Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

“Giải pháp tăng cường liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây ở xã Thạch Sơn, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.43 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
DANH MỤC BẢNG BIỂU............................................................................iv
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI..........................................................................1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU..................................................................................2
2.1. MỤC TIÊU CHUNG:......................................................................................2
2.2. MỤC TIÊU CỤ THỂ:......................................................................................2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:.........................................................3
4. KẾT CẤU BÁO CÁO.........................................................................................3
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT BỐN
NHÀ TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ KHOAI TÂY...............4
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN............................................................4
1.1.1 KHÁI NIỆM VÀ QUAN ĐIỂM SẢN XUẤT, TIÊU THỤ SẢN PHẨM:.................4
1.1.2. KÊNH TIÊU THỤ........................................................................................4
1.1.3. KHÁI

NIỆM VỀ LIÊN KẾT

4

NHÀ TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ

KHOAI TÂY:..............................................................................................6

1.2. NỘI

DUNG CỦA LIÊN KẾT

“4


NHÀ” TRONG SẢN XUẤT



TIÊU THỤ SẢN

PHẨM.......................................................................................................9

1.3. VAI

TRÒ CỦA LIÊN KẾT

“BỐN

NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ

KHOAI TÂY.............................................................................................14

1.3.1. VAI TRÒ CÁC TÁC NHÂN TRONG MỐI LIÊN KẾT....................................14
1.3.2. VAI TRÒ CỦA TỪNG NHÀ TRONG

MỐI LIÊN KẾT

4 NHÀ THỂ HIỆN NHƯ

SAU........................................................................................................15

1.3.3 CÁC

HÌNH THỨC LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT




TIÊU THỤ SẢN PHẨM

...............................................................................................................17
1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LIÊN KẾT “4 NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU
THỤ KHOAI TÂY.......................................................................................19

i


1.4.1. CÁC YẾU TỐ TỪ HỘ SẢN XUẤT...............................................................19
1.4.2. CÁC YẾU TỐ TỪ DOANH NGHIỆP............................................................20
1.4.3. CÁC YẾU TỐ TỪ NHÀ KHOA HỌC............................................................20
1.4.4. CÁC YẾU TỐ TỪ NHÀ NƯỚC...................................................................21
1.5. CHỦ

TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CỦA

ĐẢNG



NHÀ

NƯỚC TA VỀ PHÁT

TRIỂN CÁC MỐI QUAN HỆ LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ
SẢN PHẨM..............................................................................................21


1.6. KINH NGHIỆM
1.6.1 KINH

TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI......................................22

NGHIỆM VỀ QUAN HỆ LIÊN KẾT CỦA MÔT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ

GIỚI TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ.....................................................22

1.6.2. KINH NGHIỆM VỀ LIÊN KẾT “4 NHÀ” Ở VIỆT NAM TRONG SẢN XUẤT VÀ
TIÊU THỤ................................................................................................24

1.6.3. BÀI

HỌC KINH NGHIỆM TỪ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC

NGOÀI....................................................................................................27

CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................................................29
2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU..............................................................29
2.1.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN CỦA XÃ THẠCH SƠN.............................................29
2.1.2 ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA XÃ......................................................34
2.1.3. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐỊA PHƯƠNG
...............................................................................................................39
2.1.4. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ...........42
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.....................................................................44
2.2.1. CHỌN ĐIỂM NGHIÊN CỨU.......................................................................44
2.2.2. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP TÀI LIỆU........................................................45

2.2.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU........................................45
2.2.4. CÁC

CHỈ TIÊU DÙNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU

THỤ KHOAI TÂY Ở XÃ THẠCH

SƠN........................................................45

CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN......................47
ii


3.1. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT BỐN NHÀ TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ KHOAI
TÂY TẠI XÃ THẠCH SƠN.........................................................................47

3.1.1. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ KHOAI TÂY...............................47
3.1.2. THỰC

TRẠNG LIÊN KẾT

KHOAI TÂY Ở XÃ THẠCH

4

NHÀ TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ

SƠN................................................................53

3.1.3. PHÂN TÍCH NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỐI LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” TẠI

XÃ THẠCH

SƠN......................................................................................69

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ

YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI LIÊN KẾT

TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NÔNG SẢN Ở

THẠCH SƠN

4

NHÀ

THỜI GIAN

TỚI.........................................................................................................71

3.2.1. ĐỊNH HƯỚNG.........................................................................................71
3.2.2 GIẢI

PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ LIÊN KẾT BỐN NHÀ TRONG

SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ KHOAI TÂY......................................................72

KẾT LUẬN....................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................84


iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG 2.1 HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT TOÀN XÃ THẠCH SƠN NĂM 2016........31
BẢNG 2.2: HIỆN TRẠNG DÂN SỐ......................................................................35
BẢNG 2.3: HIỆN TRẠNG LAO ĐỘNG.................................................................35
BẢNG 2.4 HIỆN TRẠNG NHÀ VĂN HÓA XÃ NĂM 2017.....................................37
BẢNG 3.1. BIẾN ĐỘNG NĂNG SUẤT SẢN LƯỢNG KHOAI TÂY 2015 – 2017.....48
BẢNG 3.2. BIẾN ĐỘNG DIỆN TÍCH VÀ CƠ CẤU GIỐNG KHOAI

TÂY XÃ THẠCH SƠN

2015 - 2017.............................................................................................49
BẢNG 3.3. DỰ

TRỮ KHOAI TÂY TẠI CÁC KHO LẠNH CỦA XÃ

THẠCH SƠN

NĂM

2015 – 2017............................................................................................50
BẢNG 3.4. CƠ CẤU SẢN LƯỢNG

KHOAI TÂY TIÊU THỤ THEO CÁC TÁC NHÂN

2017.......................................................................................................52
BẢNG 3.5. GIÁ KHOAI TÂY..............................................................................52
BẢNG 3.6: NỘI DUNG TẬP HUẤN CHO CÁC HỘ THAM GIA MÔ HÌNH...............56

BẢNG 3.7 TÌNH

HÌNH TẬP HUẤN HỖ TRỢ KỸ THUẬT TRONG

3

NĂM

2015 –

2017 CỦA XÃ THẠCH SƠN.....................................................................57
BẢNG 3.8 TÌNH HÌNH CHUNG CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA NĂM 2017...................60
BẢNG 3.9. ĐIỀU KIỆN SẢN XUẤT CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA ................61
BẢNG 3.10 KẾT

QUẢ, HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KHOAI TÂY CỦA HỘ ĐIỀU TRA

...............................................................................................................62

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần nghị quyết đại hội
VI của Đảng, sản xuất nông nghiệp nước ta đã không ngừng khởi sắc. Nông
nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về sản xuất lương thực, thực
phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tổng giá trị các
loại nông sản hàng hóa xuất khẩu ngày càng tăng lên. Nông nghiệp đã thật
sự đóng vai trò nền tảng để tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh

tế quốc dân.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn, chúng ta đã đạt
được nhiều thành tích xuất sắc nhưng cũng bộc lộ nhiều nhược điểm yếu kém
cần khắc phục góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nói riêng. Nhiều địa phương đã phát huy tốt các tiềm năng thế
mạnh của mình trong phát triển nông nghiệp nhưng cũng có những địa
phương chưa khai thác hết các điều kiện của địa phương về đất đai, lao
động và cơ sở hạ tầng nên sản xuất nông nghiệp phát triển chậm, cơ cấu
kinh tế chậm đổi mới.
Để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
thì vấn đề mấu chốt là phải có sự phối hợp giữa nông dân với các nhà
doanh nghiệp với tư cách là người sản xuất và người cung cấp dịch vụ đầu
vào/tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng cần vào
cuộc để tạo ra các giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt,
các qui trình sản xuất tiên tiến để vừa phát triển sản xuất vừa bảo vệ môi
trường và tuân thủ các qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu
chuẩn VietGap và GlobalGap. Nhà nước với tư cách là bà đỡ và hoạch định
chính sách có vai trò cực kỳ quan trọng trong qui hoạch các vùng sản xuất
và tạo cơ chế gắn bó giữa nhà nông với nhà khoa học và các doanh nghiệp,
ngoài ra Nhà nước còn cung cấp các dịch vụ công như khuyến nông,
khuyến lâm, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp.
1


Thời gian qua đã có một số nghiên cứu về liên kết bốn nhà trong
sản xuất và tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp ở các địa phương. Các
nghiên cứu này đều khẳng định liên kết bốn nhà còn lỏng lẻo, chưa đủ
sức tạo ra bước ngoặt trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa. Cho
đến nay chưa có nghiên cứu đầy đủ đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh
liên kết bốn nhà trong phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá thực trạng của mối liên kết
bốn nhà ở xã Thạch Sơn, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang thời gian qua và
đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường liên kết bốn nhà góp phần phát
triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trong tình hình mới.
Xuất phát từ tình hình trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp
tăng cường liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây ở xã
Thạch Sơn, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1. Mục tiêu chung:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết “4
nhà” trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây ở xã Thạch Sơn thời gian qua đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối liên kết “4 nhà” đáp
ứng yêu cầu sản xuất và tiêu thụ nông sản ở địa phương thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến
liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây.
- Đánh giá thực trạng liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ
khoai tây ở xã Thạch Sơn. Phân tích nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng
đến mối liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây ở địa phương.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối liên kết “4 nhà”
đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu thụ khoai tây ở địa phương giai đoạn 20192021.

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến liên kết “4
nhà” trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây. Đối tượng khảo sát là: các địa
phương, hợp tác xã, hộ/nhóm hộ gia đình, các doanh nghiệp, và các nhà
khoa học đã tham gia liên kết 4 nhà ở địa phương thời gian qua.

- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây tại xã Thạch Sơn.
- Phạm vi về thời gian:
Số liệu thu thập để nghiên cứu trong 3 năm từ 2015-2017.
Thời gian thực tập từ ngày 01/10/2018 đến ngày 10/12/2018.
4. Kết cấu báo cáo
Ngoài phần mở đầu và kết luận báo cáo gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết 4 nhà trong sản xuất
và tiêu thụ khoai tây.
Chương 2. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận.

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT BỐN NHÀ TRONG
SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ KHOAI TÂY
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1 Khái niệm và quan điểm sản xuất, tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm là công đoạn của quá trình sản xuất, nó là yếu
tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của quá trình sản xuất. Thông qua
tiêu thụ, giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá được thực hiện.
Tiêu thụ là sự chuyển hoá quyền sự dụng hàng hoá, tiền tệ giữa các chủ thể
trong nền kinh tế.
Chính vì vậy hoạt động tiêu thụ sản phẩm được cấu thành bởi các yếu
tố khác nhau: chủ thể tham gia (người sản xuất, người tiêu dùng...), đối
tượng (hàng hoá, tiền tệ…), thị trường…
Tiêu thụ hàng hoá là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng hàng
hoá. Thông qua tiêu thụ, hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật

sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn của các đơn vị sản xuất kinh
doanh được hình thành. Từ đó tạo cơ sở thu hồi chi phí và tích luỹ để thực
hiện tái sản xuất mở rộng.
Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là khâu hết sức quan
trọng. Đây là quá trình tách sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất bước vào quá
trình lưu thông và đến tay người tiêu dùng. Tiêu thụ sản phẩm nhanh hay
chậm trực tiếp tác động tới kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khẳng
định giá trị của sản phẩm có được hay không sự chấp nhận của người tiêu
dùng.
1.1.2. Kênh tiêu thụ
Có nhiều định nghĩa khác nhau về kênh tiêu thụ, để phù hợp với đối
tượng nghiên cứu của đề tài nên định nghĩa trên quan điểm quyết định
và quản lý kênh phân phối đối với công ty sản xuất. Kênh phân phối sản
phẩm được định nghĩa như sau: “Một tổ chức các tiếp xúc (quan hệ) bên
4


ngoài để quản lý các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu phân phối của
nó”.
Kênh tiêu thụ sản phẩm nối liền giữa cung và cầu sản phẩm. Kênh nào
càng an toàn vững chắc thì chuyển tải được càng nhiều hàng hoá, việc chọn
kênh tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trong đó phụ thuộc rất nhiều
vào thị trường kinh doanh.
Kênh tiêu thụ sản phẩm có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau: giá
cả, thương mại, sản phẩm mới. Giá cả biến động theo hướng thuận lợi thì
tiêu thụ có quan hệ cùng chiều và ngược lại. Phương thức bán hàng phải phù
hợp với từng thị trường. Tiêu thụ sản phẩm mới phải có cách xâm nhập thị
trường không đưa ngay vào các kênh bền vững.
Kênh tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò vào tăng trưởng kinh tế,
cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Chọn kênh tiêu thụ thích hợp sẽ giảm

được chi phí tiêu thụ, tăng lợi nhuận, thuận lợi cho cạnh tranh và tăng khối
lượng hàng bán trên thị trường.
Kênh tiêu thụ sản phẩm là yêu cầu của trao đổi sản phẩm. lúc mới có
trao đổi sản phẩm kênh tiêu thụ còn đơn giản, khi sản xuất hàng hoá phát
triển thì kênh tiêu thụ cũng ngày càng đa dạng và là sản phẩm của nền sản
xuất hàng hoá.
Trong doanh nghiệp, nông hộ thì tiêu thụ sản phẩm là hoạt động
có định hướng cụ thể, trong đó kênh tiêu thụ có ảnh hưởng đến thu tiền và
chù kì kinh doanh sau. Kênh tiêu thụ là vấn đề có tính chất kinh tế và khoa
học rất phức tạp và đa dạng đòi hỏi phải nghiên cứu, lựa chọn cho chính xác
với từng loại sản phẩm cụ thể và trong điều kiện nhất định.
Những căn cứ lựa chọn kênh phân phối: mục tiêu của kênh, đặc
điểm của sản phẩm, đặc điểm của khách hàng, đặc điểm của các trung gian
phân phối, phân tích kênh phân phối của các đối thủ cạnh tranh, đặc điểm
của chính doanh nghiệp, đặc điểm của môi trường kinh doanh.
Sự trung gian có thể đem lại sự tiết kiệm khá lớn:
5


Hình 1.1 Trung gian phân phối đem lại sự tiết kiệm

Như hình vẽ ta thấy, bốn nhà sản xuất trực tiếp bán hàng cho bốn
khách hàng cần 16 lần tiếp xúc. Nhưng nếu sử dụng trung gian phân phối số
lần tiếp xúc giảm xuống còn 8 lần. Thông qua trung gian sẽ làm giảm số lần
tiếp xúc của mỗi người sản xuất đến mỗi khách hàng từ đó làm tăng hiệu
quả phân phối của xã hội.
Như vậy thông qua kênh tiêu thụ có trung gian, người sản xuất giảm
được đầu tư vật lực và nhân lực mà sản phẩm vẫn tới được tay người
tiêu dùng. Mặt khác, người tiêu dùng được tiếp xúc nhiều chủng loại sản
phẩm thông qua trung gian.

Cấu trúc hoạt động của kênh tiêu thụ là việc thiết lập các thành
viên thực hiện các chức năng phân bổ cho họ. Cấu trúc của kênh xác định
bởi ba yếu tố: trung gian được sử dụng, nhiệm vụ và các hoạt động trung
gian phải thực hiện, số lượng của mỗi loại trung gian. Cấu trúc của kênh
được xác định qua chiều dài và bề rộng của hệ thống kênh
1.1.3. Khái niệm về liên kết 4 nhà trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây:
- Khái niệm liên kết:
Liên kết (integration) trong hệ thống thuật ngữ kinh tế nó có nghĩa là
sự hợp nhất, sự phối hợp hay sáp nhập của nhiều bộ phận thành một chỉnh
thể. Trước đây khái niệm này được biết đến với tên gọi là nhất thể hoá và gần
đây mới gọi là liên kết. Sau đây là một số quan điểm về liên kết kinh tế:

6


Trong Từ điển Kinh tế học hiện đại David. W. Pearce (1999) cho
rằng liên kết kinh tế chỉ tình huống khi mà các khu vực khác nhau của một
nền kinh tế thường là khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt động phối
hợp với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố của
quá trình phát triển. Điều kiện này thường đi kèm với sự tăng trưởng bền
vững.
Trong các văn bản của Nhà nước mà cụ thể là trong quy định ban hành
theo Quyết định số 38-HĐBT ra ngày 10/04/1989 thì liên kết kinh tế là
những hình thức phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng
nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc
sản xuất kinh doanh của mình nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng có lợi
nhất. Sau khi bàn bạc thống nhất, các đơn vị thành viên trong tổ chức liên
kết kinh tế cùng nhau ký hợp đồng về những vấn đề có liên quan đến phần
hoạt động của mình để thực hiện.
Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các

hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực
hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh
doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển
theo hướng có lợi nhất. Được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế kí kết giữa các bên tham gia và trong
khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là tạo ra muối quan hệ kinh tế
ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến
hành phân công sản xuất chuyên môn hóa và hiệp tác hóa, nhằm khai thác
tốt tiếm năng của từng đơn vị tham gia liên kết, để cùng nhau tạo thị trường
chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho
từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ lợi ích của nhau.
Liên kết kinh tế có nhiều hình thức và quy mô tổ chức khác nhau,
tương ứng với nhu cầu sản xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên
tham gia liên kết. Những hình thức liên kết phổ biến là hiệp hội sản xuất tiêu
7


thụ, nhóm sản xuất, nhóm vệ tinh, hội đồng sản xuất và tiêu thụ theo ngành
hoặc theo vùng, liên đoàn xuất nhập khẩu... Các đơn vị thành viên có tư cách
pháp nhân đầy đủ, không phân biệt hình thức sở hữu, quan hệ trực thuộc
về mặt quản lý nhà nước, ngành kinh tế kĩ thuật hay lãnh thổ. Trong khi
tham gia liên kết kinh tế, không một đơn vị nào mất quyền tự chủ của
mình, cũng như không được miễn giảm bất cứ nghĩa vụ nào đối với Nhà
nước theo pháp luật hay theo nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết với các đơn vị
khác.
Như vậy, liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên, không
kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mục tiêu của liêu kết kinh tế là các bên tìm
cách bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với các đối
tác nhằm đem lại lợi ích cho các bên.
* Liên kết bốn nhà:

- Nhà nông: Chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp của nước ta
chính là kinh tế hộ nông dân.
Hộ nông dân là tổ chức kinh tế phổ biến nhất cho mọi nền nông
nghiệp, chiếm đại đa số trong cư dân nông nghiệp. Có nhiều cách nhìn khác
nhau về khái niệm của hộ nông dân nhưng nhìn chung thì: Hộ nông dân là
hộ có phương tiện kiếm sống dựa trên ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động
gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về
cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường với mức
độ không hoàn hảo.
- Nhà nước: Là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ
máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý
đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo về lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội.
- Nhà khoa học: là những người đã nghiên cứu khám phá ra những
kiến thức mới và mong muốn nghiên cứu đó được áp dụng trong thực tiễn
thay thế cho những nghiên cứu cũ không còn phù hợp. Nhà khoa học đóng
8


vai trò vô cùng quan trọng trong việc chuyền tải tiến bộ kỹ thuật của mình ra
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
- Nhà doanh nghiệp: Hiện nay trên phương diện lý thuyết có khá nhiều
định nghĩa về doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang một nội dung với giá
trị nhất định. Doanh nghiệp được xét theo các quan điểm như: quan điểm
pháp luận, quan điểm chức năng, quan điểm phát triển, quan điểm hệ thống...
Từ các quan điểm trên thì có thể thấy rằng “Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế
có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài chính vật chất và con người
nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng tiêu thụ các sản phẩm hay
dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng thông qua tối đa hóa
lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã

hội”.
1.2. Nội dung của liên kết “4 nhà” trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm.
Mỗi ngành hàng gồm nhiều công đoạn được thực hiện bởi những tác
nhân nhất định. Mỗi tác nhân có thể là pháp nhân độc lập hoặc các bộ
phận phụ thuộc nhau về mặt pháp lý nhưng đều thực hiện và hoàn thành
một số chức năng và tạo ra những sản phẩm nhất định.
Mối liên kết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các
tác nhân là những pháp nhân độc lập rất đa dạng và bao gồm cả liên kết
dọc và liên kết ngang đan xen nhau.
Các thoả thuận, cam kết phải thể hiện trách nhiệm của mỗi bên khi
thực hiện cam kết và các hình thức phạt nếu một bên không thực hiện
đúng, đủ theo thoả thuận, cam kết. Các mối liên kết này thể hiện thông
qua các hình thức liên kết như sau:
Mua bán tự do trên thị trường: là hình thức giao dịch trực tiếp giữa
người mua và người bán. Người mua thấy được số lượng, chất lượng
hàng hóa mình cần, người bán sau khi thỏa thuận được giá cả sẽ bán và
thu được tiền mặt đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống.

9


Việc mua bán được thực hiện trên thị trường theo quan hệ cung cầu.
Bất kì bên mua hoặc bên bán hàng nào, nếu thỏa thuận được với nhau thì
hoạt động giao dịch được diễn ra. Thị trường có vai trò là người định giá.
Hợp đồng bằng văn bản: Theo Eaton and Shepherd (2001), hợp đồng
là sư thoả thuận giữa nông dân và các cơ sở chế biến hoặc tiêu thụ nông sản
về việc tiêu thụ sản phẩm trong tương lai và thường với mức giá đặt trước.
Liên kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức được thiết lập giữa
các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm.
Hợp đồng được ký kết giữa các doanh nghiệp, tổ chức, ngân hàng, tín

dụng, trung tân khoa học kỹ thuật và hộ theo các hình thức:
+ Ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông
sản hàng hoá;
+ Bán vật tư mua lại sản phẩm ;
+ Trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, thuê mướn tư vấn kỹ thuật, mua vật tư,
thiết bị, nguyên liệu đầu vào, vay vốn...;
+ Liên kết sản xuất bằng việc góp vốn cổ phần, liên doanh liên kết với
các doanh nghiệp hoặc cho doanh nghiệp thuê đất, diện tích mặt nước, sau đó
hộ được sản xuất trên diện tích đó hoặc cho thuê và bán lại sản phẩm
cho doanh nghiệp tạo sự gắn kết bền vững giữa hộ và doanh nghiệp.
- Hợp đồng miệng (thoả thuận miệng): Là các thoả thuận không
được thể hiện bằng văn bản giữa các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện
một số hoạt động, công việc nào đó. Hợp đồng miệng cũng được hai bên
thống nhất về số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn và địa điểm. Cơ sở của
hợp đồng là niềm tin, độ tín nhiệm, trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các
tác nhân tham gia hợp đồng. Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa
các tác nhân có quan hệ thân thiết (họ hàng, anh em ruột thịt, bạn bè,…)
hoặc giữa các tác nhân đã có quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh
với nhau mà trong suốt thời gian hợp tác luôn thể hiện nguồn lực tài chính,
khả năng tổ chức và trách nhiệm, giữ chữ tín với các đối tác. Tuy nhiên,
10


hợp đồng miệng thường chỉ là các thoả thuận trên nguyên tắc về số lượng,
giá cả, điều kiện giao nhận hàng. Hợp đồng miệng cũng có thể hoặc không
có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật tư, cũng như các hỗ trợ giám sát kỹ
thuật. So với hợp đồng văn bản thì hợp đồng miệng lỏng lẻo và có tính chất
pháp lý thấp hơn.
Các hoạt động hỗ trợ thị trường được nhiều hiệp hội doanh nghiệp
thực hiện nhằm khắc phục một số kiếm khuyết của thị trường như tăng

cường các hoạt động phối hợp giữa các doanh nghiệp, cơ sở tiêu thụ và hộ
nông dân qua đó dung hòa các mối quan hệ trong sản xuất và ra quyết định
đầu tư.
* Nguyên tắc liên kết:
Quá trình liên kết kinh tế của các doanh nghiệp nói chung, của liên kết
sản xuất và thương mại nói riêng đều phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Một là, phải đảm bảo sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phát
triển và có hiệu quả ngày càng tăng.
Xuất phát từ mục tiêu nói trên dù tiến hành liên kết kinh tế dưới
hình thức và mức độ nào đi nữa thì yêu cầu của hoạt động liên kết kinh tế ấy
phải đảm bảo để sản xuất và kinh doanh của từng doanh nghiệp nói
riêng, của doanh nghiệp liên kết với nhau nói chung không ngừng phát triển,
doanh thu ngày càng tăng, công nhân viên chức có nhiều việc làm, thu
nhập ngày một tăng, năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Liên
kết kinh tế phải nâng cao được trình độ công nghệ, mở rộng mặt hàng, sản
xuất ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường, giá thành hạ, tiết kiệm
phí lưu thông, đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp trên cơ sở giá
bán và chất lượng sản phẩm mà người tiêu dùng chấp nhận.
Hai là, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện giữa các bên tham gia liên
kết. Các hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp được
thực hiện một cách thuận lợi, trôi chảy, thành công và đem lại hiệu quả
cao chỉ có thể diễn ra khi các doanh nghiệp tự nguyện tìm đến với nhau, tự
11


thỏa thuận quan hệ hợp tác, liên kết làm ăn với nhau lâu dài trên tinh
thần bình đẳng, cùng chịu trách nhiệm đến cùng về các thành công cũng như
thất bại rủi ro. Tất cả các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế, các tổ chức liên
kết kinh tế được thiết lập trên cơ sở những ý đồ không xuất phát từ
nguyên tắc tự nguyệ n, từ những liên hệ tất yếu về phương diện kinh tế,

nghĩa là tiến hành trên cơ sở gò bó gượng ép bắt buộc đều hoạt động
không thành công, kém hiệu quả.
Ba là, phải đảm bảo sự thống nhất hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên
tham gia liên kết.
Lợi ích kinh tế chính là động lực thúc đẩy các bên tham gia liên kết
với nhau, là chất kết dính các bên lại với nhau trong quá trình liên kết.
Các bên tìm đến với nhau chỉ vì họ tìm thấy, nhìn thấy ở nhau những mối
lợi nếu làm ăn với nhau lâu dài. Cho nên việc đảm bảo thống nhất hài hòa lợi
ích giữa các bên tham gia liên kết sẽ tạo nên chất kết dính bền vững cảu tổ
chức liên kết đó. Khi lợi ích kinh tế của một hoặc một số thành viên nào đó
bị xâm phạm hoặc thiếu sự công bằng, thống nhất hài hòa sẽ tạo ra sự rạn
nứt của mối liên hệ bền vững, dẫn đến phá vỡ tổ chức liên kết, mối quan
hệ liên kết đã được thiết lập. F.Ăng – ghen cũng đã từng nhận xét rằng: ”Ở
đâu không có sự nhất trí về lợi ích, ở đó không thể có sự thống nhất về
hành động”. Sự phân chia lợi nhuận, phân bổ thiệt hại rủi ro, các tính toán
về giá cả, chi phí...cần phải được tiến hành thỏa thuận, bàn bạc một cách
công khai, dân chủ, bình đẳng và đảm bảo sự công bằng trên cơ sở những
đóng góp của các bên liên kết.
Bốn là, phải được thực hiện trên cơ sở những ràng buộc pháp lý
giữa các bên tham gia liên kết và thông qua hợp đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế là khế ước, là những thỏa thuận, những điều
khoản ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi giữa các bên tham gia làm
ăn với nhau, được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trong nền kinh tế thị
trường và Nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động kinh tế đều phải tiến
12


hành trên cơ sở pháp luật Nhà nước cho phép, đồng thời được pháp luật bảo
hộ những tranh chấp giữa các bên quan hệ làm ăn với nhau. Cho nên để có
những căn cứ pháp lý cho các cơ quan pháp luật phán quyết những tranh

chấp giữa các quan hệ kinh tế với nhau đều phải “có khế ước” hay “hợp
đồng kinh tế” được ký kết theo đúng pháp luật quốc tế (nếu quan hệ làm ăn
giữa các bên vượt ra ngoài khuôn khổ một nước). Nước ta đang trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế sang vận động theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên mọi
hoạt động kinh tế, mọi mối quan hệ làm ăn giữa các doanh nghiệp muốn phát
triển lâu dài, cần phải thực hiện theo đúng pháp luật, phải thông qua hợp
đồng kinh tế. Có như vậy Nhà nước mới có đủ căn cứ pháp lý để giải quyết
những tranh chấp, bất đồng nếu xảy ra giữa các bên. Đối với hoạt động liên
kết kinh tế là những mối quan hệ kinh tế ổn định, thường xuyên, lâu dài lại
càng cần phải được tiến hành thông qua “Hợp đồng kinh tế”. Nó còn là
những căn cứ để các bên tiến hành đàm phán giải quyết những bất đồng,
tranh chấp nhỏ xảy ra giữa các bên, làm cho các quan hệ liên kết ngày càng
bền chặt hơn. Việc thực hiện tốt các hợp đồng kinh tế sẽ tạo thuận lợi cho
các bên tham gia liên kết thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh của
mình.
Năm là, đối với các tổ chức liên kết kinh tế, cấn phải được tiến
hành hoạt động thông qua “điều lệ” của tổ chức liên kết kinh tế đó.
“Điều lệ” là những qui định về tôn chỉ mục đích, nội dung và cơ
chế hoạt động của một tổ chức được tự nguyện sáng lập giữa các thành
viên. Nó qui định những quyền hạn, quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của
các thành viên gia tổ chức, những điều được phép và không được phép để
đảm bảo sự thống nhất hài hòa lợi ích chung của các thành viên và sự tồn tại
lâu dài, phát triển của tổ chức. Có thể nói, nó là cơ sở pháp lý để ràng buộc
các thành viên tham gia tổ chức lại với nhau. Vì vậy, các tổ chức liên kết
kinh tế muốn tồn tại và phát triển lâu dài cần phải tiến hành xây dựng và
13


thực hiện thông qua “điều lệ” của tổ chức của mình. ðiều lệ phải được thảo

luận một cách công khai, dân chủ, tính đến lợi ích lâu dài và sự tồn tại phát
triển của tổ chức của tổ chức liên kết kinh tế, giữa các thành viên tham gia
sáng lập và được điều chỉnh sửa đổi thích hợp với điều kiện tình hình của
từng giai đoạn, phải tuân thủ pháp luật của quốc gia và đăng ký với Nhà
nước, chính quyền địa phương sở tại để được phép hoạt đông công khai và
được Nhà nước bảo hộ.
1.3. Vai trò của liên kết “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ khoai tây
1.3.1. Vai trò các tác nhân trong mối liên kết
Liên kết là hình thức hợp tác đảm bảo đem lại lợi ích chắc chắn cho
các bên liên quan. Liên kết giữa hộ nông dân với nhà khoa học giúp cho sản
phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường,
bảo đảm sức khoẻ cho người tiêu dùng, giảm chí phí sản xuất, tăng giá
bán của hàng hóa nông sản. Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp chế biến
và hộ nông dân cho phép xoá bỏ độc quyền đối với các doanh nghiệp trong
việc ép cấp, ép giá khi mua sản phẩm của người nông dân. Khác với mọi
liên kết lỏng lẻo trước đây liên kết kinh tế thông qua hợp đồng loại bỏ vai
trò của các tầng lớp mua bán trung gian nên trực tiếp bảo vệ được người
sản xuất, nhất là người nghèo khi bán sản phẩm. Mặt khác, thực hiện liên
kết thông qua hợp đồng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến có
nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định để phấn đấu giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao được khả năng cạnh tranh đối với sản phẩm của mình trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Thực hiện liên kết thông qua hợp đồng giúp cho các cơ sở chế biến, xuất
khẩu có điều kiện để mở rộng quy mô hoạt động do có sự đảm bảo ổn định về số
lượng, chất lượng và tiến độ của nguyên liệu nông sản cung cấp cho sản xuất.
Việc tăng khả năng tiếp cận các công nghệ, kỹ thuật mới còn giúp người
nông dân giải phóng sức lao động, cho phép giảm giá thành và tăng khả năng
cạnh tranh của hàng nông sản. Đây là hướng tích cực và có nhiều triển vọng cho
14



hàng triệu hộ nông dân sản xuất nhỏ chưa có điều kiện để tích luỹ đất đai, có
điều kiện áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, đồng thời cũng là chìa khoá mở
lối thoát cho thị trường nông lâm sản Việt Nam.
Việc chuyển tổ chức sản xuất từ liên kết ngang (người sản xuất/người thu
gom/người chế biến/người kinh doanh xuất khẩu...) sang hình thức liên kết dọc
theo ngành hàng (sản xuất – chế biến – tiêu thụ), đã đem lại tác dụng to lớn sau:
+ Chuyển một phần lợi nhuận của người mua bán trung gian hoặc công
ty kinh doanh sang cho người sản xuất trực tiếp đầu tư phát triển vùng nguyên
liệu.
+ Thông qua hợp đồng sẽ tập trung được nhiều hộ sản xuất tiểu nông
nhỏ lẻ thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung với chất lượng đồng đều và
ổn định.
+ Chia sẻ một phần rủi ro trong sản xuất nông nghiệp sang các cơ
sở chế biến, tiêu thụ tham gia gánh chịu, người sản xuất nông nghiệp chỉ
còn chịu rủi ro trong khâu sản xuất nguyên liệu, hạn chế tối đa rủi ro
trong thị trường giá cả.
+ Nối kết thông tin hai chiều giữa thị trường tiêu dùng với người sản
xuất, nhờ đó sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng,
vệ sinh an toàn thực phẩm do thị trường đòi hỏi, trên cơ sở đó tăng cường
khả năng cạnh tranh và nâng cao được giá trị sản phẩm.
+ Gắn kết được công nghiệp chế biến và hoạt động kinh doanh dịch vụ
với địa bàn kinh tế nông thôn, góp phần quan trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn theo hướng đa dạng hoá, công nghiệp hoá, thúc
đẩy liên kết nông nghiệp – công nghiệp phát triển.
+ Thông qua liên kết các đơn vị kinh tế, các tổ chức có điều kiện hỗ
trợ, giúp đỡ cho các nhóm hộ, hợp tác xã phát triển, tạo ra những khả năng
phát triển năng lực nội tại của kinh tế hộ, đồng thời tạo lập môi trường kinh
tế - xã hội cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển.
1.3.2. Vai trò của từng nhà trong mối liên kết 4 nhà thể hiện như sau

15


+ Vai trò của nhà nông: Trước hết phải xác định đây là mắt xích quan
trọng trong việc tạo ra sản phẩm theo định hướng của doanh nghiệp..., nhưng
cũng cần nói rõ là nhà nông là đối tượng được hưởng lợi nhất trong mối
liên kết này. Do đó, nhà nông cần liên kết với các nhà khác để mang lại lợi
ích cao nhất. Nhà nông liên kết với nhà khoa học để nhận được sự hỗ trợ kỹ
thuật, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nông và doanh nghiệp đều
rất cần liên kết với nhau một cách lâu bền trong việc bán và mua nông sản.
Doanh nghiệp chế biến nông sản cần có nguồn cung cấp hàng hóa ổn định,
cung ứng nông sản nguyên liệu thường xuyên đạt chất lượng, giá cả hợp lý
với số lượng theo yêu cầu của công nghệ chế biến và thị trường tiêu thụ.
Nhà nông cần phải biết chắc chắn nông phẩm do mình làm ra được tiêu
thụ hết với giá cả hợp lý để yên tâm sản xuất. Mặt khác, 3 vấn đề lớn mà
từng nhà nông không thể giải quyết được đó là (1) thị trường tiêu thụ và
thương hiệu (2), công nghệ mới (3), vốn đầu tư. Chỉ có doanh nghiệp chế
biến - tiêu thụ nông sản mới có thể giải quyết tốt 3 vấn đề này. Giải quyết 3
vấn đề này không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nông mà cho cả doanh nghiệp
chế biến - tiêu thụ khoai tây.
+ Vai trò của doanh nghiệp: Để thành công các doanh nghiệp chế
biến – Tiêu thụ khoai tây không chỉ giải quyết các vấn đề công nghệ chế biến,
bảo quản mà cả các vấn đề sản xuất nông phẩm của nông dân, để không
ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Nhờ đó, sự liên kết
giữa doanh nghiệp, nhà nông với các nhà khoa học được thiết lập ngày càng
vững chắc trên qui mô lớn.
+ Doanh nghiệp vì lợi ích của mình, không chỉ đầu tư áp dụng các
công nghệ mới trong khâu chế biến - bảo quản - tiêu thụ khoai tây, mà còn
đầu tư giúp nhà nông áp dụng công nghệ mới trong sản xuất.
+ Vai trò của nhà khoa học: Tổ chức khoa học giữ vai trò rất quan trọng

trong quá trình liên kết. Họ chính là người giúp nông dân ứng dụng các công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất,
16


tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Ngoài ra, hoạt động khuyến
nông làm cầu nối giữa các nhà khoa học và nhà nông, đóng vai trò quyết định
trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và góp phần phát triển vùng sản xuất hàng
hóa tập trung qui mô lớn trong nông nghiệp.
+ Vai trò của Nhà nước: Giữ vai trò quan trọng hơn cả trong liên kết
“4 nhà” phải kể đến là Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về
vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp thu mua nông sản để đảm bảo tiêu
thụ cho nông dân ngay cả khi giá thị trường biến động xấu... Hiện nay,
Quyết định 80 đã có, nhiều nơi chưa quan tâm nên chỉ còn liên kết 3 nhà
hoặc 2 nhà khiến doanh nghiệp không yên tâm đầu tư cho nông dân. Nhà
nước đóng vai trò hướng dẫn điều tiết quá trình nhập khẩu nhằm đảm bảo lợi
ích cho người sản xuất. Nhà nước hỗ trợ xúc tiến thương mại, việc này chỉ có
Nhà nước mới làm được chứ bản thân các doanh nghiệp không thể làm. Nhà
nước có định hướng trên cơ sở thông tin về thương mại, khuyến cáo người
sản xuất, như thế người sản xuất sẽ chủ động có giải pháp xử lý khi có khó
khăn. Nhà nước cần quy hoạch sản xuất nông nghiệp hợp lý hơn để tạo ra
sản phẩm hàng hóa. Nhiều ý kiến cho rằng việc quy hoạch cần gắn với nội
dung liên kết 4 nhà. Còn nếu 4 nhà vẫn rời rạc như hiện nay, thì nông sản
vẫn sẽ chỉ là sản phẩm thô và điệp khúc được mùa mất giá vẫn sẽ tiếp diễn.
1.3.3 Các hình thức liên kết trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm
Liên kết kinh tế là thực hiện một quan hệ xã hội, mà ở đây là quan hệ
kinh tế - kỹ thuật - tài chính giữa hai chủ thể kinh tế độc lập là doanh
nghiệp chế biến và nông dân. Quan hệ đó cần phải được pháp luật điều tiết và
bảo vệ thì mới có cơ sở để thực hiện một cách có hiệu quả, bảo đảm
quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên tham gia liên kết. Vì vậy, quan hệ liên kết

đó phải được thực hiện dưới một hình thức pháp lý nhất định, làm cơ sở để
ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên liên kết và được pháp luật bảo vệ (Hồ
Quế Hậu, 2008).

17


Mục đích của sản xuất tiêu thụ sản phẩm là bên bán mong muốn bán
được nhiều hàng và thu được lợi nhuận cao, còn bên mua mong muốn
mua được hàng tốt, giá cả phù hợp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng
hoặc nhu cầu của các quá trình sản xuất - kinh doanh tiếp theo. Tiêu thụ sản
phẩm là quá trình gắn kết sản xuất với tiêu dùng, giữa vùng nguyên liệu
với người sản xuất chế biến và tiêu thụ, giữa người mua và người bán.
Liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm là cách thức tổ chức phân công lao
động xã hội, trong đó các hộ, các doanh nghiêp phối hợp, gắn bó, phụ
thuộc lẫn nhau thông qua các cam kết, các thỏa thuận điều kiện sản xuất tiêu thụ sản phẩm nhằm đem lại lợi ích cho các bên.
Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân chịu sự tác
động của nhiều nhân tố kinh tế, kĩ thuật, chính trị, xã hội khác nhau. Về mặt
kinh tế, yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất là chế độ kinh tế - xã hội, tức chế độ sở
hữu và cơ chế vận hành nền kinh tế. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế
biến và nông dân còn bị chi phối bởi trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Liên kết kinh tế còn phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề, sản phẩm
và nguyên liệu cụ thể.
Nếu dựa theo vai trò thì quan hệ kinh tế giữa các tác nhân từ sản
xuất đến tiêu dùng, ta có thể phân ra các phương thức liên kết là liên kết
dọc và liên kết ngang.
Liên kết theo chiều dọc (Liên kết giữa các tác nhân trong cùng
một ngành hàng mà trong đó mỗi tác nhân đảm nhận một bộ phận hoặc
một số công đoạn nào đó) là liên kết được thực hiện theo trật tự các khâu
của quá trình sản xuất kinh doanh (theo dòng vận động của sản phẩm).

Kiểu liên kết theo chiều dọc toàn diện nhất bao gồm các giai đoạn từ sản
xuất, chế biến nguyên liệu đến phân phối thành phẩm.
Trong mối liên kết này, thông thường mỗi tác nhân tham gia vừa có
vai trò là khách hàng của tác nhân kề trước đó, đồng thời bán sản phẩm cho
tác nhân kế tiếp của chuỗi hàng. Kết quả của liên kết dọc là hình thành nên
18


chuỗi giá trị của một ngành hàng và có thể làm giảm đáng kể chi phí vận
chuyển, chi phí cho khâu trung gian. Liên kết theo chiều ngang (Liên kết
diễn ra giữa các tác nhân hoạt động trong cùng một ngành) là hình thức liên
kết giữa các chủ thể nhằm mục đích làm chủ thị trường sản phẩm. Hình
thức này được tổ chức dưới nhiều dạng, có thể thông qua các hội nghề
nghiệp hoặc hiệp hội, ví dụ như Hiệp hội Mía đường… Các cơ sở liên kết
với nhau là những cơ sở độc lập nhưng có quan hệ với nhau và thông qua
một bộ máy kiểm soát chung. Với hình thức liên kết này có thể hạn chế được
sự ép giá của các cơ sở chế biến nhờ sự làm chủ thị trường. Như vậy liên kết
kinh tế có thể diễn ra trong mọi ngành sản xuất kinh doanh, thu hút sự tham
gia của tất cả các chủ thể kinh tế có nhu cầu của mọi thành phần kinh tế và
không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý, mỗi loại hình liên kết có những đặc
điểm riêng cũng như những ưu điểm riêng của nó.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ
khoai tây
1.4.1. Các yếu tố từ hộ sản xuất
Đối với người sản xuất do trình độ hiểu biết còn hạn chế về liên kết, về
hợp đồng, trách nhiệm trong liên kết, họ chỉ nhìn cái lợi trước mắt mà không
nhìn lâu dài. Họ sợ sự ràng buộc veefmawtj pháp luật khi ký kết hợp đồng.
Mặt khác, có những hộ sản xuất mặc dù đã ký hợp đồng tiêu thụ
với doanh nghiệp nhưng nơi nào mua giá cao hơn họ vẫn bán, thậm chí
một số hộ nhiều nông dân trên cùng một diện tích và sản lượng lại ký hợp

đồng tiêu thụ dẫn đến tình trạng phá vỡ hợp đồng, làm các công ty không
chủ động được nguyên liệu.
Một yếu tố ảnh hưởng nữa là mặc dù công ty đã tạo điều kiện cho
người nông sản xuất bằng cách ứng vốn, mua phân bón,chuyển giao
khoa học kỹ thuật, thu mua với giá ổn định, vậy mà vẫn có những trường
hợp nông dân không “chung thủy” với công ty, sẵn sàng bán cho ng ty
khác khi họ trả giá cao hơn.
19


Một thực tế khó khăn ảnh hưởng đến sự liên kết giữa công ty và hộ sản
xuất đó là hộ sản xuất luôn muốn chất lượng hàng hóa của mình là cao trong
khi đó thực tế lại không đạt như vậy. Vì vậy,dẫn đến tình trạng xảy ra các mâu
thuẫn trong thu mua giữa công ty và hộ sản xuất không bán theo hợp đồng
với công ty mặc dù công ty đã đầu tư ban đầu.
Sản xuất của hộ vẫn tự phát, không tập trung, quy mô kinh tế của hộ rất
nhỏ, diện tích manh mún, không mang tính tập trung, sản xuất hàng hóa. Đã
thế, tư tưởng thay đổi phương thức sản xuất của hộ rất ít, hầu như hộ không
dám mạnh dạn đầu tư trong sản xuất của mình, sợ ảnh hưởng quyền lợi mà họ
đang có, sợ rủi ro trách nhiệm khi tham gia liên kết.
Như vậy, nhận thức của liên kết sản xuất của hộ rất kém, các lý do
chính trên là làm cho việc liên kết còn hạn chế và để liên kết trong sản xuất
của hộ được hiệu quả hơn càn giải quyết tốt hơn các lý do ảnh hưởng trên.
1.4.2. Các yếu tố từ doanh nghiệp
Các cơ sở chế biến thu mua sản phẩm nông sản ổn định nhưng vẫn còn
tình trạng cơ sở chế biến ngừng mua hoặc giảm giá lại không thông báo cho
nông dân, trong khi mua còn gây khó dễ cho nông dân...nhất là vào thời điểm
chính vụ nông sản.
Chế tài mà công ty đưa ra để sử phạt các hộ phá vỡ hợp đồng có hiệu
lực chưa cao, mới chỉ dừng lại là phạt tiền nên tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn

xảy ra nhất là khi thời vụ nguyên liệu khan hiếm mà giá hơn giá thị trường.
Sự chủ động phối hợp liên kết phục vụ cho sản xuất quy hoạch vùng
nguyên liệu của các cơ sở chế biến với cấp chính quyền địa phương, với hộ
nông dân chưa cao.
1.4.3. Các yếu tố từ nhà khoa học
Sự tham gia của các nhà khoa học , nhà kỹ thuật còn hạn chế, ảnh
hưởng đến sự gắn liền đất sản xuất của hộ. Tổ chức khoa học giữ vai trò rất
quan trọng trong quá trình liên kết. Họ chính là người giúp nông dân ứng
dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng sản
20


phẩm, làm giảm chi phí sản xuất, tăng giá bán và sức cạnh tranh của hàng
hóa.
Vẫn còn thiếu vắng các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu mạnh dạn chủ
động đưa định hương liên kết thành một ưu tiên trong việc triển khai các
chương trình, dự án nghiên cứu. Ngay cả những hợp đồng được ký kết thông
qua hoạt động liên kết thì quyền lợi vật chất của các cơ quan khoa học hay
các nhà khoa học cũng chưa được xác định rõ ràng.
1.4.4. Các yếu tố từ Nhà nước
Tác động của chính quyền địa phương ít ảnh hưởng, sau đó vấn đề sản
xuất, thu mua, các tình trạng tranh chấp xảy ra chính quyền ít có vai trò trọng
tài để giải quyết.
Vai trò chức năng về trung gian, cầu nối của chính quyền các cấp còn
hạn chế do chính sách và do bản thân chính quyền nhất là chính quyền cấp cơ
sở đã không phát huy và làm tròn trách nhiệm là trọng tài để giải quyết các
vấn đề ảnh hưởng đến liên kết. Chính quyền cơ sở gần như thả nổi để tự cơ
sở chế biến và hộ sản xuất tự thỏa thuận với nhau trong quá trình liên kết.
Chưa xác định rõ về sự ràng buộc, trách nhiệm, lợi ích giữa các bên
tham gia liên kết nên dẫn đến phá vỡ quy trình này, nhất là khi cơ sở chế bến

vi phạm hợp đồng.
Chính sách chưa thật sự đi sát với người sản xuất nông sản, còn ở
dạng chung chung khiến cho hộ nông dân gặp khó khăn trong khi vận dụng
vào liên kết.
Trên đây là những yếu tố ảnh hưởng cơ bản của các bên khi tham gia
liên kết và chính các yếu tố này đã ảnh hưởng đến quá trình liên kết bền vững
trong sản xuất nông sản và muốn có 1 quá trình liên kết bền vững thì cần giải
quyết tốt những yếu tố ảnh hưởng trên.

21


×