đó là năng lực tư duy lôgic
thực tế và năng lực tư duy tiềm năng.
Phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh
là sự phát triển cả năng lực tư duy hình thức và năng lực tư duy biện chứng của
chủ thể, để họ có khả năng ngày càng nhận thức đầy đủ và hoàn thành tốt hơn

25


nhiệm vụ, yêu cầu học tập – rèn luyện theo những tiêu chuẩn của người học
viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh. Ngày nay, dưới tác động của
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, lôgic học phát triển hết sức mạnh mẽ
dẫn đến sự hình thành một loạt các bộ môn lôgic học hiện đại, như lôgic học
mệnh đề, lôgic học vị từ, lôgic học đa trị, lôgic học tình thái, lôgic học xác suất,
v.v. Các bộ môn đó cung cấp cho nhân loại những công cụ sắc bén giúp tư duy
con người ngày càng đi sâu hơn vào nhận thức các bí mật của thế giới khách
quan. Tức là khả năng tạo ra ngày càng nhiều sự phản ánh đúng về thế giới
khách quan ở trạng thái đứng yên, một cách hệ thống và tạo ra nhiều sự phản
ánh đúng về thế giới khách quan đang vận động biến đổi, phát triển. Quá
trình phát triển phải tuân thủ các quy luật của phép biện chứng duy vật, đó là
quá trình tích lũy dần dần về lượng dẫn đến biến đổi về chất và ngược lại; đó
là quá trình hình thành những nội dung tri thức về khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội nhân văn, khoa học quân sự, khoa học đơn ngành và khoa học
liên ngành....
Tổng hợp các vấn đề nghiên cứu phát triển năng lực tư duy lôgic và
học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh ta có quan niệm: Phát

triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh là quá
trình chủ động, tích cực của các chủ thể tác động ở Nhà trường, hướng vào
việc hình thành, bổ sung tri thức, rèn luyện phương pháp thao tác tư duy
chính xác, đáp ứng yêu cầu đào tạo của Nhà trường, và yêu cầu xây dựng,
phát triển Binh chủng Pháo binh.
Mục tiêu quá trình phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở
Trường sĩ quan Pháo binh: là quá trình người học viên hoàn thiện, nâng cao
tri thức vốn có của mình, làm cho nó ngày một giàu lên, có tính chất hệ thống
hơn, nhằm phát triển về khả năng hiện thực của hệ thống tri thức, phương pháp
thao tác tư duy của người, trong giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ đang đặt ra
của người nói chung và người học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo

26


binh hiện nay và người Sĩ quan Pháo binh sau khi họ ra trường nói riêng. Theo
đó quá trình này hướng đền mục tiêu tạo nên khả năng thao tác tư duy, vận
dụng sáng tạo hệ thống nguyên tắc tư duy trong nhận thức, không ngừng
nâng cao khả năng khái quát hóa, hệ thống hóa, hoàn thiện công cụ tư duy,
ngôn ngữ chuyên ngành ...của người học viên, thực hiện mục tiêu này làm
cho tư duy của họ trở nên nhanh nhạy hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn, sáng
tạo hơn, có thể kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn, chính xác những
vấn đề mới đặt ra trong quá trình học tập, rèn luyện tại Nhà trường và trên
các cương vị, chức trách ở đơn vị sau này.
Chủ thể phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan
Pháo binh. Về chủ thể phát triển bao gồm : Đảng ủy - Ban giám hiệu, lãnh đạo chỉ huy Nhà trường, các khoa giáo viên, các cơ quan chức năng, các đơn vị quản
lý học viên, các tổ chức, cán bộ quản lý học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ
quan Pháo binh. Học viên đào tạo sĩ quan ở Trường sĩ quan Pháo binh vừa là đối
tượng để phát triển, vừa là chủ thể trực tiếp để biến quá trình giáo dục - đào tạo
thành tư đào tạo

Nội dung phát triển năng lực tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ
quan Pháo binh.
Thứ nhất, là quá trình hình thành tri thức mới, chuyên ngành Pháo
binh, sự phát triển tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh bao
gồm tổng hợp các yếu tố, nhân tố dùng để đo mức độ phát triển tư duy lôgic
của họ trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường. Qua nghiên cứu và thực
tế cho thấy đánh giá sự phát triển tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan
Pháo binh có thể căn cứ vào một số nội dung cơ bản như: khả năng gia tăng,
tạo lập, thu thập các tri thức mới chuyên ngành Pháo binh, điều kiện cho
sự phát triển tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan Pháo binh.
Đây là nhóm các nội dung có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở, điều kiện thúc
đẩy quá trình phát triển tư duy lôgic của học viên ở Trường sĩ quan

27


×