Tải bản đầy đủ (.pdf) (216 trang)

Tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ về khởi nghiệp và xem xét tác động của giáo dục và nguồn vốn- nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.57 MB, 216 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN QUANG LONG
TIẾP CẬN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP BẰNG MÔ HÌNH THÁI
ĐỘ VỀ KHỞI NGHIỆP VÀ XEM XÉT TÁC ĐỘNG CỦA
GIÁO DỤC VÀ NGUỒN VỐN: NGHIÊN CỨU THỰC
NGHIỆM TẠI VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số:
9340101
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HÀ MINH QUÂN

TP. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2018


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục hình vẽ
Tóm tắt

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU .............................................. 1
1.1 Giới thiệu: ...................................................................................................1


1.2 Sự cần thiết của nghiên cứu ........................................................................1
1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về khởi nghiệp ................................ 1
1.2.2. Tính cấp thiết của nghiên cứu ............................................................. 6
1.3 Mục tiêu của nghiên cứu ............................................................................9
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................9
1.5 Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................10
1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu ............................................................................10
1.7 Cấu trúc của luận án .................................................................................11

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ................................................... 12
2.1. Giới thiệu chương 2 ..................................................................................12
2.2. Lý thuyết về khởi nghiệp ..........................................................................12
2.2.1. Các quan điểm về khởi nghiệp ....................................................... 12
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu về khởi nghiệp. ............................... 14
2.3. Lý thuyết về ý định khởi nghiệp (Entrepreneurial intention – EI) ...........19
2.3.1. Khái niệm về ý định khởi nghiệp.................................................... 19
2.3.2. Các mô hình nghiên cứu ý định khởi nghiệp .................................. 21
2.4. Các thành phần của mô hình thái độ về khởi nghiệp ...............................26
2.4.1. Tự trọng (Self_esteem_SE) ............................................................ 26
2.4.2. Sáng tạo (Innovation_INN) ............................................................ 27
2.4.3. Thành tích (Achievement_ACH) .................................................... 28
2.4.4. Kiểm soát bản thân (Personal Control_PC) .................................... 29
2.5. Lý thuyết về giáo dục khởi nghiệp ...........................................................30


2.5.1. Khái niệm về giáo dục khởi nghiệp ................................................ 30
2.5.2. Tổng quan các nghiên cứu về giáo dục khởi nghiệp ...................... 31
2.6. Lý thuyết về nguồn vốn khởi nghiệp ........................................................32
2.6.1. Các loại hình nguồn vốn khởi nghiệp ............................................. 32
2.6.2. Các nghiên cứu về nguồn vốn khởi nghiệp .................................... 35

2.7. Khe hổng nghiên cứu ................................................................................37
2.8. Cơ sở hình thành các giả thuyết nghiên cứu.............................................40
2.8.1. Mối quan hệ giữa sự tự trọng (SE) và EI ........................................ 40
2.8.2. Mối quan hệ giữa sự sáng tạo (INN) và EI ..................................... 41
2.8.3. Mối quan hệ giữa kiểm soát bản thân (PC) và EI ........................... 42
2.8.4. Mối quan hệ giữa thành tích (Ach) và EI ....................................... 43
2.8.5. Vai trò các thuộc tính giáo dục đến ý định khởi nghiệp ................. 44
2.8.6. Vai trò của nguồn vốn đến quá trình khởi nghiệp .......................... 48
2.9. Mô hình nghiên cứu đề xuất .....................................................................50
2.10. Tóm tắt chương 2......................................................................................53

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................ 54
3.1. Giới thiệu chương 3 ..................................................................................54
3.2. Qui trình nghiên cứu .................................................................................54
3.2.1. Giới thiệu chương trình nghiên cứu ................................................ 54
3.2.2. Các bước trong qui trình nghiên cứu .............................................. 54
3.3. Thang đo lường các khái niệm nghiên cứu ..............................................57
3.3.1. Thang đo thái độ về khởi nghiệp .................................................... 58
3.3.2. Thang đo ý định khởi nghiệp (EI) .................................................. 62
3.4. Nghiên cứu sơ bộ ......................................................................................62
3.4.1. Nghiên cứu định tính ...................................................................... 63
3.4.2. Nghiên cứu định lượng sơ bộ ......................................................... 65
3.5. Nghiên cứu chính thức .............................................................................74
3.5.1. Mẫu nghiên cứu .............................................................................. 74
3.5.2. Đối tượng và phương pháp khảo sát ............................................... 74
3.6. Phương pháp nghiên cứu: .........................................................................75
3.6.1. Phương pháp phân tích EFA ........................................................... 75
3.6.2. Phương pháp hồi qui bội ................................................................. 76
3.6.3. Phương pháp ANOVA một chiều và hậu ANOVA ........................ 77
3.7. Tóm tắt chương 3......................................................................................78


CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ .............. 79
4.1. Giới thiệu chương 4 ..................................................................................79


4.2. Kết quả thống kê mô tả .............................................................................79
4.2.1. Giới tính .......................................................................................... 79
4.2.2. Độ tuổi ............................................................................................ 80
4.3. Phân tích đánh giá thang đo......................................................................81
4.3.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo.................................................... 81
4.3.2. Kiểm định thang đo bằng phương pháp EFA ................................. 89
4.4. Mô hình nghiên cứu chính thức................................................................94
4.5. Kiểm định mô hình nghiên cứu ................................................................96
4.5.1. Kiểm định giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5: mối quan hệ giữa thái
độ về khởi nghiệp với ý định khởi nghiệp ...................................... 97
4.5.2. Kiểm định giả thuyết H6: Phương pháp giáo dục tác động đến thái
độ về việc khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp. ............................. 101
4.5.3. Kiểm định giả thuyết H7: thời lượng đào tạo tác động đến thái độ
về khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp. ......................................... 105
4.5.4. Kiểm định giả thuyết H8: trình độ học vấn có tác động đến thái độ
về khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp. ......................................... 110
4.5.5. Kiểm tra giả thuyết H9: nguồn vốn tác động điều tiết đến mối quan
hệ giữa thái độ về khởi nghiệp với ý định khởi nghiệp. ............... 115
4.6. Tóm tắt chương 4....................................................................................120

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN HÀM Ý .............................................................. 121
5.1. Giới thiệu chương 5 ................................................................................121
5.2. Kết quả chính và những đóng góp của nghiên cứu ................................122
5.2.1. Mô hình đo lường ......................................................................... 122
5.2.2. Mô hình lý thuyết .......................................................................... 124

5.3. Đóng góp thực tiển và hàm ý đối với các nhà quản trị...........................130
5.3.1. Hàm ý về xây dựng môi trường khuyến khích khởi nghiệp ......... 130
5.3.2. Hàm ý về xây dựng chương trình giáo dục khởi nghiệp .............. 134
5.3.3. Hàm ý về xây dựng chính sách nguồn vốn cho khởi nghiệp. ....... 137
5.4. Hạn chế của đề tài và các hướng nghiên cứu tiếp theo ..........................138


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: TỔNG HỢP CÁC NGHIÊN CỨU VỀ Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP
Phụ lục 2 : NGHIÊN CỨU ÐỊNH TÍNH KHÁM PHÁ KHÁI NIỆM EAO VÀ EI
Phụ lục 3 : BẢNG CÂU HỎI NGUYÊN MẪU CỦA P. ROBINSON
Phụ lục 4: BẢNG CÂU HỎI BAN ĐẦU THẢO LUẬN NHÓM
Phụ lục 5: BẢNG CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CHÍNH THỨC
Phụ lục 6: KẾT QUẢ MỘT SỐ PHÂN TÍCH
A.

THANG ĐO CHÍNH THỨC

B.

KẾT QUẢ MÔ HÌNH HỒI QUI EAO – EI

C.

KẾT QUẢ ONEWAY ANOVA: Phương pháp giảng dạy

D.

KẾT QUẢ ONEWAY ANOVA: Thời lượng đào tạo


E.

KẾT QUẢ ONEWAY ANOVA: Trình độ học vấn

F.

KẾT QUẢ HỒI QUI NGUỒN VỐN VỚI BIẾN DUMMY

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
EAO: Entrepreuerial Atittude Orientation
TPB: Theory Planned Behavior
EEM: Entreprenuership Event Model
EI: Entreprenuerial Intention
EB: entrepreneurial behaviour
DNKN: Doanh nghiệp khởi nghiệp
SE: Self-esteem (Sự tự trọng)
ACH: Achievement (Thành tích)
INN: Innovation (Sáng tạo)
PC: Personal control (Kiểm soát bản thân)
COG: Cognation (Nhận thức, niềm tin / suy nghĩ)
AFF: Affection (Cảm xúc)
Conative or BEH: Behaviour (Ý chí hành vi)


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Thang đo lòng tự trọng…………………………………………... 55
Bảng 3.2: Thang đo kiểm soát bản thân……………………………………. 55
Bảng 3.3: Thang đo thành tích……………………………………………… 56
Bảng 3.4: Thang đo sự sáng tạo……………………………………………. 57
Bảng 3.5: Thang đo ý định khởi nghiệp……………………………………. 59
Bảng 3.6: Độ tin cậy thang đo sơ bộ cảm xúc tự trọng……………………. 63
Bảng 3.7: Độ tin cậy thang đo sơ bộ ý chí về tự trọng…………………….. 64
Bảng 3.8: Độ tin cậy thang đo sơ bộ nhận thức tự trọng…………………….64
Bảng 3.9: Độ tin cậy thang đo sơ bộ cảm xúc kiểm soát bản thân………… 65
Bảng 3.10: Độ tin cậy thang đo sơ bộ ý chí kiểm soát bản thân…………… 65
Bảng 3.11: Độ tin cậy thang đo sơ bộ nhận thức về kiểm soát bản thân…… 66
Bảng 3.12: Độ tin cậy thang đo sơ bộ cảm xúc về thành tích……………… 67
Bảng 3.13: Độ tin cậy thang đo sơ bộ ý chí về thành tích…………………. 67
Bảng 3.14: Độ tin cậy thang đo sơ bộ nhận thức về thành tích……………. 68
Bảng 3.15: Độ tin cậy thang đo sơ bộ cảm xúc sáng tạo …………………….68
Bảng 3.16: Độ tin cậy thang đo sơ bộ ý chí sáng tạo………………………. 69
Bảng 3.17: Độ tin cậy thang đo sơ bộ nhận thức sáng tạo………………….. 69
Bảng 3.18: Độ tin cậy thang đo sơ bộ ý định khởi nghiệp…………………. 70
Bảng 4.1: Thống kê mô tả theo giới tính…………………………………… 76
Bảng 4.2:Thống kê mô tả theo độ tuổi……………………………………… 77
Bảng 4.3: Độ tin cậy thang đo chính thức cảm xúc tự trọng……………….. 78
Bảng 4.4: Độ tin cậy thang đo chính thức ý chí tự trọng…………………… 78
Bảng 4.5: Độ tin cậy thang đo chính thức nhận thức tự trọng……………… 79
Bảng 4.6: Độ tin cậy thang đo chính thức cảm xúc kiểm soát bản thân…… 79
Bảng 4.7: Độ tin cậy thang đo chính thức ý chí kiểm soát bản thân………... 80
Bảng 4.8: Độ tin cậy thang đo chính thức cảm xúc kiểm soát bản thân……..80
Bảng 4.9: Độ tin cậy thang đo chính thức cảm xúc thành tích…………….. 81
Bảng 4.10: Độ tin cậy thang đo chính thức ý chí thành tích………………. 81



Bảng 4.11: Độ tin cậy thang đo chính thức nhận thức thành tích………….. 81
Bảng 4.12: Độ tin cậy thang đo chính thức cảm xúc sáng tạo……………… 82
Bảng 4.13: Độ tin cậy thang đo chính thức ý chí sáng tạo………………… 82
Bảng 4.14: Độ tin cậy thang đo chính thức nhận thức sáng tạo……………..83
Bảng 4.15: Độ tin cậy thang đo chính thức ý định khởi nghiệp……………..83
Bảng 4.16: Kết quả phân tích EFA………………………………………… 86
Bảng 4.17: Bảng trọng số hồi qui mô hình nghiên cứu……………………. 93
Bảng 4.18: So sánh ANOVA phương pháp giảng dạy…………………….. 95
Bảng 4.19: Kiểm định tính đồng nhất phương sai………………………… 96
Bảng 4.20: Bảng so sánh Cảm xúc tự trọng và Cảm xúc sáng tạo giữa các nhóm
bằng LSD………………………………………………………………….. 97
Bảng 4.21: So sánh ANOVA cho thời lượng đào tạo……………………… 99
Bảng 4.22: Kiểm định tính đồng nhất của phương sai (Leneve)……............100
Bảng 4.23: Bảng so sánh cảm xúc sáng tạo giữa các nhóm bằng phương pháp
Tamhane

………………………………………….……………………..100

Bảng 4.24: Bảng so sánh Cảm xúc kiểm soát thành tích bản thân giữa các nhóm
bằng phương pháp LSD……………………………..……………………….101
Bảng 4.25: Bảng so sánh Ý định khởi nghiệp giữa các nhóm bằng phương pháp
LSD ………………………………………………………………………..102
Bảng 4.26: So sánh ANOVA trình độ học vấn…….…………………..........103
Bảng 4.27: Kiểm định sự đồng nhất của phương sai (Leneve)………...........104
Bảng 4.28: Bảng so sánh giữa các nhóm bằng phương pháp LSD………….104
Bảng 4.29: Bảng tóm tắt mô hình. ………………………………………….108
Bảng 4.30: Bảng ANOVA…………………………………………………..108
Bảng 4.31: Bảng trọng số hồi qui: ………………………………………….109
Bảng 4.32: Bảng so sánh trọng số hồi qui giữa các loại nguồn vốn………...111
Bảng 5.1: Thang đo kiểm soát thành tích cá nhân…………………………..125



DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Mô hình lý thuyết hành vi dự định………………………………. 19
Hình 2.2: Mô hình sự kiện khởi nghiệp……………………………………. 21
Hình 2.3: Mô hình thái độ về khởi nghiệp…………………………………. 23
Hình 2.4: Quá trình phát triển của các dự án khởi nghiệp………….…….

32

Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu đề xuất…………………………………….. 49
Hình 3.2 : Qui trình nghiên cứu……………………………………………. 52
Hình 4.1: Thống kê theo giới tính………………………………………….. 85
Hình 4.2: Thống kê theo độ tuổi…………………………………………… 86
Hình 4.3: Mô hình nghiên cứu điều chỉnh…………………………………...98


TÓM TẮT
Khởi nghiệp đã thu hút rất nhiều sự chú ý và trở thành chủ đề thảo luận giữa
các nhà làm chính sách, các học giả nghiên cứu, các nhà kinh doanh trên thế giới.
Tương tự như vậy, tại Việt Nam, một nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, cũng xuất
hiện ngày càng nhiều những nghiên cứu về lĩnh vực này. Nghiên cứu này sử dụng
thang đo “Thái độ về khởi nghiệp” gồm bốn thành phần: Sáng tạo, Tự trọng, Thành
tích và Kiểm soát bản thân của P. Robinson và cộng sự (1991) và thang đo “ý định
khởi nghiệp” của Linan và Chen (2009) nhằm khám phá mối quan hệ giữa thái độ về
khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp, đồng thời kiểm tra vai trò điều tiết của nguồn vốn
lên mối quan hệ này. Ngoài ra nghiên cứu cũng kiểm tra vai trò kiểm soát của các
yếu tố giáo dục đến thái độ và ý định về khởi nghiệp của người Việt Nam. Qua đó
nhằm phát triển và kiểm định thang đo lường và xây dựng mô hình lý thuyết cũng
như đóng góp những hàm ý quan trọng cho các nhà làm chính sách.

Qui trình nghiên cứu được tiến hành gồm hai bước chính: một là, nghiên cứu
sơ bộ gồm định tính và định lượng được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm
điều chỉnh, bổ sung các biến quan sát của thang đo; hai là, nghiên cứu chính thức với
cở mẫu 337 để kiểm định lại thang đo, kiểm định mô hình lý thuyết và các giả thuyết
nghiên cứu.
Kết quả cho thấy các thành phần thang đo “Thái độ về khởi nghiệp” có tác
động đáng kể đến ý định khởi nghiệp. Tuy nhiên, có điểm khác biệt so với thang đo
gốc với sự xuất hiện của thành phần thứ năm là “kiểm soát thành tích cá nhân”. Ngoài
ra, nguồn vốn được tìm thấy có vai trò điều tiết đến mối quan hệ này. Cuối cùng, các
yếu tố của giáo dục cũng có tác động kiểm soát đến thái độ và ý định về khởi nghiệp.
Kết quả nghiên cứu này góp phần bổ sung vào lý thuyết về thái độ và ý định
về khởi nghiệp, trong bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam. Các đóng góp về hàm ý cũng
giúp các nhà quản trị hiểu rõ hơn về cơ chế hình thành cũng như những yếu tố tác
động đến ý định khởi nghiệp. Qua đó, họ sẽ có những chính sách hiệu quả hơn trong
việc khuyến khích khởi nghiệp.


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thiệu:
Nghiên cứu này nhằm khám phá phương pháp dự báo ý định khởi nghiệp cũng
như kiểm tra vai trò điều tiết của các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp, cụ thể
là giáo dục và nguồn vốn. Chương một, người viết sẽ trình bày sự cần thiết của nghiên
cứu, mục tiêu, phương pháp và phạm vi tiến hành nghiên cứu, ý nghĩa, đóng góp của
nghiên cứu.
1.2 Sự cần thiết của nghiên cứu
1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về khởi nghiệp
Trong lịch sử lý thuyết, có rất nhiều các nghiên cứu về khởi nghiệp như: tinh thần
khởi nghiệp, ý định khởi nghiệp, hành vi khởi nghiệp, các yếu tố tác động đến khởi

nghiệp. Từ đó xuất hiện các trường phái khác nhau nghiên cứu về lĩnh vực này.
Ngay từ những năm đầu thế kỷ 19, các nhà nghiên cứu (như Richard Cantillon,
1931; Schumpeter, 1934 hay Ducker, 1985) đã cố gắng giải thích khái niệm về tinh
thần doanh nhân (entrepreneurship) và hành vi khởi nghiệp (entrepreneurial
behaviour). Bằng cách tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu trong
giai đoạn này đã đóng góp những nền tảng lý thuyết rất quan trọng và có công rất lớn
khi chỉ ra rằng khởi nghiệp có tầm quan trọng lớn đối với sức khỏe kinh tế nói chung
cũng như chỉ ra một số công cụ thực tế và các khía cạnh của khởi nghiệp. Sau đó,
Dees và cộng sự (1998), Low và MacMillan hay Kruger (2000) cũng đóng góp đáng
kể về khái niệm ban đầu về tinh thần khởi nghiệp.
Để giải thích vì sao một người có xu hướng khởi nghiệp trong khi những người
khác thì không có, các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều cách khác nhau. Nhiều tác
giả (như Kristiansen và Indarti, 2004; Gaddam, 2008; Ramana và cộng sự, 2009; S.M.
Farrington, 2012) cho rằng các doanh nhân có cùng một đặc điểm nhân khẩu học như:
giới tính, độ tuổi, vùng miền…. Một số khác (ví dụ Beugelsdijk, 2007; Jaafar và
Abdul-Aziz, 2005; Aldrich và Martinez, 2001; Gartner, 2001; Lee và Peterson, 2000;


2

Lyon, Lumpkin và Dess, 2000; Shane và Venkataraman, 2000; Aldrich và
Kenworthy, 1999; Busenitz và Barney, 1997; Lumpkin và Dess, 1996; Gartner, 1988,
Carland và cộng sự, 1984; Cole, 1969; McClelland, 1961; McClelland và cộng sự,
1953; Knight, 1921) lại cho rằng doanh nhân có cùng những đặc điểm về tính cách
như sự tử tế, nhu cầu thành tích, nhận thức năng lực, chấp nhận rủi ro, đổi mới, phong
cách giải quyết vấn đề, tính chấp nhận sự mơ hồ và đề cao giá trị. Vì vậy, họ nỗ lực
xây dựng nên một danh mục các đặc điểm doanh nhân để dự báo hiện tượng khởi
nghiệp. Trường phái thứ ba quyết định khởi nghiệp xuất phát từ ý định của một cá
nhân, do đó, phụ thuộc vào thái độ của người đó về vấn đề khởi nghiệp. Trường phái
này tiếp cận theo hướng tâm lý học nhằm dự báo hành vi khởi nghiệp (như Rosenberg

và Hovland, 1960; Shaver, 1987; Ajzen, 1991; Shapero và Sokol, 1982; P. Robinson,
1991; Fayolle và DeGeorge 2006; Kolvereid 1996; Krueger và cộng sự, 2000). Cả ba
trường phái đều có nhiều đóng góp to lớn vào hệ thống khoa học về khởi nghiệp, tuy
nhiên vẫn còn những tranh cãi kéo dài về việc dự báo khởi nghiệp. Cho đến nay, có
rất nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình mô hình “Lý thuyết hành vi dự định” của Ajzen
(1991), “ Mô hình sự kiện khởi nghiệp” của Shapero và Sokol (1982) để dự báo ý
định khởi nghiệp (và sau đó là hành vi khởi nghiệp). Cả hai mô hình này đều có hai
thế mạnh: một là, cả hai mô hình đã được kiểm chứng rất nhiều lần và kết quả thống
kê cũng hỗ trợ mạnh mẽ cho cả hai mô hình (Krueger Jr và cộng sự, 2000). Hai là, cả
hai có ưu điểm là các yếu tố ngoại sinh được kiểm soát trong các khái niệm thái độ,
do đó không ảnh hưởng đến ý định (Souitaris và cộng sự, 2007; Tkachev và cộng sự,
1999)
Tuy nhiên, cả hai mô hình vẫn tồn tại một số bất cập: thứ nhất, trong mô hình
TPB, Ajzen vẫn giữ quan điểm thái độ là một cấu trúc đơn và được biểu hiện qua
phản ứng tình cảm đơn lập (Fishbein và Ajzen, 1975). Theo nghĩa này, hành vi kinh
doanh là một chức năng của thái độ của một người đến giá trị, lợi ích của khởi nghiệp
và chủ yếu được đại diện bởi phản ứng tình cảm đơn lập (Robinson và cộng sự, 1991a;
Dömötör và Hader, 2007). Ngoài ra, TPB là mô hình ban đầu được xây dựng để dự
đoán một hành vi nói chung trong tâm lý học và sau đó được áp dụng vào nghiên cứu


3

ý định khởi nghiệp, trong khi ý định khởi nghiệp là một lĩnh vực đặc thù, chỉ diễn ra
khi ý định đã được cân nhắc kỹ lưỡng, nghiêm túc. Hơn nữa, trong mô hình TPB, giả
định rằng ba thành phần thái độ về hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát
hành vi cùng xác định ý định thực hiện một hành vi và rằng mỗi yếu tố quyết định
này cung cấp nền tảng động lực để hình thành một ý định. Bagozzi (1992) lập luận
rằng TPB không mô tả quá trình tạo ra động lực và cách mà các yếu tố dự báo này
hoạt động trong sự hình thành ý định hành vi. Do đó các thành phần trong mô hình

TPB không kết hợp một thành phần động lực rõ ràng. Hai là, trong mô hình EEM,
ban đầu Shapero và Sokol đã không xem như một mô hình nghiên cứu ý định khi giới
thiệu nó vào năm 1982, mặc dù sau đó nó đã được phát hiện và sử dụng trong nghiên
cứu ý định khởi nghiệp sau này (Kermit, 2008). Mục tiêu của mô hình là chỉ để cung
cấp một lời giải thích cho tiến trình dẫn đến một sự kiện khởi nghiệp, đó là, thời điểm
tạo ra một doanh nghiệp mới (Kollmann và Kuckertz, 2006). "Mô hình sự kiện khởi
nghiệp chỉ tập trung về vấn đề tạo ra doanh nghiệp mới và không phải về sự diễn tiến
hướng tới việc thông qua một hành vi khởi nghiệp nói chung" (Fayolle và cộng sự,
2006). Hơn nữa, mặc dù biến "thiên hướng hành động" trong mô hình các sự kiện
khởi nghiệp (EEM) được biết đến như là biến giải thích tại sao một người có năng
lực và hoài bão trở thành một người khởi nghiệp, tuy nhiên, Shapero và Sokol đã
không đề cập đến biến này một cách rõ ràng trong mô hình ban đầu của họ.
Mô hình thái độ về khởi nghiệp “Entrepreneurial Attitude Orientation” (EAO)
của P. Robinson và cộng sự (1991) bao gồm bốn thành phần chính gồm: nhu cầu
thành tích (đề cập đến kết quả nhận thức và kết quả của tinh thần khởi nghiệp và thúc
đẩy một trách nhiệm khởi động một doanh nghiệp mới); sáng tạo (suy nghĩ trong việc
đưa ra những ý tưởng sáng tạo mới, sản phẩm hoặc phương pháp); kiểm soát cá nhân
đối với hành vi (phản ánh nhận thức về kiểm soát và ảnh hưởng đến kết quả của các
kết quả tạo ra trong kinh doanh); và lòng tự trọng (đề cập đến khả năng tự tin và nhận
thức về năng lực kinh doanh của cá nhân kết hợp với công việc kinh doanh của mình).
Thế mạnh của mô hình EAO là "có nhiều chiều hướng chi tiết hơn, làm tăng mối
tương quan với hành vi thực tế và giảm sự biến thiên không giải thích được" (Harris


4

và Gibson, 2008). Ý định hành vi khởi nghiệp là một chức năng của bốn thành phần
của mô hình trong ba khía cạnh thái độ: cảm xúc, nhận thức và ý chí hành vi. Sự kết
hợp của ba chiều này thúc đẩy một người trở thành doanh nhân. Mặt khác, theo cách
phản biện của Bagozzi (1992) “TPB không mô tả quá trình tạo ra động lực” thì nhu

cầu thành tích của EAO có thể được xem là động lực để hình thành ý định hành vi.
Ngoài ra, yếu tố sáng tạo trong mô hình EAO được cho là rất quan trọng và gắn liền
với hành vi khởi nghiệp (Hmieleski và Corbett, 2006; Hamidi và cộng sự, 2008;
Bowen và cộng sự, 2010), tuy nhiên không hiện diện trong mô hình TPB và EEM.
Vì thế, mô hình EAO được cho là “được thiết kế dành riêng và phù hợp hơn cho
nghiên cứu khởi nghiệp” (Huefner và cộng sự, 1996). Mô hình này cũng đã được sử
dụng trong một số nghiên cứu để đo lường các quan điểm về tinh thần khởi nghiệp
(Stimpson, Huefner, Narayanan và Shanthakumar, 1993; Boshoff và Scholtz, 1995;
Wyk và Boshoff, 2004; Harris và Gibson, 2008; Sharif và Saud, 2009; Soomro và
Shah, 2015).
Tuy vậy, mô hình EAO lại chưa được kiểm chứng rộng rãi ở các nền văn hóa
khác nhau cũng như tại Việt Nam. Hơn nữa, các nghiên cứu hiện có dựa trên mô hình
này lại cho các kết quả nghiên cứu thiếu tính nhất quán. Cho đến nay, các nhà khoa
học vẫn chưa thể khằng định được đâu là mô hình tối ưu để dự báo ý định và hành vi
khởi nghiệp và họ kêu gọi có nhiều hơn nữa những nghiên cứu sử dụng các mô hình
khác nhau ở những bối cảnh kinh tế xã hội và văn hóa khác nhau để làm giàu thêm
hệ thống lý thuyết.
Một luồng nghiên cứu khác tiếp cận theo hướng xem xét các yếu tố tác động đến
ý định khởi nghiệp. Yếu tố môi trường kinh doanh như thuế, thất nghiệp, cạnh tranh,
mức độ phát triển kinh tế (Leff, 1979). Nguồn vốn con người: kinh nghiệm (Cooper
và Park, 2008), kiến thức, kỹ năng (Kor và cộng sự, 2007), tầm nhìn, khả năng xữ lý
công việc (Douglas và Shepherd, 2005), chấp nhận sự mơ hồ (Koh, 1996); chấp nhận
rủi ro (Gurol và Atsan, 2006), gia đình (Matthews và Moser 1996), giáo dục (G.
Gorman, D. Hanton và W. King, 1997; L. Kolvereid và H. Matlay, 2012; McMullan


5

và Long, 1987), nguồn vốn tài chính (Brezak Brkan, 2010; Kovačić, 2011; Maurya,
2012)

Theo Jack và Anderson (1998), giáo dục khởi nghiệp là cả một khoa học và một nghệ
thuật bởi lẽ khoa học liên quan đến các kiến thức cần thiết cho việc thành lập doanh
nghiệp mới (khía cạnh có thể được dạy) và là nghệ thuật khi đề cập đến khía cạnh
sáng tạo của các doanh nhân (khía cạnh không thể dạy). Các nhà giáo dục khởi nghiệp
nhất trí rằng cần phải có một sự thay đổi trọng tâm từ khía cạnh khoa học sang giảng
dạy nghệ thuật và sáng tạo của các doanh nhân (G. Gorman, D. Hanton và W. King,
1997; M. Z. Solisvick, P. Westhead, L. Kolvereid, và H. Matlay, 2012). Mặc dù trọng
tâm của hầu hết các khóa học kinh doanh và đào tạo nằm trong chiều hướng khoa học
của các doanh nhân, người ta đã thừa nhận rằng giáo dục kinh doanh sẽ giúp kích
hoạt các khía cạnh nghệ thuật, sáng tạo và nhận thức của các doanh nhân (Lee et al,
2007). Như vậy, việc xem xét tác động của yếu tố giáo dục thông qua mô hình EAO,
với sự hiện diện của thành phần sáng tạo, có thể là phù hợp hơn. Các nghiên cứu
trước đây đã khai thác các khía cạnh của giáo dục, có thể kể đến loại hình giáo dục
(ví dụ Bridge, O'Neill và Cromie, 1998; Gorman, Hanlon và King, 1997; McMullan
và Long, 1987), đến từng đối tượng cụ thể (Jamieson, 1984; Linan, 2004). Tuy nhiên,
đa số các nhà nghiên cứu chỉ dùng mô hình TPB, rất ít nghiên cứu sử dụng mô hình
EAO.
Ngoài ra, một khi khởi nghiệp trở thành một hiện tượng được quan tâm ở cấp quốc
gia trên toàn cầu, ngày càng có nhiều tổ chức khởi nghiệp cũng như các quỹ đầu tư
hình thành. Sứ mệnh của những tổ chức này không chỉ là phát hiện, cấp vốn hay đầu
tư vào các dự án tiềm năng mà còn phải nuôi dưỡng và khuyến khích phong trào khởi
nghiệp. Vấn đề tài chính trong khởi nghiệp vẫn chưa bao giờ bớt nóng trong việc vận
hành dự án, trong các chương trình nghị sự về khuyến khích khởi nghiệp. Các nghiên
cứu trong lĩnh vực này đã nỗ lực đóng góp trong việc phân loại các nguồn vốn (Brezak
Brkan, 2010, Kovačić, 2011), tìm hiểu các giai đoạn hình thành vốn tương ứng với
các giai đoạn khởi nghiệp (Maurya, 2012; Marmer, Hermann và Berman, 2011). Tuy
nhiên, trong hệ thống tài liệu, vẫn chưa làm rõ vai trò tác động của từng loại hình


6


nguồn vốn đến mối quan hệ giữa thái độ và ý định về khởi nghiệp. Hơn nữa, một khi
EAO được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ là phù hợp để đo lường ý định khởi nghiệp,
thì việc xem xét tác động của các yếu tố giáo dục và nguồn vốn thông qua EAO là rất
cần thiết.
1.2.2. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Tại Việt Nam, khởi nghiệp đang là chủ đề thu hút quan tâm rất nhiều từ cơ
quan chính phủ đến các quỹ đầu tư, các trường Đại học, và đặc biệt là tầng lớp thanh
niên. Theo báo cáo GEM (Global Entreprenuership Monitor_Chỉ số khởi nghiệp toàn
cầu), tỷ lệ người trưởng thành nhận thức về cơ hội kinh doanh ở Việt Nam năm 2015
là 56,8%, tăng mạnh so với năm 2014 ở mức 39,4% và năm 2013 ở mức 36,8%. Tỷ
lệ này trung bình ở các nước phát triển dựa trên nguồn lực là 53,8%. Tỷ lệ người
trưởng thành ở Việt Nam có ý định khởi sự trong kinh doanh trong vòng ba năm tiếp
theo là 22,3%, tăng so với năm 2014 là 18,2%, tuy nhiên vẫn thấp hơn tỷ lệ trung
bình 36,5% của các nước cùng nhóm. Theo thống kê 2015, Việt Nam có hơn 1500
dự án khởi nghiệp, tuy còn nhỏ về qui mô vốn và nhân lực nhưng được kỳ vọng sẽ
đóng góp đáng kể vai trò động lực của nền kinh tế trong tương lai gần. Vì vậy, các
nhà khoa học và các nhà làm chính sách rất quan tâm đến việc dự báo cũng như những
yếu tố tác động đến việc hình thành ý định khởi nghiệp để có thể khuyến khích khởi
nghiệp.
Trong khoa học, như đã trình bày ở mục 1.2.1, nhiều nhà nghiên cứu đã cố
gắng để xác định nguyên nhân của ý định kinh doanh với hàng ngàn nghiên cứu của
nhiều trường phái được tiến hành trong những thập kỷ qua. Mặc dù có những đóng
góp đáng ghi nhận, hệ thống lý thuyết vẫn tồn tại nhiều tranh cãi không ngừng về một
phương pháp dự báo ý định khởi nghiệp phù hợp và tối ưu. Trong khi hai mô hình
TPB và EEM đã được kiểm chứng ở nhiều bối cảnh khác nhau, mô hình EAO được
thiết kế dành riêng cho nghiên cứu về khởi nghiệp như đã trình bày ở trên lại chưa
được củng cố mạnh mẽ. Chưa có bất kỳ nghiên cứu thực nghiệm nào được tiến hành
ở Việt Nam. Không chắc rằng liệu mô hình EAO có thể dùng để dự báo ý định khởi



7

nghiệp và đạt giá trị tin cậy tại Việt Nam hay không. Do đó, việc kiểm chứng giá trị
mô hình thái độ về việc khởi nghiệp trong bối cảnh tại Việt Nam và xác định mối
quan hệ giữa EAO và EI là cần thiết.
Ngoài ra, những nhà làm chính sách cũng đang nổ lực tìm cách khuyến khích
tinh thần khởi nghiệp. Về vấn đề này, nhiệm vụ của họ không chỉ dừng lại ở công tác
dự báo mà còn phải tìm ra các yếu tố nào tác động đến thái độ của một cá nhân đến
việc khởi nghiệp. Trong số đó, yếu tố về giáo dục và nguồn vốn đang được xem là
những yếu tố thu hút sự quan tâm rất lớn.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia và nhà nghiên cứu, yếu tố nguồn vốn được cho là
có tầm quan trọng đến việc vận hành ý tưởng khởi nghiệp và phát triển của doanh
nghiệp. Theo Vasilescu (2009), những người khởi nghiệp thường đánh mất cơ hội
huy động nguồn vốn tài chính khởi nghiệp là do ba nguyên nhân cơ bản: “thiếu kiến
thức về tài chính, sợ mất quyền kiểm soát và thiếu năng lực thuyết phục nhà đầu tư”.
Thống kê của Marmer, M. Hermann B.L. và Berman R. (2011) cho thấy hơn 90%
các công ty trẻ (khởi nghiệp) thất bại phần lớn là do thiếu vốn và không biết cách
triển khai ý tưởng. Con số thống kê đáng chú ý này làm tăng mối quan ngại về sự
quyết tâm khởi nghiệp của giới trẻ. Trong hệ thống tài liệu, người viết tìm thấy hai
luồng lý thuyết cơ bản về yếu tố nguồn vốn tài chính trong khởi nghiệp: một là các
nhà khoa học tập trung vào hướng phân loại các loại hình nguồn vốn trong khởi
nghiệp (Brezak Brkan, 2010; Kovačić, 2011; Brown, Degryse, Hoewer, Penas, 2012);
hai là hướng nghiên cứu tập trung vào việc phân tích các giai đoạn hình thành nguồn
vốn trong quá trình khởi nghiệp (M. Klačmer Čalopa và cộng sự, 2014; Maurya,
2012; Marmer, Hermann và Berman, 2011). Theo đó, tương ứng với từng giai đoạn,
doanh nghiệp sẽ có thể huy động một loại hình nguồn vốn khác nhau. Vấn đề đặt ra
rằng liệu một nguồn vốn tài chính dồi dào và dễ tiếp cận có làm tăng quyết tâm khởi
của các cá nhân hay không? Tại các quốc gia khởi nghiệp, các nhà đầu tư, tài trợ sẽ
hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN) bằng rất nhiều hình thức như cho vay, đặt

hàng, mua hoặc tài trợ ý tưởng, giám sát và hỗ trợ các dự án khởi nghiệp. Hiện nay ở
nước ta đã xuất hiện hoạt động này tuy chưa nhiều. Một phần do sản phẩm ý tưởng


8

của ta chưa đạt tầm vóc sáng tạo, mặt khác có quá ít quỹ đầu tư mạo hiểm lớn như
IDG Ventures VietNam, CyberAgent Ventures, DFJ Vinacapital, Sumitomo...mặc dù
họ đã góp phần tạo nên tên tuổi một số doanh nghiệp trong lĩnh vực game, internet
và e-commerce. Thực tế để có thể thuyết phục các Quỹ này đầu tư là không dễ dàng
do quy trình chọn lựa dự án của họ rất khắt khe, tuy nhiên cũng đã từng có những dự
án được tài trợ (vexere.com, vatgia, foody.vn….). Các bạn trẻ khởi nghiệp không nên
chỉ biết dựa vào nguồn vốn từ gia đình, bạn bè, người thân vì không đáng kể và sẽ
thiếu tính dài hạn. Điểm quan trọng khi được tài trợ bởi các Quỹ là ngoài vốn họ còn
giúp DNKN định hướng sản phẩm, phát triển kế hoạch kinh doanh về lâu dài. Thiếu
và yếu về kế hoạch tài chính, hạn chế về nguồn vốn là một trong những nguyên nhân
thất bại chính của DNKN Việt Nam trong thời gian qua…Theo đánh giá chung của
IDG Ventures VietNam cho thấy, tỷ lệ thất bại của DNKN ở Việt Nam lên đến gần
80% trong ba năm đầu tiên tác động rất lớn đến thái độ của người khởi nghiệp. Vì
thế, yếu tố nguồn vốn có tác động đến thái độ và hình thành ý định khởi nghiệp hay
không là một vấn đề cần thiết phải được kiểm chứng. Đến nay, vẫn chưa tìm thấy
nghiên cứu nào thông qua mô hình EAO xem xét tác động của nguồn vốn đến mối
quan hệ giữa thái độ và ý định về khởi nghiệp.
Cuối cùng, như đề cập của Robinson: "Mô hình thái độ của khởi nghiệp, như
đã được thực nghiệm và trình bày khái niệm ở đây, có hướng đi cho các chương trình
giáo dục khởi nghiệp" (Robinson, 1991). Qua tổng quan lý thuyết về giáo dục khởi
nghiệp cho thấy hai vấn đề: một là, các nghiên cứu thường chỉ xem xét sự khác nhau
giữa những người có tham gia và không tham gia trong chương trình đào tạo khởi
nghiệp nói chung; hoặc tập trung vào xây dựng các chương trình trong những giai
đoạn khác nhau mà chưa quan tâm đến cấu trúc và đặc điểm của chương trình đào

tạo như thời lượng và phương pháp đào tạo và đặc điểm đối tượng tham gia. Hai là,
các nhà nghiên cứu trước đây vẫn chỉ sử dụng mô hình TPB và EEM để giải thích mà
như lập luận ở trên là thiếu thuyết phục. Hầu như có rất ít các nghiên cứu sử dụng mô
hình EAO của Robinson để xem xét liệu các thuộc tính của giáo dục khởi nghiệp có
tác động đến thái độ hay không. Do đó, cần phải làm rõ vai trò tác động của các thuộc


9

tính của chương trình giáo dục khởi nghiệp vào thái độ về việc khởi nghiệp tại Việt
Nam.
Trong một khảo sát về độ tuổi khởi nghiệp tại Việt Nam, thống kê cho thấy
mặc dù thanh niên vẫn tự đánh giá năng lực và kiến thức kinh doanh thấp hơn và nỗi
sợ thất bại cao hơn so với tuổi trung niên, lại có xu hướng khởi nghiệp cao hơn (2,8%
so với 1,2%) (theo báo Đầu tư chứng khoán, tháng 6/2015). Điều này cho thấy sự
cần thiết phải hỗ trợ thêm kinh nghiệm và kỹ năng kinh doanh cho lớp trẻ, giúp họ
có sự tự tin hơn và tỷ lệ khởi sự kinh doanh nhờ vậy sẽ cao hơn. Theo đánh giá của
các nhà đầu tư, chất lượng chiều sâu của các dự án khởi nghiệp của các bạn trẻ ở Việt
Nam chưa cao. Nguyên nhân của vấn đề này một là, do họ chưa được trang bị đầy đủ
kiến thức và kỹ năng về khởi nghiệp, hai là những thách thức gặp phải trong quá trình
triển khai ý tưởng như: kinh phí, không có người cố vấn, chưa có sự giao lưu giữa
các khối, ngành… Do vậy, việc thiết kế và tổ chức triển khai các chương trình giáo
dục khởi nghiệp phù hợp là rất cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, người viết quyết định thực hiện nghiên cứu với
đề tài: “Tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ về khởi nghiệp và xem xét
vai trò tác động của giáo dục và nguồn vốn: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam”.
1.3 Mục tiêu của nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này gồm bốn mục tiêu cụ thể sau:
-


Thứ nhất, điều chỉnh và đánh giá thang đo các khái niệm nghiên cứu trong mô
hình EAO và ý định khởi nghiệp EI.

-

Thứ hai, khám phá và đo lường mối quan hệ giữa các thành phần EAO và EI
trong bối cảnh tại Việt Nam.

-

Thứ ba, khám phá vai trò tác động của các thành phần giáo dục khởi nghiệp
đến thái độ về khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp.

-

Thứ tư, khám phá vai trò điều tiết của nguồn vốn đến mối quan hệ giữa thái
độ về khởi nghiệp với ý định khởi nghiệp.

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


10

Đối tượng khảo sát của nghiên cứu này gồm sinh viên, học viên cao học ở các
trường Đại học và học viên các chương trình đào tạo khởi nghiệp. Phạm vi nghiên
cứu về địa lý được tiến hành ở ba địa phương lớn có làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ
ở Việt Nam, đó là TP. Hà Nội, TP. Đà Nẳng và TP. Hồ Chí Minh.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo hai bước: bước một là nghiên cứu sơ bộ và
bước hai là nghiên cứu chính thức. Trong phần nghiên cứu sơ bộ, người viết áp dụng

phương pháp định tính (thảo luận nhóm) nhằm điều chỉnh, bổ sung thang đo và
phương pháp định lượng để đánh giá độ tin cậy thang đo. Nghiên cứu định lượng sơ
bộ được thực hiện thông qua cuộc khảo sát và thu thập ý kiến với số mẫu là 44. Kết
quả thu được sẽ tiến hành xữ lý bằng phần mềm SPSS. Hệ số Cronbach alpha được
sử dụng để kiểm tra độ tin cậy thang đo. Giai đoạn nghiên cứu sơ bộ được thực hiện
tại TP. Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu chính thức sử dụng phương pháp định lượng, thông qua cuộc khảo
sát phỏng vấn trực tiếp và Google docs, tại ba thành phố Hà Nội, Đà Nẳng và Hồ Chí
Minh. Dữ liệu thu được sẽ được phân tích bằng SPSS, thực hiện kiểm định lại thang
đo bằng phương pháp hệ số Cronbach alpha, kiểm định tính hội tụ và phân biệt bằng
EFA. Để kiểm định mối quan hệ giữa các thành phần của thái độ về khởi nghiệp và
ý định khởi nghiệp, người viết sử dụng mô hình hồi qui. Để kiểm định vai trò điều
tiết của nguồn vốn đến mối quan hệ giữa thái độ và ý định về khởi nghiệp, người viết
sử dụng phương pháp hồi qui với biến dummy và cuối cùng dùng phương pháp so
sánh ANOVA và kiểm định hậu ANOVA để kiểm tra vai trò kiểm soát của các yếu
tố giáo dục.
1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện sẽ góp phần vào việc bổ sung hệ thống lý thuyết
về ý định khởi nghiệp bằng cách tiếp cận thái độ về khởi nghiệp, cũng như xem xét
một số yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp trong bối cảnh của một nền kinh tế
chuyển đổi – Việt Nam.


11

Ý nghĩa thiết thực của nghiên cứu còn thể hiện ở chỗ nó sẽ giúp các nhà làm
chính sách và điều hành nhận biết được động cơ khởi nghiệp, vai trò của chương trình
giáo dục và nguồn vốn khởi nghiệp, qua đó tổ chức vận hành chương trình một cách
hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy ý định khởi nghiệp trong tầng lớp thanh
niên Việt Nam.

1.7 Cấu trúc của luận án
Cấu trúc của luận án được chia làm 5 Chương, gồm có:
-

Chương 1: Giới thiệu về nghiên cứu.

-

Chương 2: Tổng quan lý thuyết

-

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

-

Chương 4: Phân tích kết quả và kiểm định mô hình nghiên cứu

-

Chương 5: Kết luận ý nghĩa và hàm ý


12

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1.

Giới thiệu chương 2
Xuất phát từ định hướng nghiên cứu của đề tài, người viết tập trung tìm kiếm


và tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu về ý định khởi nghiệp cũng như những tác động
của giáo dục và nguồn vốn. Trong chương này sẽ mô tả tổng quan cơ sở lý thuyết làm
nền tảng để thực hiện đề án nghiên cứu. Thông qua việc hệ thống hoá cơ sở lý thuyết
về các khái niệm nghiên cứu, người viết sẽ phác thảo mô hình nghiên cứu ý định khởi
nghiệp từ phương pháp tiếp cận thái độ tại Việt Nam cũng như đánh giá vai trò tác
động của yếu tố giáo dục và nguồn vốn.
2.2.

Lý thuyết về khởi nghiệp
2.2.1. Các quan điểm về khởi nghiệp
Vào khoảng đầu thế kỷ 19, Richard Cantillon cho rằng một người khởi nghiệp

là một người "sẵn sàng mua ở một mức giá nhất định và bán lại tại một mức giá nào
đó" (Cantillon, 1931). Trong khi Jean Baptiste Say, cho rằng người khởi nghiệp là
một người chuyển những nguồn lực kinh tế từ một lĩnh vực có năng suất thấp hơn
vào một lĩnh vực khác có năng suất cao hơn để đạt kết quả tốt hơn (Dees và cộng sự
trích dẫn, 1998). Schumpeter (1934), một nhà nghiên cứu kinh tế học đã chứng minh
trong các nghiên cứu của mình rằng "người khởi nghiệp chính là tác nhân của sự thay
đổi bên trong một nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế có thể đạt được là nhờ những
hoạt động của họ" (Swedberg, 2002). Bằng cách phân biệt sự khác nhau giữa đổi mới
và sáng chế, Schumpeter cho rằng khởi nghiệp phải bao gồm việc tạo ra sự đổi mới
và chỉ bằng cách đó, vai trò của người khởi nghiệp mới có thể được thể hiện trong
quá trình đổi mới. Cuối cùng ông kết luận rằng lý thuyết về tinh thần khởi nghiệp cần
phải được xây dựng dựa trên "các hoạt động thực tế của các người khởi nghiệp"
(Schumpeter, 1934). Ngoài ra, Schumpeter cũng đề xuất hai học thuyết, liên quan đến
các hành vi khởi nghiệp và các động cơ của khởi nghiệp tương ứng với các nghiên
cứu về thực hành khởi nghiệp như sau:



13

Năm loại hành vi khởi nghiệp khởi nghiệp của Schumpeter:
• Sự ra đời của một hàng hóa mới
• Sự ra đời của một phương pháp sản xuất mới
• Phát triển một thị trường mới
• Nghiên cứu ra một nguồn cung cấp nguyên liệu mới.
• Tạo ra một tổ chức mới của một ngành công nghiệp (Scherer, 1999)
Ba động lực chính của một người khởi nghiệp:
• Mong muốn quyền lực và sự tự chủ.
• Nhu cầu về sự thành tích.
• Niềm hạnh phúc của việc sáng tạo (Swedberg, 2002)
Sau này, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khởi nghiệp đã thay đổi quan điểm
của họ vào một khía cạnh thực tế hơn. Trong một nghiên cứu gần đây về khởi nghiệp,
Peter Drucker thêm các ý tưởng về cơ hội để định nghĩa khái niệm này. Theo Drucker,
sự khác biệt giữa một người khởi nghiệp với người khác là bất cứ khi nào có sự thay
đổi từ thị trường, người khởi nghiệp sẽ là người có thể khai thác các cơ hội: "người
khởi nghiệp luôn tìm kiếm các thay đổi, đáp ứng với nó, và khai thác nó như một cơ
hội" (Dees và cộng sự, 1998). Như vậy, niềm tin kiểm soát của bản thân vào việc
khởi nghiệp đã được chấp nhận trong nghiên cứu, nhờ đó các nhà nghiên cứu có thể
hiểu rõ hơn về quá trình khởi nghiệp..
Khởi nghiệp đã được Low và MacMillan (1988) định nghĩa là “việc tạo ra một
doanh nghiệp mới”, Bygrave (1989) tranh luận rằng “khởi nghiệp là một quá trình
trở thành (doanh nghiệp/người khởi nghiệp) chứ không phải hiện trạng thực tế (kết
quả) của người khởi nghiệp”. Về sau, Bruyat và Julien (2001) cho rằng khởi nghiệp
là một khái niệm có thể được định nghĩa bằng rất nhiều cách khác nhau, từ nghĩa hẹp
là “bắt đầu một công việc khởi nghiệp riêng” cho đến nghĩa rộng hơn như là thái độ
làm việc xem trọng tính tự lực, tiên phong, sáng tạo và dám đương đầu rủi ro. Như
vậy, ngay trong vấn đề khái niệm, có thể thấy vẫn tồn tại những quan điểm trái chiều
khi cho rằng khởi nghiệp là một quá trình hay là một thời điểm. Tuy nhiên, các nhà



14

nghiên cứu đều cho rằng “các cá nhân làm kinh doanh là có ý định và mục đích rõ
ràng và việc trở thành doanh nhân là kết quả của quá trình ra quyết định” (Kruger và
cộng sự, 2000). Vì vậy, để nghiên cứu hành vi khởi nghiệp, cần phải xem xét quá
trình làm thế nào ý định khởi nghiệp được hình thành.
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu về khởi nghiệp.
Tổng quan lý thuyết, người viết thấy có rất nhiều nhà nghiên cứu dự đoán khả
năng khởi nghiệp bằng cách sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Song nhìn chung
họ tập trung ở ba phương pháp phổ biến nhất: một là căn cứ vào thông tin nhân khẩu
học, hai là đặc điểm tính cách cá nhân, ba là thái độ của cá nhân về khởi nghiệp.
2.2.2.1.

Phương pháp tiếp cận dựa trên đặc điểm cá nhân

Theo Donatus A. Okhomina (2010), các tác giả theo trường phái tâm lý học
cho rằng tính cách cá nhân là yếu tố quan trọng để xác nhận một người sẽ trở thành
một người khởi nghiệp hay không. (ví dụ Beugelsdijk, 2007; Gartner, 2001; Lyon,
Lumpkin và Dess, 2000; Shane và Venkataraman, 2000; Aldrich và Kenworthy,
1999; Lumpkin và Dess, 1996; Gartner, 1988, Carland và cộng sự, 1984; McClelland,
1961; McClelland và cộng sự, 1953). Các nhà nghiên cứu đã cố gắng để giải thích
các xu hướng khởi nghiệp bằng cách đo đặc điểm tính cách hay khuynh hướng động
lực của người khởi nghiệp. David C. McClelland, David Atkinson là những người
tiên phong trong năm 1950 và đã có những đóng góp nhất định trong việc xây dựng
một nền tảng để có thể tiếp cận gần hơn về các đặc điểm tâm lý của người khởi
nghiệp. Peter B. Robinson và cộng sự (1991) cho rằng trong một thời gian dài, nhiều
nhà nghiên cứu đã cố gắng để xác định đặc điểm có thể giúp phân biệt các người khởi
nghiệp từ những người khác (như Brockhaus, 1975; Brockhaus và Horwitz, 1986;

Collins và Moore, 1970; Horaday và Aboud, 1971; Shapero, 1975). Nhiều đặc điểm
đã được tìm thấy: sự tử tế, nhu cầu thành tích, nhận thức năng lực, chấp nhận rủi ro,
đổi mới, phong cách giải quyết vấn đề, tính chấp nhận sự mơ hồ và đề cao giá trị.
Mặc dù cách tiếp cận này đóng góp rất nhiều vào nghiên cứu, nó cũng bộ lộ một số


15

vấn đề bất hợp lý về mặt phương pháp luận và khái niệm (Kilby, 1971; Klinger,
1966):
Thứ nhất, các phương pháp được sử dụng trong những nghiên cứu đó dựa trên
các đặc điểm tính cách không được xây dựng chuyên biệt để đo lường tinh thần khởi
nghiệp. Thực tế, những đặc điểm này được tìm thấy trong lý thuyết tâm lý học và
được áp dụng vào việc nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp. Vì vậy, “nó dẫn đến hiện
tượng là đôi khi sẽ không tương thích và thường thiếu hiệu quả” (Hornaday, 1987;
Hornaday và Nunnally, 1987). Do đó, giá trị ứng dụng của nó sẽ không cao và sự
tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này là rất thấp. Gartner nói rằng "việc nghiên cứu
dựa trên đặc điểm cá nhân của người khởi nghiệp là một ngõ cụt không thể cung cấp
hy vọng thúc đẩy thêm sự hiểu biết của chúng ta" (Gartner, 1988). Thứ hai, việc xác
định các khái niệm trong cách tiếp cận này không có sự nhất quán. Có rất nhiều thang
đo khác nhau được phát triển để đo lường cùng một khái niệm nào đó. Hơn nữa, mối
tương quan giữa chúng là không cao. Ví dụ, Yamauchi và Doi (1977) tìm ra 11 cấp
độ khác nhau được sử dụng để đo lường khái niệm "Nhu cầu thành tích" tải trên bốn
yếu tố khác nhau. Lý do của hiện tượng này một là do các tác giả sử dụng tên thang
đo giống nhau nhưng không liên quan rõ ràng đến các khái niệm, hai là bởi vì thực tế
có một số công cụ được dùng đo lường nhiều khía cạnh khác nhau của một khái niệm
cụ thể (ví dụ tâm điểm kiểm soát-Locus of control của Rotter, Paulhus, 1983). Thứ
ba, khởi nghiệp là một lĩnh vực năng động đòi hỏi những đặc tính cá nhân khác biệt.
Việc áp dụng “lý thuyết nhân cách dùng trong việc đo lường xu hướng tâm lý chung”
(Abelson, 1982; Epstein, 1984) vào một lĩnh vực cụ thể như khởi nghiệp thường làm

giảm giá trị của nghiên cứu. Lý do là sử dụng công cụ để đo lường không chính xác
hoặc liên quan với một khái niệm nào đó.
Nói chung, phương pháp tiếp cận dựa trên đặc điểm tính cách cá nhân để
nghiên cứu khởi nghiệp đã bị một số nhà nghiên cứu cho là “không thỏa mãn và gây
hoài nghi trong việc giải thích hành vi khởi nghiệp”. (Gartner, 1988; Aldrich và
Zimmer, 1986, Low và Macmillan, 1988). Họ kết luận rằng “không có đặc điểm tính


×