Tải bản đầy đủ (.docx) (144 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển năng lực sư phạm của giáo viên trường quân sự quân khu 7 hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.03 KB, 144 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên có vai trò rất quan
trọng, là động lực để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và ảnh hưởng trực
tiếp đến sự thành công hoặc thất bại của sự nghiệp giáo dục ở mỗi quốc gia.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta khẳng định đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một kế sách, quốc sách hàng
đầu. Trong đó xác định những nhiệm vụ chủ yếu: “Coi trọng quản lý chất
lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo
từng cấp học và trình độ đào tạo” [9, tr.117].
Giáo viên và chất lượng đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục, đồng thời là yếu tố then chốt của mọi sự cải cách, đổi mới
giáo dục. Bất kể thời đại nào, không có thầy giỏi cả về năng lực, chuyên môn
và phẩm chất đạo đức thì khó có thể có một nền giáo dục có chất lượng.
Đối với nhà trường quân đội cần phải quan tâm bồi dưỡng năng lực sư
phạm, nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo có năng lực tổng hợp, khái quát hoá
cao, tư duy sư phạm phát triển cùng hệ thống phẩm chất đạo đức và giá trị
tương ứng với yêu cầu của nghề nghiệp sư phạm.
Những năm qua, chất lượng đội ngũ giáo viên Trường Quân sự Quân
khu 7 từng bước được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu, yêu cầu
giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, nỗ lực phấn đấu nâng cao phẩm
chất và năng lực sư phạm, trong đó một số giáo viên có sự phát triển khá tốt
về kỹ năng và tay nghề sư phạm, chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa
học của đội ngũ giáo viên ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7
còn bộc lộ những khuyết điểm, có mặt chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo ngày càng cao trong giai đoạn mới. Một bộ phận giáo viên
1



trình độ kiến thức và phương pháp sư phạm còn hạn chế, thiếu linh hoạt trong
tổ chức hoạt động thực tiễn sư phạm, chất lượng chuyên môn giảng dạy chưa
cao, kỹ năng thực hành huấn luyện, giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu của nhà
trường quân sự.
Về mặt lý luận, đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu sự
hình thành, phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở các nhà trường trong
và ngoài Quân đội dưới nhiều cấp độ khác nhau. Song chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về phát triển năng lực sư phạm của
giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7 hiện nay.
Vì thế việc lựa chọn vấn đề: “Phát triển năng lực sư phạm của giáo
viên Trường Quân sự Quân khu 7 hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong
khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên ngành tâm lý học là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Những nghiên cứu ở nước ngoài
Năng lực là một thuộc tính tâm lý quan trọng của nhân cách, quyết định
đến tính hiệu quả trong hoạt động của con người.Nghiên cứu về phát triển
năng lực xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau trong tâm lý học phương Tây
và tâm lý học Xô Viết.
Trong tâm lý học phương Tây, tiêu biểu có những nghiên cứu như:
Thuyết nguồn gốc sinh vật về phát triển năng lực cho con người, đại
biểu là: Galton.F, Bule.K; Điway.Đ, Reves.G, Stranger, Freud.S,...cho rằng
năng lực con người phụ thuộc vào yếu tố sinh học, di truyền. Thực chất đây là
quan điểm phủ nhận vai trò xã hội, vai trò của giáo dục đối với sự hình thành
và phát triển năng lực.
Thuyết nguồn gốc xã hội về sự phát triển năng lực con người, đại biểu
là các nhà tâm lý học hành vi như: Watson.J, Skiner.B.F, Tolman.E,...khẳng
định: sự hình thành, phát triển năng lực con người hoàn toàn do các nhân tố
xã hội thuộc môi trường bên ngoài và phủ nhận yếu tố sinh vật của con người.
2



Thuyết hội tụ hai yếu tố về sự phát triển năng lực con người, đại biểu là
nhà tâm lý học người Đức Stecnơ.V cho rằng sự tác động qua lại giữa hai yếu
tố môi trường và yếu tố di truyền cá nhân quyết định trực tiếp tới sự hình
thành và phát triển năng lực của con người, trong đó yếu tố di truyền giữ vai
trò quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự hình thành, phát triển năng lực của
con người.
Nhìn một cách tổng quát thì kết quả nghiên cứu của tâm lý học phương
Tây đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển lý luận khoa học
nghiên cứu về sự hình thành và phát triển năng lực con người, chỉ ra những
yếu tố, hành vi cần đạt được trong quá trình phát triển năng lực cho mỗi cá
nhân. Tuy nhiên, các hướng nghiên cứu này lại tuyệt đối hóa một yếu tố nào
đó, nên chưa đánh giá đúng, đủ vai trò của từng yếu tố trong sự hình thành và
phát triển năng lực con người.
Trong Tâm lý học Xô Viết, có thể kể đến các nghiên cứu của:
Chieplôp.B.M; Rubinstêin.L; Lêonchiep.A.N; Côvaliôp.A.G; Ananhiep.B.G;
Rudik.P.A; Lâytex.N.X....
Chieplôp.B.M quan niệm về sự hình thành và phát triển năng lực: “Các
bẩm sinh có thể là các đặc điểm giải phẫu sinh lí, có nghĩa là các tố chất,
chúng là cơ sở của sự phát triển năng lực, còn năng lực bao giờ cũng là kết
quả của sự phát triển” [56, tr.25].
Rubinstêin.X.L thì cho rằng: “Các năng lực của con người không chỉ
được hình thành trong quá trình nắm sản phẩm do con người tạo ra trong quá
trình phát triển lịch sử, mà cả trong quá trình tạo ra sản phẩm, quá trình tạo ra
thế giới đối tượng, đồng thời cũng là quá trình phát triển chính bản thân
mình” [56, tr.23]. Trên cơ sở phân biệt giữa sự phát triển, sự tích luỹ, sự
truyền đạt kinh nghiệm xã hội lịch sử và cơ chế phát triển năng lực,
Rubinstêin.X.L đã đưa ra nguyên tắc phát triển năng lực cho con người, ông
viết: “Sự phát triển các năng lực diễn ra theo đường xoắn ốc: là sự hiện thực
3



hóa các tiềm năng, nó biểu hiện năng lực ở một trình độ nhất định, nó mở ra
những tiềm năng mới đối với sự phát triển tiếp theo, đối với sự phát triển các
năng lực ở trình độ cao hơn. Tính tài năng của con người được quy định bởi
một tập hợp các tiềm năng mới dẫn tới việc thực hiện những cái tiềm năng
hiện có” [56, tr.27].
Cùng lý giải về sự hình thành và phát triển năng lực ở con người,
Lêonchiep.A.N trong các nghiên cứu của mình đã cho rằng, các phẩm chất di
truyền về mặt sinh học là một trong những điều kiện tiền đề vật chất của năng
lực, ông chỉ rõ: “...quá trình bẩm sinh di truyền chỉ là những điều kiện cần thiết
bên trong (chủ thể) giúp cho cấu tạo tâm lý mới có thể xuất hiện” [39, tr.96].
Côvaliôp.A.G đã cho rằng, nên xem tư chất không chỉ là đặc điểm sinh lí giải phẫu mà chủ yếu là đặc điểm sinh lí - tâm lý, theo đó tác giả đi đến khẳng
định: “Tư chất là cơ sở tự nhiên đầu tiên của năng lực, chúng còn chưa phát triển
nhưng sẽ bộc lộ ra trong những thử thách đầu tiên của hoạt động” [6, tr.97]. Về
quá trình hình thành và phát triển năng lực, theo Côvaliôp.A.G nó luôn gắn liền
với tính tích cực của cá nhân trong hoạt động lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch
sử, trong việc chiếm lĩnh và sử dụng những tri thức do thế hệ trước tích lũy
được truyền thụ lại. Theo ông: “Trong năng lực của mỗi người biểu hiện một
cách cô đọng kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm hoạt động của cá nhân về
mặt lý luận và thực tiễn” [5, tr.119]. Đồng thời Côvaliôp.A.G đã đưa ra các chỉ
số đánh giá năng lực, theo ông: “Năng lực thể hiện rõ ràng nhất: Trong khuynh
hướng; Trong nhịp điệu hoạt động và sự tiến bộ; Trong số lượng và chất lượng
của kết quả lao động và trong tính độc đáo của nó” [5, tr.87].
Quan niệm của Ananhiep.B.G thì: “Tố chất (tiền đề) trở thành năng
lực thực sự chỉ được thể hiện trong chính hoạt động và thông qua hoạt
động” [56, tr.31].
Cũng nghiên cứu về sự hình thành và phát triển năng lực ở con người,
Theo Rudik.P.A: “Không phải là tiền đề sinh vật mà do sự phân chia lao động,
4



làm xuất hiện những giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội là nguyên
nhân làm phát triển năng lực của con người” [38, tr.407].
Lâytex.N.X khẳng định: “Năng lực là những thuộc tính tâm lý nào của
cá nhân mà là điều kiện để hoàn thành tốt đẹp những loại hoạt động nhất
định” [20, tr.130]. Ở đây, ông quan tâm tới chất lượng các loại hoạt động mà
trong đó chỉ có các thuộc tính tâm lý của cá nhân chi phối, ảnh hưởng làm
tiền đề cho hoạt động đó đi tới thành công thì gọi là năng lực.
Tóm lại, những nghiên cứu của các nhà tâm lý học Xô Viết đã có
những đóng góp quan trọng vào lý luận phát triển năng lực con người dưới
góc độ tâm lý học.Các nhà tâm lý học Xô Viết đã lý giải khá đầy đủ, cụ thể và
khoa học về sự hình thành năng lực con người, đánh giá chính xác vai trò của
từng nhân tố trong sự hình thành, phát triển năng lực. Đồng thời, các quan
điểm đều đi đến khẳng định: năng lực tồn tại trong hoạt động, gắn với một
hoạt động cụ thể.
* Những nghiên cứu ở trong nước
Tâm lý học Việt Nam nói chung và tâm lý học quân sự nói riêng có khá
nhiều nghiên cứu khác nhau về năng lực và phát triển năng lực con người, đặc
biệt là những nghiên cứu về năng lực sư phạm, tiêu biểu như:
Tác giả Phạm Minh Hạc khi nghiên cứu về năng lực con người đã chỉ
ra vai trò của tri thức, kỹ xảo, kỹ năng trong cấu trúc năng lực, đồng thời làm
sáng tỏ con đường hình thành và phát triển năng lực của cá nhân phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế của xã hội, của cộng đồng mà chủ thể sống trong đó và
phụ thuộc vào hoạt động tương ứng của cá nhân [16].
Nguyễn Quang Uẩn chỉ rõ vai trò quan trọng của yếu tố sinh vật, những
đặc điểm bẩm sinh di truyền là những điều kiện vật chất không thể thiếu trong
quá trình hình thành, phát triển năng lực cá nhân, khẳng định năng lực được thể
hiện trong hoạt động và hình thành, phát triển trong chính hoạt động đó [56].
Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị coi năng lực sư phạm là loại năng

5


lực chuyên biệt có quan hệ chặt chẽ với năng lực chung, năng lực sư phạm
được thể hiện ở phẩm chất trí tuệ, ngôn ngữ, tưởng tượng nét ý chí và tính
cách của người giáo viên [44].
Mạc Văn Trang trong nghiên cứu “Tâm lý học - Dùng cho đào tạo giáo
viên kỹ thuật” coi năng lực sư phạm của người giáo viên được hợp thành bởi
những “năng lực bộ phận” như: năng lực giảng dạy, năng lực giáo dục học
sinh, năng lực tổ chức và cho rằng trong các năng lực bộ phận lại gồm nhiều
“năng lực chuyên biệt” [57].
Vũ Thị Nho đã chỉ ra những điều kiện cho sự phát triển tâm lý, bao
gồm: Các yếu tố: “Thể chất, bẩm sinh, di truyền; môi trường xã hội; hoạt
động của chủ thể” trong đó yếu tố bẩm sinh, di truyền là tiền đề, là điều kiện
tự nhiên của sự phát triển; môi trường xã hội là điều kiện quan trọng cho sự
phát triển tâm lý và “Hoạt động của chủ thể” có ý nghĩa quyết định đối với
chất lượng của sự phát triển tâm lý [32, tr.25].
Trong tâm lý học quân sự, nhiều tác giả đã nghiên cứu về năng lực và
năng lực sư phạm.Đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động sư phạm quân sự, các
nhà tâm lý học sư phạm quân sự đã khẳng định: năng lực sư phạm là một
phẩm chất tạo thành trong cấu trúc nhân cách người giảng viên nhà trường
quân sự, nó bắt nguồn từ các tố chất bẩm sinh... và được hình thành phát triển
trong hoạt động sư phạm cụ thể của từng người. Người có năng lực sư phạm
đương nhiên có tay nghề sư phạm nếu được bố trí trong môi trường hoạt động
sư phạm [43, tr.255].
Hoàng Đình Châu cho rằng: “Cùng với kinh nghiệm, kiến thức cũng
như các phẩm chất đạo đức, tâm lý thì năng lực sư phạm là một thành phần
chủ yếu tạo nên uy tín người giảng viên trong quá trình xây dựng bầu không
khí tâm lý tích cực của tập thể khoa giáo viên trong các trường đào tạo sĩ
quan” [4, tr.19-22].

Đinh Hùng Tuấn trong nghiên cứu “Rèn luyện phong cách của người giáo
6


viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường Đại học quân sự” [52, tr.25],đã
chỉ rõ: Cùng với những phẩm chất sư phạm, tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, khả
năng giao tiếp sư phạm thì năng lực sư phạm là một thành phần quan trọng
tạo nên phong cách sư phạm và là một tiêu chí để đánh giá phong cách sư
phạm của người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Rèn luyện phong
cách sư phạm phải thường xuyên chú trọng toàn diện, trong đó có rèn luyện
năng lực sư phạm.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, có nhiều công trình đi sâu nghiên
cứu về năng lực sư phạm của giáo viên, và đã có nhiều đóng góp lý luận và
thực tiễn:
Đàm Minh Sơn trong luận văn thạc sĩ tâm lý học năm 2004 “Nghiên
cứu phát triển năng lực sư phạm cho học viên Hệ sư phạm trong quá trình đào
tạo tại Học viện Chính trị Quân sự”, đã đưa ra khái niệm về phát triển năng
lực sư phạm cho học viên Hệ sư phạm trong quá trình đào tạo tại Học viện
Chính trị Quân sự và xác lập được một mô hình về năng lực sư phạm của
người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự làm cơ sở tiến hành
phát triển năng lực sư phạm cho học viên Hệ sư phạm trong quá trình đào tạo
tại Học viện Chính trị Quân sự [37].
Nguyễn Ngọc Sáng về “giải pháp nâng cao năng lực sư phạm cho giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội” - luận văn
thạc sỹ tâm lý học năm 2010, đã chỉ ra: “năng lực sư phạm của giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội là tổng hợp các phẩm
chất và sinh lí của người giảng viên để thực hiện thành công các mục tiêu,
nhiệm vụ đào tạo ở các trường sĩ quan quân đội, bảo đảm cho hoạt động sư
phạm của họ đạt kết quả cao nhất” [36,tr.83].Đồng thời, tác giả đã xây dựng
bộ tiêu chí đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng

cao năng lực sư phạm của giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường
sĩ quan quân đội hiện nay.
7


Nguyễn Văn Lộc trong nghiên cứu “Quản lý quá trình bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên trường cao đẳng công nghệ và kỹ thuật ô
tô - tổng cục kỹ thuật” - luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục năm 2014, đã chỉ ra
khái niệm năng lực sư phạm của giảng viên: “năng lực sư phạm của đội ngũ
giảng viên là tổng hợp các phẩm chất, năng lực của giảng viên phù hợp với
những yêu cầu của hoạt động sư phạm nhằm bảo đảm cho hoạt động ấy nhanh
chóng thành thạo và đạt hiệu quả cao, đáp ứng nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của
cơ sở giáo dục” [23, tr.19].
Nguyễn Công Vượng trong luận văn thạc sĩtâm lý học năm 2015 “Khó
khăn tâm lý trong hình thành năng lực sư phạm của học viên đào tạo giáo viên
ở Trường Sĩ quan Chính trị” đã chỉ ra khái niệm năng lực sư phạm và các yếu
tố cơ bản tạo thành năng lực sư phạm bao gồm: “các phẩm chất trí tuệ; hệ
thống kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; hệ thống kỹ xảo, kỹ năng sư
phạm; hệ thống các phẩm chất tâm lý nghề nghiệp sư phạm” [59, tr.19].
Nhìn chung, các công trình trên đã khám phá và làm rõ nhiều vấn đề về
năng lực và năng lực sư phạm trong và ngoài Quân đội. Mỗi công trình đề cập
và luận giải những dạng năng lực ở những góc độ khác nhau, là cơ sở khoa học
để phát huy vai trò và nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Đây là cơ sở quan trọng để tiếp cận và đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận
về năng lực sư phạm và phát triển năng lực sư phạm, đồng thời nghiên cứu
các biện pháp tâm lý - sư phạm phát triển năng lực sư phạm của giáo viên
Trường quân sự Quân khu 7 hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn về năng lực, phát triển năng

lực sư phạm của giáo viên, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tâm lý - sư
phạm phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7
hiện nay.
8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải và làm rõ cơ sở lý luận về năng lực, phát triển năng lực sư
phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7.
Khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực sư phạm của giáo viên Trường
Quân sự Quân khu 7 hiện nay.
Đề xuất một số biện pháp tâm lý - sư phạm phát triển năng lực sư phạm
của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7 hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Cán bộ, Giáo viên, Học viên Trường Quân sự Quân khu 7.
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ các biểu hiện, các yếu tố ảnh
hưởng và thực trạng năng lực sư phạm.
Phạm vi khảo sát thực tế tập trung chủ yếu ở các khoa giáo viên; cán bộ
quản lý học viên các đơn vị và học viên cao đẳng quân sự địa phương Trường
Quân sự Quân khu 7.
Các tư liệu, số liệu phục vụ công tác nghiên cứu được giới hạn từ năm
2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7 là yếu tố
đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Nếu chỉ ra được những đặc điểm, biểu hiện năng lực sư phạm và những

yếu tố ảnh hưởng đến phát triển năng lực sư phạm của giáo viên, đồng thời
đánh giá đúng thực trạng năng lực sư phạm của giáo viên, thì sẽ đề xuất được
các biện pháp tâm lý - sư phạm phát triển năng lực sư phạm của giáo viên
Trường Quân sự Quân khu 7 hiện nay.

9


6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên dựa trên hệ thống nguyên tắc,
phương pháp luận của Tâm lý học mác xít và khoa học xã hội nhân văn như:
nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động; nguyên tắc phát
triển; nguyên tắc tiếp cận nhân cách; nguyên tắc tiếp cận hệ thống cấu trúc;
tiếp cận thực tiễn - lịch sử.
Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động:tâm lý - ý
thức và hoạt động là thống nhất, vì vậy nghiên cứu đánh giá năng lực sư phạm
của giáo viênTrường Quân sự Quân khu 7phải thông qua các biểu hiện trong
hành vi và hoạt động cụ thể.
Nguyên tắc phát triển:nghiên cứu, đánh giá năng lực sư phạm của giáo
viên phải đặt trong sự vận động, biến đổi và phát triển liên tục, từ thấp đến
cao phù hợp với sự phát triển của hoạt động sư phạm, đối tượng dạy học và sự
phát triển năng lực của bản thân giáo viên trong những điều kiện cụ thể.
Nguyên tắc tiếp cận nhân cách:quá trình nghiên cứu, để đánh giá năng
lực sư phạm của giáo viên, luận văn tiếp cận toàn diện nhân cách người giáo
viên theo chuẩn mực chung về phẩm chất, năng lực, cũng như yêu cầu chung
về năng lực sư phạm của người giáo viên quân đội trong tình hình mới.
Nguyên tắc tiếp cận hệ thống cấu trúc: năng lực sư phạm của giáo viên
là tổ hợp của ba thành tố nhận thức, thái độ và kỹ năng có mối quan hệ chặt
chẽ, biện chứng trong một chỉnh thể thống nhất. Theo đó, khi nghiên cứu phải

xem xét đến vai trò, mối quan hệ các thành tố trong hệ thống và sử dụng tổng
hợp các biện pháp tác động đến cả ba thành tố trong mối quan hệ, liên hệ
thống nhất, biện chứng.
Nguyên tắc tiếp cận thực tiễn - lịch sử:quá trình hình thành, phát triển
năng lực sư phạm giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7 gắn với môi trường,
điều kiện hoạt động thực tiễn sư phạm, thực tiễn hoạt động quân sự đặc thù
10


của một nhà trường quân sự quân khu. Do đó, việc nghiên cứu năng lực sư
phạm của giáo viên cần đặt trong bối cảnh thực tiễn - lịch sử cụ thể.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khách quan
của tâm lý học như: phương pháp điều tra; phương pháp quan sát; phương
pháp tọa đàm, phỏng vấn; phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp
phân tích kết quả hoạt động; phương pháp xin ý kiến chuyên gia; phương
pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học, nhằm đánh giá khách quan, rút ra
kết luận chính xác có cơ sở khoa học các vấn đề nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận vănđã xây dựng được bộ khái niệm công cụ về năng lực, năng lực
sư phạm và phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường quân sự Quân
khu 7.Phân tích và làm rõ những đặc điểm hoạt động sư phạm của đội ngũ
giáo viên và chỉ ra được 10 biểu hiện năng lực sư phạm của giáo viên Trường
quân sự Quân khu 7; Đồng thời, đã xây dựng được bộ công cụ đánh giá khách
quan, chính xác,qua đó mô tả được bức tranh tổng quát thực trạng năng lực sư
phạm của giáo viên. Đề xuất được hệ thống các biện pháp tâm lý - sư phạm
phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7 hiện
nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và
vận dụng đối với Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Quân sự Quân khu 7, các

cơ quan, đơn vị, khoa giáo viêntrong hướng dẫn, giúp đỡ đội ngũ giáo viên
phát triển năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu giảng dạy, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường trong tình hình mới.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, hai chương (5 tiết), kết luận, kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SƯ PHẠM
CỦA GIÁO VIÊN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Năng lực sư phạm của giáo viên
* Năng lực
Năng lực là một thuộc tính tâm lý quan trọng trong cấu trúc nhân cách,
nghiên cứu năng lực trong tâm lý học có nhiều cách tiếp cận khác nhau, theo
đó các tác giả cũng đưa ra nhiều quan niệm khác nhau, cụ thể:
Tiếp cận năng lực là một tổ hợp những thuộc tính nói chung của cá nhân để
hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó, Côvaliôp.A.G cho rằng: “Năng lực là
một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những
yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được kết quả cao” [5,
tr.90].Theo ông, năng lực cần được hiểu như là một tổ hợp của các thuộc tính
cá nhân cần thiết cho việc thực hiện thành công một hoạt động nhất định. Các
thuộc tính đó không tồn tại độc lập bên cạnh nhau một cách đơn giản, mà
chúng tác động qua lại lẫn nhau trong một hệ thống nhất định.
Phạm Minh Hạc cho rằng: “Năng lực chính là một tổ hợp đặc điểm tâm
lý của một con người (còn gọi là tổ hợp thuộc tính tâm lý của một nhân cách),

tổ hợp đặc điểm này vận hành theo một mục đích nhất định tạo ra kết quả một
hoạt động nào đó” [17, tr.145]. Theo ông, năng lực luôn gắn liền với một hoạt
động nhất định; năng lực của một con người cụ thể được biểu hiện trong hoạt
động và bằng kết quả của hoạt động. Năng lực cũng được hiểu như những đặc
điểm tâm lý cá biệt tạo thành điều kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ
của việc tác động vào đối tượng lao động.
Tiếp cận năng lực là tổ hợp các phẩm chất tâm lý và sinh lý của cá nhân
để hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó, theo Rudik.P.A: “Năng lực
là tính chất tâm - sinh lý của con người chi phối các quá trình tiếp thu các
12


kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như hiệu quả thực hiện một hoạt động nhất
định” [38, tr.401]. Ở đây, ông đã mở rộng khái niệm năng lực mà trong đó các
điều kiện tâm - sinh lý có sự chi phối các loại hoạt động của con người.
Chieplôp.B.M xác định: “Năng lực là những đặc điểm tâm lý cá nhân liên quan
đến tính kết quả trong thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác” [12, tr.24].Tác
giả xem xét năng lực từ góc độ khác biệt tâm lý cá nhân giữa người này với
người khác thông qua kết quả hoạt động.
Nguyễn Quang Uẩn và các nhà tâm lý học sư phạm thì cho rằng: “Năng
lực là một tổ hợp những đặc điểm tâm lý và sinh lý cá nhân, đang là điều kiện
chủ quan để cá nhân đó thực hiện có kết quả một hoạt động” [57, tr.172]. Với
cách xem xét này các nhà tâm lý học sư phạm đã coi “những đặc điểm tâm lý
và sinh lý cá nhân” là điều kiện chủ quan của năng lực và năng lực chỉ được
biểu hiện trong quá trình hoạt động.
Vũ Dũng trong từ điển tâm lý học cũng đưa ra quan niệm về năng lực: “Là tập
hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên
trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định” [13, tr.160].
Theo tác giả, bất cứ một phẩm chất đơn lẻ nào của cá nhân cũng không thể đảm bảo
hoàn thành tốt đẹp một hoạt động nhất định. Sự thành công của bất cứ một hoạt động

nào đều do sự kết hợp tổng thể của nhiều phẩm chất tâm lý cá nhân quyết định.
Tiếp cận năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức của nhiều
yếu tố như kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân...
đáp ứng hiệu quả của hoạt động trong bối cảnh nhất định, tác giả Meier
Bernd quan niệm: “Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội
tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng
hành động và trách nhiệm đạo đức” [25].
Tác giả Weinert.F.E quan niệm: “Năng lực là những kỹ năng, kỹ xảo học được
hoặc có sẵn của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn
sàng về động cơ xã hội... và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách
có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt” [60, tr.17-31].
13


Theo Hunsakr (2010) thì năng lực không phải dạng khả năng (Ability - có
thể làm được hoặc không làm được) và cũng không phải là tiềm năng (potential)
cả mỗi người mà nó thực sự tồn tại với mỗi cá nhân [dẫn theo 19, tr.14-18].
Tiếp cận năng lực là sự tổng hợp của ba thành tố tâm lý cơ bản bao
gồm: kiến thức, thái độ và kỹ năng.
Đây là hướng tiếp cận mới và khá phổ biến hiện nay về năng lực, được
coi là bước đột phá trong nghiên cứu và ứng dụng năng lực vào thực tiễn nghề
nghiệp. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu của các tác giả như: Battal
Christian, Barnett, Bloom Benjamin, Martin và Phạm Đỗ Nhật Tiến …
Tác giả Battal Christian khi nghiên cứu về năng lực chuyên môn trong
hoạt động nghề nghiệp đã cho rằng, năng lực chuyên môn là những năng
lực nhận thức, năng lực thực tiễn và năng lực hành vi mà một cá nhân đạt
được. Năng lực chuyên môn bao gồm “kiến thức”, “kỹ năng” và “hành vi
thái độ”cần thiết để đảm nhiệm một vị trí hoặc thực hiện một hoạt động.
Năng lực có được thông qua đào tạo và qua kinh nghiệm nghề nghiệp của
chủ thể [2, tr.284].

Barnett cho rằng: “Năng lực là một tập hợp các kiến thức, kỹ năng và
thái độ phù hợp với một hoạt động thực tiễn” [Dẫn theo 15].
Tác giả Bloom Benjamin (1956) là người đầu tiên đưa ra mô hình năng
lực (Competense Model) đó là tổ hợp của kiến thức, kỹ năng và đặc điểm cá
nhân (thái độ bản thân) cần để hoàn thành tốt một vai trò hoặc công việc. Đây
là mô hình năng lực được sử dụng trong quản trị nhân sự và phát triển năng
lực cá nhân dựa trên ba nhóm tiêu chuẩn chính: 1- Kiến thức (Knowledges)
thuộc về năng lực tư duy; 2- Kỹ năng (Skills) thuộc về kỹ năng thao tác và 3 Phẩm chất hay thái độ (Attitude) thuộc về cảm xúc, tình cảm [Dẫn theo 19].
Theo Tổ chức Lao động thế giới - ILO, “Năng lực là sự vận dụng các kỹ
năng, kiến thức và thái độ để thực hiện các nhiệm vụ theo tiêu chuẩn công
nghiệp và thương mại dưới các điều kiện hiện hành”. Năng lực thực chất là sự
14


tích hợp của các thành tố kiến thức - kỹ năng - thái độ của chủ thể tạo ra khả
năng thực hiện một công việc nhất định có kết quả [Dẫn theo 46].
Martin và các cộng sự cho rằng, năng lực bao giờ cũng là năng lực để
hành động. Vì thế, chỉ có thể làm rõ khái niệm năng lực qua các đặc trưng chủ
yếu của nó, theo đó các tác giả khẳng định: năng lực được xây dựng trên một
tập hợp các nguồn lực bên trong cá nhân như: kiến thức, kỹ năng, thái độ và
nguồn lực bên ngoài như: tài liệu, sách vở, đồng nghiệp [45, tr.158].
Tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng: năng lực là sự kết hợp một cách linh
hoạt và có tổ chức của kiến thức, thái độ và kỹ năng. Theo đó, khi nghiên cứu về
năng lực nghề nghiệp của người giáo viên, Phạm Đỗ Nhật Tiến quan niệm: “Năng
lực nghề nghiệp được hiểu là tổng thể của những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà
giáo viên cần có để xử lý thành công trước sự đa dạng của các tình huống giảng
dạy, giáo dục” [45, tr.183]. Theo tác giả, năng lực nghề nghiệp được hình thành từ
quá trình đào tạo trong trường sư phạm và phát triển qua thực tế đứng lớp.
Trên cơ sở phân tích kế thừa quan điểm của các nhà tâm lý học nói
chung, tâm lý học sư phạm và tâm lý học quân sự nói riêng về năng lực, có

thể đưa ra khái niệm chung về năng lực như sau: “Năng lực là tổ hợp của
các thành tố kiến thức, thái độ và kỹ năng của chủ thể đáp ứng được yêu
cầu hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt động ấy đạt kết quả theo mục
đích đã định”.
Từ khái niệm về năng lực chỉ ra những nội dung cốt yếu sau:
Nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt kết quả trong hoạt động cụ thể
nào đó, đó là phẩm chất nhân cách mang tính ổn định, bền vững trong mỗi cá
nhân, là một phẩm chất mang tính tổng hợp của nhân cách.
Năng lực con người bao giờ cũng có mầm móng bẩm sinh tuỳ thuộc vào
sự tổ chức của hệ thống thần kinh trung ương, nhưng nó chỉ được phát triển
trong quá trình hoạt động phát triển của con người, trong xã hội có bao nhiêu
hình thức hoạt động của con người thì cũng có bấy nhiêu loại năng lực. Năng
15


lực được hình thành, phát triển trong hoạt động và biểu hiện ra trong hoạt
động. Thông qua hoạt động và bằng hoạt động, chủ thể mới có nhận thức về
đối tượng, hiểu rõ về bản chất, quy luật, giá trị của đối tượng. Trên cơ sở đó,
chủ thể có sự bộc lộ thái độ phù hợp với đối tượng hoạt động và tìm kiếm
được những cách thức, phương tiện tác động cải tạo đối tượng, qua đó cũng
đồng thời hình thành được hệ thống các kỹ năng hoạt động tương ứng với đối
tượng, mang lại kết quả, hiệu quả hoạt động.
Năng lực bao giờ cũng là năng lực trong một hoạt động cụ thể, hướng tới một
mục đích nhất định và đòi hỏi những phẩm chất tâm lý tương ứng, không giống
nhau.
Khi xét đến bản chất của năng lực cần chú ý năng lực không phải là những
thuộc tính tâm lý cá nhân riêng lẻ, cũng không phải là phép cộng giản đơn của các
phẩm chất tâm lý ấy mà là tổ hợp các thành tố kiến thức, thái độ, kỹ năng tạo nên
khả năng hiện thực của chủ thể trong hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động
ấy đạt được kết quả theo mục đích đã định. Tổ hợp không có nghĩa là chúng tồn

tại song song mà chúng có mối quan hệ thống nhất hữu cơ, tác động qua lại, chi
phối và chuyển hóa lẫn nhau theo yêu cầu của hoạt động nhất định.
Năng lực là sự khác biệt tâm lý của cá nhân người này khác người kia, nếu
một sự việc thể hiện rõ tính chất mà ai cũng như ai thì không thể nói về năng lực.
Năng lực chỉ là những khác biệt có liên quan đến hiệu quả việc thực hiện một
hoạt động nào đó chứ không phải bất kỳ những sự khác nhau cá biệt chung chung nào.
Năng lực của cá nhân phản ánh mức độ đạt được của kiến thức, thái độ,
kỹ năng và chất lượng, hiệu quả trong một hoạt động cụ thể nào đó của họ.
Nhưng để có hiệu quả hoạt động, cá nhân phải có những phẩm chất nhân cách
tương ứng, phù hợp với hoạt động đó. Đặc trưng cơ bản của chủ thể có năng
lực được biểu hiện: có sự hiểu biết và sự tập trung trí lực, thể lực vào hoạt
động; nhanh chóng chiếm lĩnh tri thức, có thái độ tích cực, phù hợp, chuyên
tâm với công việc và bảo đảm sự thuần thục các kỹ năng của hoạt động, làm
16


cho hoạt động diễn ra nhanh chóng đạt hiệu quả theo mục đích đã định.
Tâm lý học chia năng lực thành các dạng khác nhau như năng lực chung
và năng lực chuyên môn (năng lực chuyên biệt), trong đó, năng lực sư phạm
là một loại năng lực chuyên biệt.
* Năng lực sư phạm của giáo viên
Trong lịch sử phát triển của tâm lý học thì tâm lý học sư phạm là một
chuyên ngành phát triển sớm nhất khi nó được vận dụng tri thức tâm lý học
vào công tác giảng dạy và giáo dục ở nhà trường.
Quá trình phát triển, tâm lý học sư phạm đã mở ra nhiều hướng nghiên
cứu khác nhau. Một trong những hướng nghiên cứu chủ yếu đó là nghiên cứu
về người thầy và nâng cao hiệu quả hoạt động sư phạm của người thầy, trong
đó có năng lực sư phạm của người thầy giáo. Các công trình nghiên cứu của
Vưgôtxki.L.X, Ganpêrin.P.Ia, Lêonchiep.A.N, Encônhin.Đ.Bđã chỉ ra khi
nghiên cứu năng lực sư phạm phải tiếp cận trên các hướng sau:

Một là, tiếp cận năng lực sư phạm với tư cách là một năng lực chuyên
biệt, được hình thành từ thực tiễn hoạt động sư phạm.
Hai là, cần hiểu năng lực sư phạm là một phẩm chất tâm lý đặc biệt của
nhân cách nhà sư phạm. Năng lực sư phạm là tổng hợp các phẩm chất tâm lý
của nhà sư phạm, nó không phải là sự cộng lại giản đơn của các phẩm chất
tâm lý riêng lẻ, mà có quan hệ tác động hữu cơ với nhau, đảm bảo cho tốc độ
và hiệu quả cao trong hoạt động sư phạm của nhà sư phạm. Đây là nét đặc
trưng của năng lực sư phạm, là cơ sở để phân biệt năng lực sư phạm với
những phẩm chất khác trong nhân cách nhà sư phạm.
Ba là, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển năng lực sư phạm
phải tuân theo quy luật về sự hình thành, phát triển của năng lực chung; đồng
thời xem xét nó trong sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp bởi chính hoạt động sư
phạm của nhà sư phạm. Nói cách khác, năng lực sư phạm chỉ hình thành, tồn
tại, phát triển và biểu hiện trong hoạt động sư phạm. Do đó nghiên cứu năng
lực sư phạm phải đặt nó trong điều kiện vận động, phát triển bởi hoạt động sư
17


phạm của nhà sư phạm.
Bốn là, khi xem xét năng lực sư phạm phải hiểu đó là nội dung bên trong
của nhân cách nhà sư phạm, được biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động
sư phạm của nhà sư phạm và thể hiện ở mặt hiệu suất hoạt động của nhà sư
phạm, tạo nên giá trị xã hội trong nhân cách nhà sư phạm.
Đồng thời, khi nghiên cứu năng lực sư phạm của giáo viên cần đặt trong
mối quan hệ với điều kiện, đặc thù hoạt động sư phạm của giáo viên, theo
đóhoạt động sư phạm của người giáo viên là hoạt động nghề nghiệp của các
giáo viên nhằm thực hiện các chức năng dạy học, giáo dục, nghiên cứu khoa
học và tổ chức công tác học tập độc lập của các học viên theo mục tiêu giáo
dục, đào tạo của nhà trường.
Chức năng dạy học được thực hiện thông qua hoạt động dạy học, truyền

thụ phương pháp lĩnh hội tri thức và là hoạt động chủ yếu của người giáo
viên. Chức năng giáo dục trong hoạt động sư phạm của người giáo viên được
tiến hành đồng thời cùng với hoạt động dạy học để phát triển các phẩm chất
nhân cách cần thiết cho người học theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của từng
ngành nghề đặt ra. Quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học, giáo dục, người
giáo viên còn phải tham gia nghiên cứu khoa học để tự bồi dưỡng trình độ
chuyên sâu, nâng cao chất lượng dạy học, đồng thời có điều kiện phát triển
trình độ năng lực của bản thân đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Việc tổ chức, điều khiển công tác học tập độc lập của các học viên được
thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động tự học, tự nghiên cứu và tự ôn luyện
có giáo viên hướng dẫn giúp học viên củng cố kiến thức đã lĩnh hội trên lớp,
tìm ra phương pháp ôn luyện thích hợp, nắm được bản chất vấn đề nghiên cứu
thuộc lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành và mở rộng tri thức cho bản thân;
đồng thời giúp họ hình thành phương thức, rèn luyện các phẩm chất nhân
cách, nét tính cách phù hợp với hoạt động nghề nghiệp chuyên môn của bản
thân trong quá trình học tập.

18


Nghiên cứu hoạt động sư phạm của người giáo viên ở các Nhà trường
Quân đội có thể khái quát 4 đặc điểm sau đây:
Hoạt động sư phạm của giáo viên là hoạt động trực tiếp xây dựng thế
giới quan, phương pháp luận và các phẩm chất nhân cách cho người học.
Hoạt động sư phạm của giáo viên là hoạt động vừa mang tính khoa học,
tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao.
Hoạt động sư phạm của giáo viên là hoạt động phản ánh nhân cách của
người giáo viên trong môi trường hoạt động quân sự.
Hoạt động sư phạm của giáo viên là hoạt động gắn với công tác tuyên
truyền và đấu tranh bảo vệ các quan điểm, đường lối của Đảng.

Trên cơ sở tiếp cận khái niệm năng lực, đặc điểm hoạt động sư phạm của
giáo viên; kế thừa quan điểm chung của các nhà tâm lý học về năng lực sư
phạm của giáo viên, chúng tôi quan niệm như sau:
“Năng lực sư phạm của giáo viên là tổ hợp các thành tố kiến
thức, thái độ và kỹ năng của giáo viên đáp ứng yêu cầu của hoạt
động sư phạm, bảo đảm cho hoạt động sư phạm đạt được kết
quả theo mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục”.
Từ khái niệm năng lực sư phạm của giáo viên chỉ ra những nội dung
cốt yếu sau:
Năng lực sư phạm của giáo viên là một loại năng lực chuyên
biệt hoạt động trong môi trường sư phạm
Năng lực sư phạm của người giáo viên là những thuộc tính riêng, độc đáo
của người làm nghề dạy học và giáo dục. Giáo viên thực hiện hoạt động dạy học
(mà trong hoạt động này có sự tương tác giữa thầy - trò; trò - trò) để tạo ra sản
phẩm là nhân cách của học viên. Giáo viên không chỉ đóng vai trò là người
truyền thụ kiến thức, dạy học viên cách học để chiếm lĩnh kiến thức và kỹ năng
cho bản thân, mà phẩm chất và năng lực của giáo viên cũng là tấm gương, hình
tượng có ý nghĩa tác động đến hình thành và phát triển nhân cách của người học.
19


Năng lực sư phạm không phải là những thuộc tính tự nhiên có sẵn, quá
trình hình thành và phát triển năng lực sư phạm tuân theo quy luật về sự hình
thành và phát triển của năng lực chung, đồng thời xem xét trong sự chi phối,
ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động sư phạm. Nói cách khác, năng lực sư phạm
chỉ được hình thành, tồn tại, phát triển và biểu hiện trong quá trình hoạt động
sư phạm. Năng lực sư phạm là một loại hình năng lực nghề nghiệp được hình
thành và phát triển trong quá trình học tập, rèn luyện và thực tiễn hoạt động
nghề nghiệp của người giáo viên.
Năng lực sư phạm của giáo viên là tổ hợp các thành tố nhận thức, thái

độ và kỹ năng sư phạm của mỗi giáo viên.
Kiến thức (hiểu biết) của giáo viên: tầm hiểu biết rộng về những kiến thức
tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội; thường xuyên theo dõi những thành tựu mới
trong lĩnh vực khoa học thuộc môn mình phụ trách; nắm vững những kiến thức
chuyên ngành; nắm chắc đặc điểm giáo dục và mục tiêu, yêu cầu đào tạo; hiểu
biết về trình độ nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý của người học.
Thái độ của giáo viên (thái độ nghề nghiệp): yêu nghề dạy học, biết hi
sinh vì lợi ích tập thể, vì sự phát triển nhân cách của học viên; tinh thần trách
nhiệm và nhiệt tình trong công tác; tích cực tìm tòi, học hỏi, sáng tạo để đem
lại chất lượng cao nhất khi giảng dạy, luôn suy nghĩ về nội dung, phương
pháp giảng, về thái độ tiếp nhận bài học của học viên để tự đổi mới; nhiệt tình
trong xây dựng đơn vị; góp ý chân thành, giúp đỡ đồng nghiệp, có ý thức tiếp
thu ý kiến đóng góp của mọi người đối với bản thân; tôn trọng người học,
phong cách dân chủ trên cơ sở yêu cầu cao đối với học viên; tính lạc quan sư
phạm, niềm tin vào sức mạnh giáo dục, tin vào con người.
Kỹ năng của giáo viên (kỹ năng sư phạm): kỹ năng giao tiếp sư phạm và
sử dụng ngôn ngữ; truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên
vừa sức với học viên; kỹ năng gây hứng thú và kích thích học viên suy nghĩ
tích cực và độc lập; kỹ năng tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập; kỹ
20


năng cảm hóa học viên; kỹ năng tiên đoán sự phát triển, vừa nắm được
nguyên nhân và mức độ phát triển của học viên; kỹ năng tổ chức và cổ vũ
học viên; kỹ năng phát hiện và giải quyết tình huống sư phạm.
Các thành tố nhận thức, thái độ, kỹ năng của giáo viên là một chỉnh thể
thống nhất, quan hệ gắn bó với nhau, cùng đáp ứng yêu cầu của hoạt động sư
phạm, bảo đảm cho người giáo viên nhanh chóng thành thạo và đạt được hiệu
quả cao trong lĩnh vực hoạt động sư phạm.
Trong đó kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực sư phạm, là nguồn lực

để giáo viên tìm được giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng
xử phù hợp trong từng tình huống sư phạm cụ thể. Khả năng đáp ứng phù hợp
với từng tình huống, hoàn cảnh sư phạm là đặc trưng quan trọng của năng lực
sư phạm, tuy nhiên, khả năng đó có được lại dựa trên sự đồng hóa và sử dụng
có cân nhắc những kiến thức, kỹ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Rèn luyện và phát triển năng lực sư phạm được diễn ra theo hình xoáy
trôn ốc, trong đó các năng lực sư phạm được sử dụng để kiến tạo kiến thức
mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt ra cơ sở để hình thành những
năng lực sư phạm của mỗi giáo viên.
Kỹ năng sư phạm theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực
hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hành hoạt động sư phạm.
Kỹ năng sư phạm hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những
hiểu biết và trải nghiệm,... giúp giáo viên có thể thích ứng trong các tình
huống sư phạm và đặc thù hoạt động sư phạm.
Thái độ của giáo viên là cơ sở để phát huy kiến thức, tay nghề sư phạm,
kỹ xảo, kỹ năng sư phạm của giáo viên trong các quá trình sư phạm.
Kiến thức, kỹ năng sư phạm, thái độ nghề nghiệp là cơ sở cần thiết để
hình thành năng lực sư phạm trong lĩnh vực hoạt động sư phạm. Không thể có
năng lực sư phạm nếu không có kiến thức và tay nghề sư phạm và tình yêu,
niềm tin nghề nghiệp. Tuy nhiên, người giáo viên nếu chỉ có kiến thức, kỹ
năng, thái độ thì chưa chắc đã được đánh giá năng lực sư phạm cao, mà còn
21


cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kỹ năng cùng với thái độ,
giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các quá trình sư phạm và
giải quyết các tình huống sư phạm đặt ra trong thực tiễn.
1.1.2. Năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7
Quan niệm giáo viên theo từ điển Tiếng Việt: “Giáo viên là người giảng
dạy, giáo dục cho học viên, lên kế hoạch, tiến hành các tiết dạy học, thực

hành và phát triển các khóa học nằm trong chương trình giảng dạy của nhà
trường đồng thời cũng là người kiểm tra, ra đề, chấm điểm thi để đánh giá
chất lượng từng học viên”[51]
Đội ngũ giáo viên trong nhà trường quân sự là những người trực tiếp tiến
hành các hoạt động sư phạm quân sự. Với tư cách là nhà sư phạm, nhà khoa
học và nhà hoạt động chính trị - xã hội, họ đã góp phần to lớn trong việc thực
hiện các mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo ở nhà trường quân sự đáp ứng
với đòi hỏi khách quan của quân đội, của xã hội. Trong quá trình dạy học
người giáo viên vừa là người trực tiếp truyền thụ phương pháp tiếp thu kiến
thức vừa là người tổ chức, chỉ đạo quá trình nhận thức của người học.
Theo đó có thể hiểu: Giáo viên Trường quân sự Quân khu 7 là lực
lượng trực tiếp làm công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các khoa
giáo viên (Khoa khoa học xã hội và nhân văn; Khoa quân sự địa phương;
Khoa văn hóa; Khoa binh chủng; Khoa binh chủng hợp thành; Khoa
chuyên môn kỹ thuật) và đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm ở các phòng, ban,
đơn vị quản lý học viên. Họ là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục,
đào tạo ở Nhà trường.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi quan niệm: “Năng lực sư phạm của
giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7 là tổ hợp các thành tố kiến thức, thái độ và
kỹ năng của giáo viên, đáp ứng yêu cầu hoạt động sư phạm, bảo đảm cho hoạt
động sư phạm đạt hiệu quả theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường”.
22


Với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường: “Đào tạo, bổ túc, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ sỹ quan các đơn vị và cán bộ quân sự
địa phương, đào tạo sĩ quan dự bị, hạ sĩ quan chỉ huy và nhân viên chuyên
môn kỹ thuật, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ lãnh đạo các địa
phương và giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên các Trường đại học,
cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh theo phân tuyến nhằm đáp

ứng cho yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang và củng cố nền quốc phòng
toàn dân của đất nước trong tình hình mới”.
Hàng năm Nhà trường quản lý, đào tạo nhiều đối tượng học viên, với lưu
lượng rất đông;các đối tượng học viên đều được bồi dưỡng các kiến thức cơ
bản về phẩm chất đạo đức, nhân cách; kỹ thuật, chiến thuật trong chiến đấu;
năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ trên cương vị đảm nhiệm theo mục tiêu,
yêu cầu đào tạo; cán bộ dân chính đảng được trang bị các kiến thức về quốc
phòng, quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
giáo dục, đào tạo của Nhà trường đòi hỏi rất lớn đối với đội ngũ giáo viên về
phẩm chất, năng lực và sự nỗ lực của các tổ chức, lực lượng sư phạm mà cụ
thể và trực tiếp là năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên, bởi chất lượng đội
ngũ giáo viên nói chung và năng lực sư phạm của giáo viên là yếu tố quan
trọng, trực tiếp quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Nghiên cứu năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7
phải thấy rõ sự hòa quyện và mối quan hệ tác động qua lại giữa các thành tố kiến
thức, kỹ năng và thái độ. Trong đó, kiến thức bao gồm những hiểu biết, tri thức
chung về tự nhiên, chính trị, xã hội, quân sự, về nhân văn, về phong tục tập quán
và truyền thống vùng đất Nam bộ, con người Nam bộ và những hiểu biết chuyên
sâu về chuyên nghành giảng dạy, hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý, nhận thức của
người học; sự nhuần nhuyễn, thuần thục, sáng tạo trong vận dụng kỹ năng sư
23


phạm khi lên lớp các đối tượng học viên khác nhau; thái độ chuẩn mực nghề
nghiệp, tình cảm, đạo đức nghề nghề nghiệp, đây là mặt biểu hiện đồng thời cũng
là đòi hỏi khách quan, cơ bản đối với giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7.
1.1.3. Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường
quân sự Quân khu 7
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: “Phát triển là một

phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện” [14, tr.227].
Có thể coi phát triển là một dạng đặc biệt của sự vận động, quá trình phát
triển sẽ xuất hiện những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy mà tăng tính
phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại
và vận động của sự vật cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Dựa trên nguyên lí phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nhà
tâm lý học mác xít khi xem xét sự phát triển tâm lý đã chỉ rõ: “Phát triển tâm
lý ở con người đó là sự hình thành và hoàn thiện các quá trình tâm lý và các
thuộc tính nhân cách diễn ra nhờ kết quả tích cực hoá cá nhân, có nghĩa là tích
cực hoá hoạt động của con người dưới ảnh hưởng quyết định của môi trường
xã hội vào giáo dục với tư cách là sự mở rộng không ngừng các mâu thuẫn
bên trong nảy sinh giữa sự phát triển các nhu cầu mới và việc thiếu vắng các
khả năng thoả mãn chúng” [43, tr.12].
Từ đó có thể hiểu phát triển tâm lý là sự thay đổi trong quan niệm về sự vật
hiện tượng trong quá trình phản ánh tâm lý, mà đặc trưng của nó là sự thay đổi
về cấu trúc cái được phản ánh và phương thức phản ánh chúng. Phát triển tâm lý
chính là sự phát triển ngày càng phức tạp, hoạt động của con người từ mức độ
thấp đến mức độ cao để phù hợp với những đòi hỏi ngày càng tăng lên của xã
hội. Trong phát triển tâm lý, hoạt động tích cực của con người dưới ảnh hưởng
của môi trường xã hội và giáo dục có ý nghĩa quyết định đối với sự tăng lên về
số lượng và chất lượng các phẩm chất tâm lý của mỗi cá nhân.

24


Quan điểm về phát triển tâm lý của tâm lý học mácxít là cơ sở lý luận để
giải quyết vấn đề phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự
Quân khu 7. Theo chúng tôi: “Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên
Trường Quân sự Quân khu 7 là sự gia tăng về chất lượng và số lượng kiến

thức, thái độ, kỹ năng của giáo viên, đáp ứng yêu cầu của hoạt động sư
phạm, bảo đảm cho hoạt động sư phạm đạt hiệu quả theo mục tiêu, yêu cầu
đào tạo của Nhà trường”.
Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 7
là một phần của quy trình phát triển toàn diện nhân cách người giáo viên.
Trước hết nó được xác định bởi sự phát triển của hệ thống các thành tố kiến
thức, kỹ năng và thái độ của giáo viên.
Tuy nhiên phải hiểu rằng, sự phát triển đó không chỉ đơn thuần là tăng số
lượng nhiều hay ít mà cái cơ bản là phải thấy được sự biến đổi về chất trong
cấu trúc của tổ hợp các thành tố kiến thức, thái độ, kỹ năng của người giáo
viên. Trước hết, hệ thống kiến thức (hiểu biết) đó không chỉ dừng lại ở mức
độ tri giác, ghi nhớ, tái hiện mà nó được người giáo viên biến đổi, cấu tạo lại
thành tài sản riêng của cá nhân; thành niềm tin, ý chí và các phẩm chất tâm lý
đáp ứng yêu cầu của hoạt động giảng dạy chuyên môn tại trường. Tiếp đến là
sự phát triển theo chiều hướng tăng lên của thái độ, đó là thái độ tích cực, tinh
thần trách nhiệm, tình cảm tích cực đối với tư cách người thầy và đối với
nghề sư phạm, trân trọng, tự hào nghề nghiệp, luôn tích cực học tập, nghiên
cứu, ham mê hiểu biết, khám phá cái mới, nắm chắc và vận dụng sáng tạo các
nguyên tắc, phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa học vào quá trình giảng
dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Tiếp đến là sự phát triển theo chiều hướng tăng lên của hệ thống kỹ năng
(trong thực hành kỹ năng dạy học, giáo dục; trong giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ;
trong tổ chức hoạt động thực tiễn sư phạm...) có những nội dung sẽ phát triển theo
một quy luật đi từ chưa biết đến biết, có những nội dung từ biết ít đến biết nhiều,
từ chưa thành thạo đến thành thạo... Nhờ sự tác động của quá trình đào tạo làm
25


×