Tải bản đầy đủ (.pdf) (205 trang)

Vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 205 trang )

Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n

!
"

#

$
! "# $%&'('(%

Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: GS.TS. MAI NG C CƯ NG

H

Néi 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này là tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Người hướng dẫn khoa học:

Nghiên cứu sinh


GS.TS. Mai Ngọc Cường

Lê Quang Đức


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.1. Sự cần thiết và tổng quan nghiên cứu của chủ đề luận án ............................ 1
1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu của chủ đề luận án ................................................. 1
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với phát triển
cây trồng dược liệu ............................................................................................... 3
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu ....... 22
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 22
1.2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 22
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 30
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU ............................. 31
2.1. Phát triển cây trồng dược liệu và ý nghĩa của nó đối với phát triển kinh tế
xã hội ..................................................................................................................... 31
2.1.1. Phát triển cây trồng dược liệu: Khái niệm và phân loại ............................. 31
2.1.2. Nội dung phát triển cây trồng dược liệu .................................................... 33
2.1.3. Các điều kiện phát triển cây trồng dược liệu ............................................. 38
2.1.4. Ý nghĩa của phát triển cây trồng dược liệu trong phát triển kinh tế - xã hội ... 40
2.2. Vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu: Thực chất, nội dung
và nhân tố ảnh hưởng .......................................................................................... 43

2.2.1. Thực chất vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ................ 43
2.2.2. Nội dung vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ................. 48
2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng
dược liệu. ........................................................................................................... 58
2.3. Kinh nghiệm thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược
liệu và bài học rút ra cho các tỉnh miền Bắc Việt Nam ...................................... 62
2.3.1. Thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ................ 63
2.3.2. Bài học kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng
dược liệu ............................................................................................................ 70
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 72


3.1. Khái quát tình hình phát triển cây trồng dược liệu qua điều tra, khảo sát ở
một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ........................................................................... 73
3.1.1. Tình hình phát triển cây trồng dược liệu của các tỉnh khảo sát .................. 73
3.1.2. Đất đai trồng cây dược liệu của các tỉnh khảo sát ...................................... 74
3.1.3. Lao động của các tỉnh khảo sát ................................................................. 75
3.1.4. Cơ sở hạ tầng trồng dược liệu của các tỉnh khảo sát .................................. 76
3.1.5. Thị trường tiêu thụ dược liệu của các tỉnh khảo sát ................................... 76
3.2. Phân tích thực trạng vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược
liệu qua điều tra, khảo sát .................................................................................... 78
3.2.1. Thực trạng vai trò nhà nước trong xây dựng hệ thống chính sách phát triển
cây trồng dược liệu ............................................................................................. 78
3.2.2. Thực trạng công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển cây trồng
dược liệu ............................................................................................................ 86
3.2.3. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những
vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng
dược liệu. ........................................................................................................... 94
3.3. Đánh giá vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn
một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ........................................................................... 95

3.3.1. Những thành tựu và hạn chế trong hệ thống chính sách phát triển cây trồng
dược liệu chung của cả nước............................................................................... 95
3.3.2. Những thành tựu và hạn chế trong tổ chức quản lý nhà nước .................. 105
3.3.3 Thành tựu và hạn chế trong công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung,
xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát
triển cây trồng dược liệu ................................................................................... 113
3.4. Phân tích nguyên nhân hạn chế về vai trò nhà nước đối với phát triển cây
trồng dược liệu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ............................................ 120
3.4.1. Nguyên nhân liên quan đến các chủ trương, chính sách, quan điểm phát
triển cây trồng dược liệu ................................................................................... 120
3.4.2. Nguyên nhân liên quan đến năng lực quản lý, điều hành của bộ máy quản lý
nhà nước các cấp .............................................................................................. 123
3.4.3. Nguyên nhân liên quan đến công tác phối hợp trong tổ chức thực hiện ... 124
3.4.4. Nguyên nhân liên quan đến năng lực của các hộ và doanh nghiệp trồng
dược liệu .......................................................................................................... 125
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 127


Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU Ở
MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM ............................................................. 128
4.1. Bối cảnh phát triển, dự báo nhu cầu về và mục tiêu phát triển cây trồng
dược liệu ở Việt Nam những năm tới ................................................................ 128
4.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội Việt Nam những năm tới .................... 128
4.1.2. Dự báo nhu cầu và khả năng phát triển về cây trồng dược liệu ở Việt Nam
những năm tới .................................................................................................. 129
4.1.3. Mục tiêu phát triển cây trồng dược liệu đến năm 2020, tầm nhìn 2030 .... 130
4.2. Quan điểm và phương hướng hoàn thiện vai trò nhà nước đối với phát
triển cây trồng dược liệu ở các tỉnh miền Bắc những năm tới ......................... 133
4.2.1. Quan điểm hoàn thiện vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược

liệu ở Việt Nam ................................................................................................ 133
4.2.2. Phương hướng hoàn thiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược
liệu ở Việt Nam ................................................................................................ 137
4.3. Giải pháp hoàn thiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
ở Việt Nam .......................................................................................................... 152
4.3.1. Đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả trong các chủ trương,
chính sách, quan điểm phát triển bền vững cây trồng dược liệu ............................ 152
4.3.2. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý, năng lực điều hành của nhà nước các
cấp trong phát triển cây trồng dược liệu ............................................................ 154
4.3.3. Tăng cường sự phối hợp trong quản lý nhà nước để phát triển trồng cây
dược liệu .......................................................................................................... 156
3.3.4. Tăng cường phối hợp bốn nhà trong trồng cây dược liệu......................... 160
4.3.5. Nâng cao năng lực và ý thức trách nhiệm của các hộ gia đình và các cơ sở
trồng và chế biến sản phẩm từ cây dược liệu..................................................... 163
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ........................................................................................ 164
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 165
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ......................................... 167
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 168


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

ASXH

An sinh xã hội

BHYT


Bảo hiểm y tế

BYT
CP
ĐBQ

Bộ Y tế
Chính Phủ
Điểm bình quân

DN

Doanh nghiệp

ĐTB

Điểm trung bình

ĐVT

Đơn vị tính

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

HGD

Hộ gia đình


KH&CN

Khoa học và công nghệ

KT-XH

Kinh tế xã hội



Nghị định

NHTM

Ngân hàng thương mại

SXKD

Sản xuất kinh doanh

TB

Trung bình

UBND

Ủy ban nhân dân

WHO


Tổ chức y tế thế giới

YHCT

Y học cổ truyền


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Thang đánh giá Likert ............................................................................. 26
Bảng 1.2: Phân bổ điều tra, phỏng vấn .................................................................... 29
Bảng 3.1:

Tình hình trồng cây dược liệu của tỉnh Hưng Yên, Bắc Giang và tỉnh Hà Gang... 73

Bảng 3.2: Kết quả khảo sát về tiếp cận các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp/cá nhân
trồng dược liệu của địa phương ............................................................... 78
Bảng 3.4: Tổng hợp tình hình kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, bổ sung và xử lý vi
phạm thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của các
tỉnh điều tra những năm 2010-2015 ......................................................... 95
Bảng 3.5: Điểm bình quân chung đánh giá tác động của các chính sách đến phát
triển cây trồng dược liệu.......................................................................... 98
Bảng 3.6: Đánh giá mức độ đạt được trong tổ chức quản lý của nhà nước tác động
đến phát triển trồng dược liệu ................................................................ 109
Bảng 3.7: Quy mô phát triển cây trồng dược liệu tại các tỉnh khảo sát .................. 115
Bảng 3.8: Biến đổi về cơ cấu cây trồng dược liệu .................................................. 117
Bảng 3.9: Hiệu quả các hộ và doanh nghiệp trồng cây dược liệu ........................... 118
Bảng 3.10: Đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố đến đến vai trò nhà nước trong
phát triển cây dược liệu ......................................................................... 121
Bảng 3.11: Những khó khăn của các hộ trồng cây dược liệu trong tiếp cận nguồn lực . 126

Bảng 4.1: Dự báo một số chỉ tiêu phát triển cây trồng dược liệu............................ 131
Bảng 4.2: Thứ tự mức độ ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện chính sách phát triển trồng
cây dược liệu trên địa bàn những năm tới .............................................. 137


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Số liệu số đăng ký cấp mới qua các năm 2011-2016 ............................. 84
Biểu đồ 3.2: Số lượng các dạng bào chế được cấp đăng ký giai đoạn 2010-2016 ...... 85
Biểu đồ 3.3: Đánh giá tác động của Quản lý nhà nước đến phát triển cây trồng dược
liệu qua điều tra khảo sát. ................................................................... 114
Biểu đồ 4.1: Tỉ lệ dân số dùng dược liệu một số nước trên thế giới ......................... 133


1

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết và tổng quan nghiên cứu của chủ đề luận án
1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu của chủ đề luận án
Việt Nam là quốc gia có sự đa dạng của khí hậu, thổ nhưỡng nên các loại cây
con có thể làm thuốc được phân bố rộng khắp trên cả nước, vùng phân bố chịu nhiều
ảnh hưởng yếu tố khí hậu và đặc tính sinh trưởng phát triển của các loài cây thuốc. Tập
trung nhiều nhất vẫn là nơi có địa hình núi cao, nơi tập trung nhiều quần thể rừng (khu
vực miền núi phía Bắc; các tỉnh đồng bằng sông Hồng, phía tây các tỉnh Nghệ An,
Thanh Hóa, ...; Các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng, An Giang; ...).
Theo kết quả điều tra đến năm 2016 Việt Nam đã ghi nhận được trên 5000 loài
cây thuốc và nấm làm thuốc, trong đó có khoảng 70 loài có tiềm năng khai thác và
phát triển trồng tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc phục vụ nhu cầu sử dụng trong nước
và hướng tới xuất khẩu với trữ lượng ước tính là 18.372 tấn / năm. Trong đó, 45/70
loài/nhóm loài có tiềm năng khai thác lớn, như: Diếp cá (5.000 tấn), Cẩu tích (1.500
tấn), Lạc tiên (1.500 tấn), Rau đắng đất (1.500 tấn), Ngũ gia bì chân chim (1.000 tấn),

Thiên niên kiện, Bọ mắm khô (1.000 tấn), Bình vôi (800 tấn), Râu hùm (500 tấn), Cỏ
xước (500 tấn), Kê huyết đằng (500 tấn), Thiên niên kiện (500 tấn), Ngải cứu dại (300
tấn), Câu đằng (300 tấn), Bách bộ (200 tấn), Hà thủ ô trắng (200 tấn), Hy thiêm (200
tấn), Sa nhân (200 tấn), Tắc kè đá (200 tấn)… (Cục Y Dược cổ truyền, 2017)
Trong đó các loài cây thuốc đã biết, chỉ có hơn 500 loài là cây thuốc đã được
trồng với các mức độ khác nhau, nhiều loài là cây lương thực, thực phẩm, gia vị làm
thuốc. Trên thực tế, hiện có khoảng 92 loài cây dược liệu được trồng phục vụ nhu cầu
thị trường, một số loài đã và đang có vùng trồng lớn, như: Hồi, Quế, Hòe, Actiso,
Thanh hao hoa vàng, Đinh lăng, Kim tiền thảo, Diệp hạ châu, Trinh nữ hoàng cung,
Gấc, Nghệ, Bụp giấm. Diện tích trồng và sản lượng của một số dược liệu đã tăng lên
khá nhiều nhằm đáp ứng như cầu dược liệu.
Mặc dù có khả năng trồng nhiều loại dược liệu nhưng do cách làm manh mún,
tự phát, thiếu liên kết và thị trường dược liệu không ổn định nên việc trồng cây dược
liệu gặp nhiều khó khăn. Việc kiểm soát chặt chẽ chất lượng dược liệu lưu hành, kiểm
soát chặt chẽ dược liệu không rõ nguồn gốc, xuất xứ, dược liệu nhập lậu là giải pháp
trực tiếp giúp cho dược liệu nuôi trồng, khai thác trong nước phát triển, chiếm lĩnh
được thị trường.


2
Những năm qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm phát triển cây trồng
dược liệu như; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học theo định hướng ứng dụng
các kết quả nghiên cứu, tạo sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường; xây dựng các vùng
trồng dược liệu nhằm phát triển kinh tế xã hội; bảo tồn, lưu giữ nguồn gen dược liệu
và tri thức bản địa. Các chương trình cấp nhà nước và những nhiệm vụ nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và công nghệ của các cấp trong công tác bảo tồn và sử dụng bền vững
nguồn gen và phát triển cây trồng dược liệu từ các nguồn vốn khác đã được triển khai
nhằm nâng cao kỹ thuật trồng trọt, phát triển, khôi phục và thuần hóa các giống cây
dược liệu bản địa, xây dựng quy trình sản xuất giống và tiêu chuẩn giống, quy trình kỹ
thuật ứng dụng và triển khai chuyển giao công nghệ ở các địa phương, nâng cao kỹ thuật

kiểm nghiệm, kiểm tra chất lượng dược liệu, xây dựng được bộ dữ liệu về dấu vân tay
hóa học của dược liệu ,….Mặc dù vậy, nhưng đến nay nguồn dược liệu của nước ta
mới đáp ứng được khoảng 25%, số còn lại phụ thuộc vào nguồn dược liệu ở nước
ngoài với khoảng 75% nhu cầu cần thiết là nhập khẩu từ Trung quốc, Ấn Độ và một số
nước khác (Cục Y Dược cổ truyền, 2017).
Có nhiều nguyên nhân hạn chế đến sự khai thác tiềm năng để phát triển nuôi,
trồng dược liệu ở nước ta, trong đó có nguyên nhân từ vai trò nhà nước trong phát triển
cây trồng dược liệu.
Những năm qua, mặc dù nhà nước có chủ trương đúng đắn, đã ban hành luật
Dược năm 2005 và sửa đổi đã được Quốc hội thông qua ngày 06 tháng 04 năm 2016
và trong Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 08/09/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật dược, trong đó có đoạn: “Phát triển ngành dược
thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, ưu tiên phát triển công nghiệp dược...”.
Riêng với việc phát triển nuôi, trồng dược liệu cũng có rất nhiều quyết định của Đảng
và Nhà nước, kể từ Nghị định đến các thông tư, các quyết định của Chính phủ và các
bộ ngành có liên quan được ban hành, đã tạo khung chính sách để phát triển nuôi,
trồng dược liệu.
Tuy nhiên, những chính sách này còn nhiều bất cập trong thực tiễn, kể từ hệ
thống các chính sách, đến tổ chức quản lý và kiểm tra giám sát phát triển cây trồng
dược liệu. Điều dễ thấy nhất là tình trạng phân công phân cấp và phối hợp trong quản
lý phát triển cây trồng dược liệu còn trùng chéo; công tác kiểm tra, giá, sát thực hiện
quy hoạch, kế hoạch nhiều lúc nhiều nơi, nhiều địa phương còn buông lỏng …Trước
thực trạng đó, việc nghiên cứu chủ đề: “Vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng
dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam” là có ý nghĩa thiết thực cả về
lý luận và thực tiễn.


3

1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với phát

triển cây trồng dược liệu
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về phát triển cây trồng dược liệu
Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện về ngành dược, những
chính sách phát triển ngành dược, vai trò của chính phủ trong chế biến dược liệu, công
nghệ sinh học thể hiện trong các nghiên cứu của Edward.B.Barbier (1996), Micheal
(1994), của Han Joong Kima và cộng sự (2004)… Trong những nghiên cứu này, các
tác giả phân tích thực trạng phát triển của ngành công nghiệp dược phẩm ở các quốc
gia đang phát triển, chỉ ra những lợi ích đạt được nếu phát triển nguồn dược phẩm tự
nhiên ( Edward (1996) phân tích những chính sách về dược phẩm đã áp dụng ở
Bangladesh – những thất bại và thành công của chính sách này (Micheal (1994)) ,
chính sách ở Hàn Quốc (Han Joong Kima và cộng sự (2004) để từ đó đưa ra những
khuyến nghị cho các nước đang phát triển về những chính sách liên quan đến ngành
công nghiệp dược này.
Đối với ngành công nghiệp dược phẩm, có những nghiên cứu khác nhau về lĩnh
vực này, các nghiên cứu đang chủ yếu khai thác tới khía cạnh chính sách phát triển
ngành dược phẩm, chủ yếu nghiên cứu tại các nước đang phát triển. Một số nghiên cứu
điển hình được thực hiện như nghiên cứu về sự thận trọng với các chính sách dược liệu
ở Bangladesh- từ đó đưa ra những khuyến nghị cho các nước đang phát triển khi đưa
ra bất cứ chính sách nào liên quan đến ngành ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của
người dân này của Micheal R Reich (1994). Nghiên cứu đã phân tích chính sách về
dược phẩm ở Bangladesh trong hai giai đoạn: những năm 1980 và những năm 1990.
Khi phân tích về chính sách liên quan đến dược phẩm của Bangladesh năm 1982, tác
giả đã chỉ ra rằng việc chính phủ thay đổi chính sách công theo hướng không thuận lợi
cho các tập đoàn đa quốc gia- những tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp
dược phẩm này có ảnh hưởng rất xấu đến thị trường dược phẩm của quốc gia. Trong
khi sự thất bại trọng việc cải cách chính sách y tế của năm 1990 cho thấy rằng những
cải cách bất lợi cho nhóm doanh nghiệp trong nước có thể làm sụp đổ chính sách của
chính phủ. Những phân tích về chính sách liên quan đến ngành công nghiệp dược
phẩm này cho thấy những cải cách chính sách y tế quan trọng ở các nước đang phát
triển phụ thuộc vào điều kiện chính trị cả trong và ngoài nước. Phương pháp nghiên

cứu được sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp diễn dịch kết quả thông qua
việc phân tích chính sách, xác định những hạn chế và nguyên nhân, đưa ra giải pháp và
khuyến nghị cho bản thân quốc gia được phân tích chính sách nói riêng và các nước
đang phát triển nói chung. Một chính sách khác liên quan đến dược phẩm và y tế đã


4
đươc phân tích tại Hàn Quốc trong nghiên cứu của Han Joong Kima và cộng sự
(2004). Trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra những cải cách trong ngành y tế của
đất nước Hàn Quốc và phân tích điển hình một chính sách ở quốc gia này. Chính sách
được tác giả lựa chọn là chính sách ma túy được thực hiện những năm 2000. Chính
sách này đã gặp phải những lời chỉ trích và phản đối, thậm chí là các cuộc đình công
của các bác sĩ đã xảy ra do những vấn đề bất hợp lý của chính sách. Dựa vào việc phân
tích những chính sách này, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp các quốc gia
có thể tránh những bất ổn liên quan đến chính sách y tế, chính sách dược phẩm ở mỗi
quốc gia. Trong những nghiên cứu này có điểm chung là việc xuất phát từ phân tích
những chính sách- cụ thể hơn là những chính sách khi thực hiện đã bị thất bại, để từ đó
đưa ra những khuyến nghị và gợi ý cho các quốc gia- cụ thể là các quốc gia đang phát
triển khi thực hiện các chính sách liên quan đến dược phẩm, y tế.
Việc nghiên cứu về phát triển nguồn dược liệu ở nước ta còn khá hạn chế, một số
nghiên cứu đã được thực hiện nhưng những nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở việc phản ánh
thực trạng nguồn dược liệu trên cả nước thể hiện qua các báo cáo tổng kết hàng năm của
các địa phương và của Bộ Y tế. Một số nghiên cứu đã được thực hiện về phát triển riêng
lẻ từng loại cây thuốc và chiến lược phát triển loại cây thuốc cũng như tìm kiếm thị
trường cho các loại cây thuốc đó như nghiên cứu của Phạm Hồng Hải (2013),
David.L.Martin (2000), Võ Hồng Thi và cộng sự (2012). Cùng với đó là một số nghiên
cứu về vai trò của nhà nước với các lĩnh vực khác nhau như vai trò của nhà nước với
tăng trưởng kinh tế Vũ Hải Nam ( 2014), Vai trò của nhà nước trong quy hoạch và phát
triển các khu công nghiệp Đặng Xuân Phong ( 2012)… Cụ thể, các nghiên cứu được
thực hiện đã khai thác các khía cạnh khác nhau của lĩnh vực dược liệu, một số nghiên

cứu thực hiện theo hướng nghiên cứu về giải pháp phát triển cây dược liệu, thực trạng
phát triển cây trồng dược liệu ở các địa phương khác nhau… Tuy nhiên, những nghiên
cứu về lĩnh vực này còn khá hạn chế và đang dừng lại phần lớn là mô tả thực trạng, xác
định nguyên nhân và đưa ra các khuyến nghị cụ thể cho từng địa phương.
a. Về nội dung phạm trù phát triển cây trồng dược liệu
Về phạm trù phát triển cây trồng dược liệu, một số nghiên cứu đã thực hiện theo
hướng phân tích thực trạng phát triển cây dược liệu của các địa phương, hay chỉ ra sự
cần thiết phải bảo tồn và phát triển cây dược liệu thông qua phân tích thực trạng nhu
cầu sử dụng cũng như thực trạng cây dược liệu…. Cụ thể, nghiên cứu của Trương Việt
Bình (2013), Trần Thế Hùng và Đinh Thị Lệ Giang (2014)… Trong nghiên cứu Thực
trạng và giá trị sử dụng nguồn cây dược liệu tại xã Quy Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh
Quảng Bình, nhóm tác giả đã tiến hành điều tra thực địa để xác định thực trạng cây


5
dược liệu tại khu vực nhóm tác giả nghiên cứu, với 50 hộ gia đình được nhóm tác giả
lựa chọn phỏng vấn để thu thập dữ liệu, cùng với việc phỏng vấn chuyên gia và các
nhà đông y hoạt động trên địa bàn để thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu. Kết quả
phân tích của nghiên cứu đã chỉ rõ vai trò cụ thể của nguồn dược liệu trong cuộc sống
của người dân địa phương, đồng thời tác giả cũng đã phân tích rõ thực trạng phát triển
cây dược liệu tại Huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình . Với kết quả nghiên cứu đó, tác
giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển cây dược liệu tại địa phương, góp
phần đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân bản địa, cũng như xác định phương
hướng biến cây dược liệu thành phương thức sinh kế mới cho người dân địa phương.
Trong những giải pháp mà nhóm nghiên cứu đưa ra, nhóm nhấn mạnh tới giải pháp:
địa phương cần kết hợp với các các hộ gia đình xây dựng các mô hình vườn bảo tồn có
thể kinh doanh sản phẩm dược liệu, và có thể coi đây là phương pháp bảo tồn khả thi.
Như vậy, các hộ nông dân trồng cây dược liệu trong vườn nhà hay trong vườn rừng
vừa hỗ trợ bảo tồn nguồn gen cây thuộc, vừa tạo thu nhập, nâng cao đời sống cho
người dân địa phương. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tổ chức các lớp tập

huấn cho các hộ đang sản xuất và kinh doanh về dược liệu, hướng dẫn cách chế biến,
bảo quản, thu hái để phát triển hơn nữa việc trồng dược liệu tại địa phương. Như vậy,
không thể không nhắc đến vai trò của nhà nước với sự phát triển của cây dược liệu tại
các địa phương . Hay như trong nghiên cứu của Trương Việt Bình (2015), tác giả cũng
đã xác định vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của bảo tồn và phát triển dược liệu, và
nhấn mạnh vấn đề này đang trở thành vấn đề cấp thiết do tình trạng phụ thuộc nguồn
dược liệu của nước ta từ nguồn nhập từ bên ngoài trong khi tiềm năng phát triển dược
liệu của nước ta là vô cùng lớn. Trong nghiên cứu tác giả cũng chỉ ra việc phát triển
lệch về cây trồng dược liệu ở nước ta hiện nay, khi quá coi trọng phát triển các cây
thuốc có giá trị cao mà bỏ qua các thuốc nam chữa bệnh thông thường, chính điều này
đã làm tốn kém và lãng phí, điều quan trọng là không đáp ứng được yêu cầu bảo tồn
nguồn dược liệu ở nước ta. Trong nghiên cứu tác giả cũng đã chỉ ra thực trạng phát
triển cây trồng dược liệu, các chế phẩm từ cây dược liệu được sử dụng ở các địa
phương,cụ thể địa phương được lựa chọn nghiên cứu là Lào Cai, nghiên cứu này cũng
cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Hoàng Thị Hường (2012) về thực trạng phát
triển và sử dụng dược liệu tại Sapa- Lào Cai. Với nghiên cứu này, tác giả cũng đã
hướng đến vấn đề thực trạng bảo tồn nguồn thuốc nam ở nước ta, xây dựng định
hướng và một số khuyến nghị nhằm bảo tồn nguồn thuốc nam này tại các địa phương,
một số khuyến nghị được tác giả đưa ra để phát triển cây dược liệu: cần chú trọng bảo
tồn nguyên vị, bảo tồn nguồn gen và giống cây thuốc Việt Nam có sự tham gia của toàn
xã hội chứ không nên chỉ coi là nhiệm vụ của ngành dược và tạm thời chưa chú trọng


6
đến tính lợi nhuận trong vấn đề bảo tồn nguồn dược liệu. Thêm vào đó, để có thể bảo
tồn và phát triển nguồn dược liệu cần đánh giá thực trạng một cách chính xác phát triển
dược liệu ở các địa phương, từ đó hoạch định chính sách, kế hoạch bảo tồn và khôi phục
các nguồn cây, con dược liệu, đặc biệt những loại đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Trong khi đó, theo Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030 (2013) của Chính phủ, đã chỉ rõ, Việt Nam sẽ có 8 vùng

trồng nguyên liệu trên cả nước để trồng 54 loài dược liệu, lựa chọn và khai thác hợp lý
24 loài dược liệu tự nhiên. Hiện nay, trên cả nước đã có một số trung tâm được gây
dựng để thu thập và bảo tồn các loại dược liệu của Việt Nam như Vườn cây thuốc Yên
Tử (Do ĐH Dược Hà Nội phối hợp cùng các đơn vị sở tại tổ chức), ra đời từ năm
2012, sau hơn một năm hoạt động đã sưu tập, bảo tồn được hơn 500 loài dược liệu,
diện tích trên 5 ha, 512 loài cây thuốc được thu thập từ 14 tỉnh phía Bắc, là vườn thực
vật, vườn cây thuốc lớn nhất ở Việt Nam. Một đơn vị khác là Trung tâm nghiên cứu
trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội (thuộc quản lý của Viện Dược liệu - Bộ Y tế), là
một trong ba đơn vị có vườn thuốc lớn nhất cả nước, đang lưu giữ gần 400 cây thuốc
từ những thuốc di thực nhập nội, các cây thuốc nguyên sinh của các tỉnh đưa về và các
giống cây thuốc từ Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản.
Tác giả Trần Công Kỷ (2005) trong nghiên cứu của mình về “Một số giải pháp
chiến lược nhằm phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam đến năm 2010” đã đề
cập đến phạm vi sản xuất thuốc với quy mô công nghiệp nhưng không đề cập đến thuốc
y học cổ truyền và việc quy hoạch, phát triển nguồn nguyên liệu cho ngành dược liệu
Việt Nam. Nội dung luận án chỉ đánh giá thực trạng ngành công nghiệp Dược Việt Nam
và tham khảo kinh nghiệm của các nước và từ đó đề xuất các giải pháp có tính chiến
lược nhằm phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam đến năm 2010.
Trong nghiên cứu về cây trồng dược liệu của VCBS (2008), nghiên cứu đã chỉ
rõ trong Y học Việt Nam, thuốc đông y đóng vai trò quan trọng trong đời sống sinh
hoạt hàng ngày, thuốc đông y được sử dụng lâu đời và rộng rãi. Tuy nhiên theo thống
kê, đông dược chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ từ 0,5%- 1% giá trị thuốc sử dụng hàng
năm. Số liệu thống kê về giá trị sử dụng cũng như nhu cầu sử dụng của đông dược là
kém chính xác khi lĩnh vực này hầu như chưa được quản lý chặt chẽ . Do vậy trên số
liệu thực tế còn cao hơn nhiều. Trong thói quen sử dụng đông dược của người Việt
Nam, thuốc Bắc (nguyên liệu là các thảo dược bắt nguồn từ Trung Quốc) được tin
dùng rộng rãi nhất . Điều này được phản ánh qua việc 85% nguyên liệu chế biến đông
dược được nhập từ Trung Quốc với kim ngạch nhập khẩu trung bình 1 triệu USD/
năm. Hiện nay, Việt Nam đã trồng được một số dược liệu nhưng giá trị cũng như khối



7
lượng không đáng kể, hệ thống sản xuất, phân phối thuốc đông dược rộng lớn và
không được kiểm soát đầy đủ . Do đặc trưng của thuốc đông dược chế biến không đòi
hỏi công nghệ cao nên thuốc đông dược được sản xuất và phân phối bởi các nhà máy
lớn cũng như các cơ sở tư nhân nhỏ lẻ. Theo thống kê sơ bộ, cả nước có 45 Viện y học
dân tộc, 242 Bệnh viện đa khoa, 4000 tổ chẩn trị, 10.000 cơ sở Y dược học cổ truyền.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có sản phẩm thuốc đông dược của Việt Nam đăng ký tiêu
chuẩn GMP-WHO. Điều này cho thấy các cơ sở sản xuất thuốc đông dược đạt tiêu
chuẩn còn rất thiếu, thị trường đông dược rất cần một sự chuẩn hóa . Tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh trong thời gian gần đây làm tăng thu nhập cá nhân là nguyên
nhân làm gia tăng nhu cầu sử dung đông dược. Người Việt Nam sử dụng đông dược
không chỉ để chữa bệnh mà còn để bồi bổ sức khỏe và phần lớn cho rằng sử dụng đông
dược lâu dài có lợi chứ không có hại như Tây y. Chính vì vậy, tiềm năng cho đông
dược nhất là đông dược chất lượng cao rất lớn
Một số công trình nghiên cứu lại khai thác khía cạnh khác của phát triển cây
dược liệu đó là hiệu quả phát triển cây trồng dược liệu . Tại Hội nghị xúc tiến đầu tư
ứng dụng khoa học công nghệ phát triển sản xuất thuốc dược liệu trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh năm 2014, Trương Quốc Cường - Cục trưởng Cục Quản lý Dược - Bộ Y
tế, với bài tham luận “Đưa dược liệu trở thành thế mạnh của ngành dược Việt Nam”
cho rằng: “Theo thống kê, trong năm 2012, doanh thu sản xuất thuốc từ dược liệu tại
Việt Nam đạt 3.500 tỷ đồng (gấp hơn 1,75 lần so với doanh thu năm 2010). Trong số
20 loại dược liệu có nhu cầu dùng cho sản xuất thuốc lớn nhất năm 2011, Artiso đứng
đầu danh sách với số lượng tiêu thụ lên tới 2000 tấn/năm, tiếp theo là Đinh lăng với
hơn 900 tấn/năm…Như vậy, có thể nói dược liệu chính là nguồn nguyên liệu của nền
công nghiệp tân dược trong tương lai, chứ không phải là nguồn nguyên liệu hóa dược
mà chúng ta đang mất nhiều thời gian và công sức để theo đuổi trong nhiều năm qua”.
Mặc dù có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về hiệu quả kinh tế cây dược
liệu tại Việt Nam, tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu ở quy mô hẹp, do các Viện nghiên
cứu hoặc các địa phương thực hiện trên địa bàn của mình, và các nghiên cứu cũng

chưa thực sự chuyên sâu, chưa được mô hình hóa với các con số cụ thể, mà đơn thuần
chỉ ở dạng thống kê.
Theo nghiên cứu của Viện dược liệu Trung ương, cây dược liệu trồng tại Tam
Đảo phát triển tốt, thích nghi với điều kiện khí hậu thời tiết và có hàm lượng vật chất
khô tương đối cao, chất lượng dược liệu tốt. Đánh giá hiệu quả kinh tế từ mô hình cho
thấy, sau một năm trồng, cây đã cho thu hoạch đạt năng suất, chất lượng tương đối
cao. Các hộ dân trồng cây dược liệu đều được Bệnh viện y học cổ truyền tỉnh Vĩnh


8
Phúc ký hợp đồng thu mua toàn bộ. Với cây lá lốt, trong điều kiện vườn có độ râm mát
cao, ẩm độ tốt, sau 4 tháng trồng cây phát triển tốt, đẻ nhánh nhiều, chiều cao cây từ
40-50 cm, ngăn chặn cỏ dại trong vườn, đất không bị rửa trôi, sau khi trừ chi phí lợi
nhuận thu được đạt 72,5 triệu/ha/năm với 5 lượt thu hoạch. Với cây lạc tiên, phù hợp
trồng tại những nơi có độ ẩm cao, dễ thoát nước và có độ che phủ dày, cho lợi nhuận
xấp xỉ 55,5 triệu/ha/năm. Với cây kim tiền thảo, thích hợp trồng dưới tán vườn có độ
che phủ vừa phải nhằm tăng cường quá trình quang hợp cho lợi nhuận khoảng 50
triệu/ha/năm.
Theo tác giả Phùng Hà (2014), trong nghiên cứu của mình về “ Trồng và chế
biến dược liệu tại Hà Giang gắn với xóa đói giảm nghèo và góp phần phát triển ngành
công nghiệp hóa dược Việt Nam” nhận định: Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát
triển đa dạng các loại dược liệu, với trên 1000 loại trong tổng số gần 4000 loại được
phát triển và nuôi trồng tại Việt Nam, Hà Giang có tiềm năng phát triển trồng và chế
biến cây dược liệu như một thế mạnh nhằm tăng doanh thu, cải thiện đời sống của bà
con địa phương, giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn người lao động thường
xuyên và lao động thời vụ. Dược liệu là tài nguyên di truyền - tài nguyên tái tạo, dùng
thế mạnh dược liệu đẩy mạnh công nghiệp hóa dược và công nghiệp dược trở thành
ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, làm cho nhân dân ta có đủ thuốc tốt, khỏe mạnh và
giàu có, làm cho các vùng kinh tế còn khó khăn, tiến và đuổi kịp các vùng khác trong
cả nước.

Bên cạnh những nghiên cứu về thực trạng, hiệu quả phát triển cây trồng dược
liệu, một số nghiên cứu đã khai thác khía cạnh khác đi của phát triển cây dược liệu, đó
là việc xác định và phân tích các điệu kiện phát triển cây dược liệu. Cụ thể:
b. Các nghiên cứu liên quan đến điều kiện phát triển cây trồng dược liệu
Trong Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030 của Bộ Y tế
(2013) đã đánh giá thực trạng và xác định rõ các phân vùng nuôi trồng dược liệu
truyền thống như của nước ta như sau:
Vùng dược liệu Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu): Là vùng có điều
kiện tự nhiên thích hợp với các loại dược liệu ôn đới, là vùng trồng và nhân giống các
dược liệu đặc hữu: thảo quả, vân mộc hương, đương qui, bạch truật, hoàng bá... Tuy
nhiên những năm qua, nguồn dược liệu từ Trung Quốc nhập khẩu về nhiều với giá rẻ
hơn dược liệu sản xuất trong nước, vì vậy, một số cây thuốc như Đương qui, Bạch
truật, Đỗ trọng, Xuyên khung, Độc hoạt... chỉ có thể phát triển ở mức độ vừa phải kể
cả những cây thuốc có nhu cầu lớn như lão quan thảo, hoàng bá, đương qui (giống


9
Nhật Bản), cũng chưa được phát triển theo yêu cầu. Tuy nhiên, Sa Pa vẫn là vùng giữ
được các cây dược liệu quí cho tương lai.
Vùng dược liệu thuộc các tỉnh vùng núi phía Bắc: Trong vùng có các tiểu vùng
với các đặc trưng khí hậu khác nhau để trồng một số loài cây thuốc khác nhau như Tam
thất ở Thông Nông và Hà Quảng (Cao Bằng); Ba kích ở Hoành Bồ (Quảng Ninh), Đoan
Hùng (Phú Thọ); Huyền sâm, Đương quy ở Đà Bắc (Hòa Bình); Địa liền và Hoài Sơn ở
Hoành Bồ (Quảng Ninh), Kỳ Sơn (Hòa Bình); Ý dĩ ở Mộc Châu (Sơn La)…
Vùng dược liệu các tỉnh đồng bằng Sông Hồng: Đây là vùng hiện vẫn duy trì ở
mức vừa phải diện tích trồng cây dược liệu như Văn Giang (Hưng Yên); Gia Lộc,
Vĩnh Trụ (Hải Dương). Các cây thuốc nam truyền thống đang được trồng ở đây như:
Cúc hoa, Mã đề, Kinh giới, Tía tô, Hoắc hương, Nga truật, Nghệ, Đinh lăng, Cốt khí
củ, Húng quế…. Bên cạnh đó vùng này cũng đang trồng một số cây thuốc nhập nội
như: Ngưu tất, Đương quy, Bạch chỉ, Bạc hà, Thanh cao (Vĩnh Phúc và ngoại thành

Hà Nội), Hoài sơn, Sắn dây....
Vùng dược liệu Đà Lạt: Có điều kiện khí hậu cận nhiệt đới, đã từng trồng sản
xuất một số loài cây thuốc di thực, nay còn Artisô với vài chục ha và hiện đang sản
xuất thử nghiệm: Thông đỏ, Đảng sâm, Kim ngân…
Vùng dược liệu đồng bằng Sông Cửu Long: Ngoài cây Tràm mọc tự nhiên,
vùng này còn trồng một số cây thuốc như: Đu đủ (lấy lá), Trinh nữ hoàng cung, Bạc
hà, Xuyên tâm liên, Râu mèo, Hoắc hương nhưng diện tích không lớn.
Thực hiện Đề án của Chính phủ, đến nay nhiều địa phương trong các khu vực
được quy hoạch đã triển khai hoạt động dựa vào các điều kiện thuận lợi về tự nhiên xã
hội của mình. Năm 2011, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã phê duyệt Dự án “Xây
dựng mô hình kinh tế hộ trồng một số loại cây dược liệu tại Sa Pa - Lào Cai” để thúc
đẩy và duy trì một cách bền vững nghề trồng cây thuốc tại Sa Pa. Trạm Nghiên cứu
trồng cây thuốc Sa Pa được lựa chọn là cơ quan Chủ trì thực hiện nghiên cứu và Đinh
Văn Mỵ là chủ nhiệm Dự án nhằm phát triển nguồn dược liệu của Sapa.
Để phục vụ cho nuôi trồng dược liệu đạt kết quả tốt các vấn đề cơ bản liên quan
đến cơ sở hạ tầng cần giải quyết đó là: giao thông đi lại, hệ thống các nhà cung cấp
nguyên liệu đầu vào như cây giống, phân bón, vật tư, các tổ chức nghiên cứu sản xuất
nuôi trồng dược liệu chuyên nghiệp… Về giao thông, hiện nay việc nền tảng giao thông
tại các được phương được quy hoạch vùng dược liệu cơ bản đạt yêu cầu, đi lại thuận tiện,
việc vận chuyển nguyên vật liệu, phân bón, thành phẩm không gặp nhiều khó khăn.


10
Đối với mạng lưới cung cấp vật tư nông nghiệp, hiện nay mỗi tỉnh đều có các
đơn vị chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực cung cấp vật tư nông nghiệp, phân bón,
giống cây trồng…do vậy, đảm bảo các yếu tố đầu vào này cho các hộ nông dân không
gặp nhiều khó khăn.
Về các công ty, tổ chức, cơ sở hoạt động sản xuất nuôi trồng dược liệu, theo
thống kê của Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, hiện nay, nhiều
địa phương, công ty kinh doanh, các đơn vị nghiên cứu đã trực tiếp đầu tư xây dựng

vùng trồng một số loài cây thuốc để tạo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất như:
Tỉnh Kon Tum và Quảng Nam đầu tư phát triển Sâm ngọc linh; quy hoạch vùng trồng
tràm (Melaleuca anternifolia) để chưng cất tinh dầu của Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn
và phát triển dược liệu Đồng Tháp Mười; nghiên cứu xây dựng qui trình trồng cây
thuốc theo tiêu chuẩn GAP-WHO 5 loài cây thuốc Đương qui, Artisô, Ngưu tất, Cúc
hoa, Bạch chỉ của Viện dược liệu; xây dựng vùng trồng Bạc hà Nhật bản tại Hưng Yên
và Nam Định của Công ty cổ phần dược Mediplantex; xây dựng vùng trồng Kim tiền
thảo tại Bắc Giang của Công ty OPC; xây dựng vùng trồng Artisô và Chè dây tại Sa
Pa-Lào Cai, trồng Đinh lăng tại Hưng Yên của Công ty Traphaco; xây dựng vùng
nguyên liệu Trinh nữ hoàng cung của Công ty Thiên Dược; trồng Lô hội, Diệp hạ
châu, Râu mèo ở Phú Yên của Trung tâm phát triển dược liệu Nam Trung Bộ; trồng
Bụp giấm, Dừa cạn, Diệp hạ châu ở Bình Thuận, Ninh Thuận...
Đối với ngành công nghiệp dược phẩm, có những nghiên cứu khác nhau về lĩnh
vực này, các nghiên cứu đang chủ yếu khai thác tới khía cạnh chính sách phát triển
ngành dược phẩm, chủ yếu nghiên cứu tại các nước đang phát triển.
Nhà nghiên cứu Edward (1996) đã chỉ ra những giá trị có được từ quá trình đa
dạng sinh học trong quá trình phát triển ngành công nghiệp dược phẩm ở các nước
đang phát triển . Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ rõ việc bảo tồn đa dạng
sinh học được định nghĩa là một quá trình gồm ba thành phần - tiết kiệm, nghiên cứu
và sử dụng bền vững đa dạng sinh học. Nghiên cứu đã tập trung vào những nỗ lực
trong một đất nước đang phát triển để nắm bắt được tiềm năng dược phẩm của quốc
gia, thông qua việc tìm kiếm, bảo tồn và phát triển các cây, con- là nguồn dược liệu.
Nguồn dữ liệu được thu thập từ Costa Rica về các thông tin liên quan đến nguồn dược
liệu. Kết quả cho thấy rằng việc bảo vệ đa dạng sinh học sẽ mang đến lợi ích cho các
quốc gia. Nghiên cứu đã chỉ ra một giải pháp mới cho phát triển nguồn dược liệu cho
các quốc gia đang phát triển- hướng đi tạo ra giá trị mới. Tuy nhiên, nghiên cứu mới
chỉ đề cập đến phương diện đa dạng hóa các loài, cây- là nguồn nguyên liệu, bảo tồn
nguồn nguyên liệu tự nhiên ở các quốc gia, mà nghiên cứu chưa đề cập đến nguồn



11
nguyên liệu mới- nguyên liệu được trồng mới từ các doanh nghiệp, hộ gia đình. Thực
tế cho thấy, nguồn nguyên liệu tự nhiên rất khó có thể bảo tồn và sử dụng lâu dài, việc
tìm hướng đi- từ phát triển nguồn nguyên liệu nhờ vào quá trình nuôi trồng – quá trình
sử dụng bàn tay con người- “nhân tạo” ra nguồn nguyên liệu cho quá trình phát triển
nguồn dược liệu ở mỗi quốc gia là việc làm cần thiết.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Hoàng Hiếu Tri (2014), đã phần nào hệ
thống lại khái quát con đường phát triển cua ngành công nghiệp dược phẩm Việt Nam.
Tác giả đã chỉ ra: Hiện nay, nhu cầu sử dụng các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng và các
thuốc thay thế (dùng để điều trị cùng 1 loại bệnh) đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho các
nhà sản xuất đến sau và làm gia tăng mức độ cạnh tranh trong ngành. Tác giả cũng đưa
ra nhận định: Hướng về tương lai, các nguyên liệu sản xuất dược phẩm có nguồn gốc
từ thiên nhiên và chiết xuất từ thực vật đang nổi lên như một trào lưu mới nhằm tạo ra
các loại thuốc mới thân thiện với sức khỏe con người và ít tác dụng phụ hơn. Tóm lại,
xu hướng phát triển chung của ngành dược phẩm là không ngừng tìm kiếm các loại
thuốc điều trị các căn bệnh mới và các căn bệnh ác tính hiện hữu. Hiệu quả của thuốc
và mức độ thân thiện với con người ngày càng được chú trọng .
Trong nhiều năm qua, nền nông nghiệp Việt Nam nói chung vẫn giữ lối sản
xuất nhỏ, chưa có bước đột phá công nghiệp hóa nông nghiệp rõ rệt. Đối với riêng hoạt
động nuôi trồng dược liệu, theo nhận định của Đề án phát triển dược liệu đến năm
2020 tầm nhìn 2030, việc nuôi trồng dược liệu, thu hoạch còn manh mún, tự phát theo
hướng tự cung tự cấp chưa có công ty chuyên sản xuất kinh doanh dược liệu nên chưa
có vùng nguyên liệu với diện tích lớn. Nghiên cứu khoa học công nghệ chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn (giống cây thuốc không chuẩn, thoái hóa, năng suất dược liệu
trồng trong nước còn thấp); Tình hình quản lý chất lượng dược liệu còn rất nhiều tồn
tại . Việc trồng trọt dược liệu trong nước phát triển tự phát, không có quy hoạch, nhiều
cơ sở trồng trọt còn sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật không đúng qui định làm
ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu; Ngoài ra, quá trình bảo quản dược liệu cũng ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng dược liệu.
Vấn đề tồn tại cơ bản đối với các hộ gia đình nuôi trồng dược liệu là: thiếu vốn

đầu tư, thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật, và giải quyết đầu ra cho sản phẩm.
Đối với các tổ chức, trang trại, công ty nuôi trồng dược liệu thì các rào cản là:
Vốn, công nghệ nuôi trồng, thị trường tiêu thụ, các chính sách hỗ trợ và khuyến khích
sản xuất nuôi trồng dược liệu từ phía Nhà nước.
Từ năm 1988, Viện dược liệu đã được Ủy ban KHKT Nhà nước (nay là Bộ
KH&CN) giao nhiệm vụ là đầu mối thực hiện công tác Bảo tồn nguồn gen và giống cây


12
thuốc Việt Nam. Công tác bảo tồn, khai thác, và phát triển nguồn cây thuốc đã được nhiều
cơ quan trong và ngoài ngành Y tế tham gia thực hiện như: Viện Dược liệu, Trường Đại
học Dược Hà Nội, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện điều tra quy hoạch rừng,
Viện Khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Quân Y, Bệnh
viện Y học cổ truyền quân đội... Sau hơn 20 năm thực hiện, công tác bảo tồn, khai thác và
phát triển nguồn cây thuốc đã đạt được những kết quả nhất định .
Một số nghiên cứu xem xét ý nghĩa của việc phát triển cây trồng dược liệu
trong phát triển kinh tế xã hội, cụ thể:
c. Một số nghiên cứu về ý nghĩa của phát triển cây trồng dược liệu trong phát triển
kinh tế - xã hội
Theo nghiên cứu của tác giả Hoàng Hiếu Trí (2014), về Chuỗi giá trị ngành dược
thì nuôi trồng dược liệu trong thuộc nhóm Nhà sản xuất và cụ thể là Cung ứng nguyên vật
liệu. Nghiên cứu tác giả cũng chỉ rõ, Việt Nam vẫn chưa phát triển công nghệ hóa dược,
do đó hầu hết nguyên liệu sản xuất dược phẩm tại Việt Nam đều phải nhập khẩu. Theo
các số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, Bộ Y tế và Cục quản lý dược, 90% nguyên
liệu sản xuất dược phẩm tại Việt Nam đang phải nhập khẩu. Trong đó, Trung Quốc và Ấn
Độ là hai quốc gia có kim ngạch xuất khẩu nguyên liệu dược phẩm vào Việt Nam lớn
nhất trong nhiều năm, lần lượt chiếm 51,4% và 18,3% tổng giá trị nhập khẩu năm 2013.
Theo báo cáo của Cục quản lý dược và Bộ Y tế, đến 90% nguồn nguyên liệu đông dược
sử dụng tại Việt Nam được nhập khẩu từ Trung Quốc do nguồn cung tại Việt Nam không
đủ đáp ứng và nhiều loại thảo dược không thể trồng tại Việt Nam do khí hậu không phù

hợp. 10% nguyên liệu còn lại chủ yếu tập trung vào các loại thảo dược khá phổ biến tại
Việt Nam như Artiso, Đinh Lăng, Cam Thảo, Cao Ích Mẫu, Diệp Hạ Châu…
Theo Bộ Y tế, trong đề án Quy hoạch phát triển ngành dược liệu đến năm 2020
tầm nhìn 2030, xây dựng một số dự báo chiến lược cho ngành dược nói chung và
dược liệu nói riêng như sau: Thị trường dược phẩm Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng
nhanh với tốc độ tăng trưởng khoảng 25% mỗi năm và đạt giá trị (sản xuất trong nước
và xuất khẩu) trên 2 tỷ USD vào năm 2013 theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị
trường Business Monitor International Ltd (BMI) của Anh Quốc.
Trồng dược liệu là hoạt động mang lại rất nhiều lợi ích, có giá trị kinh tế cao,
hoạt động hiệu quả sẽ mang lại thu nhập lớn hơn nhiều so với một số loại cây trồng khác.
Thống kê của Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, tại một số vùng nuôi
trồng sản xuất dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng, phục thì nuôi trồng cây dược liệu
có giá trị kinh tế to lớn hơn bất kỳ cây lương thực, thực phẩm nào (có thể thu nhận trên 100


13
triệu đồng/ha). Phát triển trồng cây thuốc đã giúp cho nhiều vùng nông thôn, miền núi xóa
đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Một số điển
hình về trồng cây thuốc trên cả nước: Ở SaPa – Lào Cai: đã thực hiện trồng cây Artisô từ
khi trồng đến khi thu hoạch đã cho doanh thu khoảng 115 triệu đồng/vụ/năm. Ở huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang, mô hình trồng cây Kim tiền thảo là hướng mới trong chuyển đổi cơ
cấu cây trồng ở tỉnh Bắc Giang và nó đã thực sự góp phần giảm nghèo cho người dân nơi
đây. Ở vùng Bảy Núi – An Giang: Nhiều cá nhân, hộ gia đình đã tổ chức trồng dược liệu
xen kẽ dưới tán rừng. Theo tính toán thực tế 1 công đất trồng dược liệu cho thu hoạch cao
gấp 2 - 3 lần trồng lúa, trong khi việc chăm sóc lại nhàn hạ hơn.
Các nghiên cứu cụ thể về mức đóng góp giá trị của lĩnh vực nuôi trồng dược
liệu và ngân sách nhà nước là rất hạn chế . Tuy nhiên, giá trị kinh tế của việc nuôi
trồng dược liệu cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác . Từ chuỗi giá trị ngành
dược, có thể thấy khi hoạt động nuôi trồng dược liệu phát triển góp phần thúc đầy
ngành công nghiệp hóa dược phát triển, đây là điều kiện để phát triển thị trường hàng

hóa ngành dược, khuyến khích xuất khẩu . Từ đây, ngân sách nhà nước sẽ được bổ
sung đáng kể thông qua thuế và các loại phí khác. Như vậy có thể thấy phát triển dược
liệu đã góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Về khía cạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, những năm gần đây sự nhận
thức về chăm sóc sức khỏe và nhu cầu về y tế ngày càng tăng của người dân Việt
Nam, doanh thu ngành thuốc không ngừng tăng. Tốc độ tăng trưởng doanh thu trung
bình giai đoạn 2009-2013 đạt 18.8%/năm. Sự tăng trưởng này ngược chiều so với các
ngành kinh tế khác trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008-2013 vừa qua, do mặt
hàng dược phẩm là mặt hàng thiết yếu và không thể thay thế . Theo Báo cáo của ngành
Dược 2014, BMI đã dự báo lượng tiêu thụ thuốc sẽ tăng lên 117,802.35 tỷ VND vào
năm 2017, tương ứng với tốc độ tăng trưởng trung bình là 15.5%. Hơn nữa, tỉ lệ đóng
góp của ngành cho GDP của cả nước cũng tăng qua các năm và được dự đoán tiếp tục
giữ xu hướng này trong vòng 5 năm tới .

1.1.2.2. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến vai trò nhà nước trong phát
triển cây trồng dược liệu
Thứ nhất, các nghiên cứu về nội dung vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng
dược liệu
Vai trò quản lý của nhà nước đã được nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau.
Cụ thể, vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam của tác giả
Phan Thị Kim Oanh ( 2014), trong nghiên cứu tác giả đã chỉ rõ bốn nhóm nhân tố ảnh


14
hưởng đến vai trò của nhà nước với anh sinh xã hội đối với nông dân là nhóm nhân tố về
quan điểm của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân, khả năng tài chính của nhà
nước và thu nhập của nông dân, năng lực hệ thống quản lý an sinh xã hội đối với nông
dân và nhận thức xã hội về an sinh xã hội đối với nông dân. Vai trò nhà nướ đối về ASXH
đối với nông dân được tác giả phân tích trên các khía cạnh như i) vai trò nhà nước trong
xây dựng hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, ii) tổ chức phối hợp chính sách và tổ

chức quản lý, iii) kiểm tra giám sát nhằm thiết lập hệ thống và tạo các điều kiện đảm bảo
cho hệ thống ASXH vận hành. Đồng thời trong nghiên cứu này tác giả cũng đã khẳng
định mức độ bao phủ và mức độ tác động của an sinh là kết quả việc thực hiện vai trò của
nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân. Nguồn số liệu phân tích trong nghiên cứu
được tác giả thu thập thông qua khảo sát 258 hộ nông dân và 197 cán bộ quản lý nhà nước
các cấp tại ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, từ số liệu thu thập và phân tích tác
giả đã chỉ rõ thực trạng và chỉ ra kết quả đạt được, những hạn chế chủ yếu, nguyên nhân
của những hạn chế và những khuyến nghị, phương hướng, giải pháp tăng cường vai trò
quản lý của nhà nước với an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam trong những năm tới.
Sally P. Marsh, T. Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng (2007) trong nghiên
cứu: “Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam: Tóm tắt chính sách”,
đã tóm tắt những kết quả nghiên cứu chính của Dự án ACIAR ADP 1/1997/092 “Ảnh
hưởng của một số phương án chính sách chủ yếu đến lĩnh vực nông nghiệp ở Việt
Nam”. Mục tiêu chính của Dự án – nguồn cung cấp thông tin cho những tóm tắt chính
sách này là đánh giá ảnh hưởng của các chính sách của Chính phủ Việt Nam đến nông
nghiệp và xây dựng các mô hình kinh tế thích hợp cho việc phân tích chính sách. Khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn, Trường Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội và Nhóm
Kinh tế Nông nghiệp và Tài nguyên, Đại học Sydney là những cơ quan thực hiện các
hoạt động nghiên cứu của Dự án. Những kết quả nghiên cứu của Dự án đã được xuất
bản bằng hai thứ tiếng Anh và Việt trong sách của ACIAR với tiêu đề “Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam” . Trước kia, thuế sử dụng đất nông nghiệp ở
Việt Nam dựa trên Sắc lệnh 031/SL (1951) và được coi là Thuế hoa lợi đất. Từ khi ban
hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp (1983) và Thuế Sử dụng đất nông nghiệp (1993),
thuế này đã được thay đổi và chuyển sang cả hai loại thuế là thuế đất và hoa lợi đất
(nghĩa là gồm cả thuế sở hữu tài sản và thu nhập từ đất). Theo luật hiện hành, thuế
được thu theo thuế suất cố định tính theo hạng đất nhưng nông dân trả thuế bằng thóc
tính thành tiền theo giá thóc hàng năm. Tổng lượng thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện
nay chiếm tỷ lệ nhỏ trong GDP và trong tổng thu ngân sách quốc gia. Mức chi phí để
thu thuế chiếm phần lớn trong tổng số thuế thu được. Vào cuối năm 2003, Trung Quốc



15
cải cách thuế nông nghiệp nhằm giảm nhẹ khó khăn cho nông dân, và cùng với việc
Việt Nam tham gia WTO, thuế nông nghiệp nói chung sẽ phải giảm trong trung hạn.
Đây là xu hướng hội nhập quốc tế và thương mai hoá toàn cầu của WTO. Thực hiện
Nghị quyết 15/2003/QH11 của Quốc hội và Nghi định 129/2003/NĐ-CP của Chính
phủ, phần lớn các hộ nông dân và tổ chức nông nghiệp được miễn thuế nông nghiệp
hoặc lượng thuế mà họ phải trả sẽ giảm .
Một hướng nghiên cứu khác của Nguyễn Mạnh Tuân (2004) với đề tài “Chính
sách đất đai nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Thực trạng và những vấn
đề đặt ra”, được tác giả thực hiện 2003 -2004. Bằng các phương pháp điều tra, khảo
sát, phân tích, tổng hợp đề tài đã cho thấy: - Khẳng định vai trò quản lý Nhà nước đối
với đất đai nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng ở nước ta hiện nay. - Khái
quát đầy đủ, hệ thống chính sách đất đai trong công tác quản lý của Nhà nước trước
đây và đặc biệt từ năm 1986 đến nay. - Đưa ra những nội dung cơ bản về chính sách
đất đai trong nông nghiệp và những vấn đề đang đặt ra.
Trong nghiên cứu: “Những đột phá cần có về tín dụng cho nông nghiệp”của tác
giả Nguyễn Minh Phong (2013) tác giả đã chỉ rõ đẩy mạnh cho vay tín dụng nông
nghiệp đáp ứng yêu cầu thị trường và hội nhập quốc quốc tế ngày càng trở thành xu
hướng và nhiệm vụ chung cho toàn ngành, cũng như cho mỗi ngân hàng thương mại
(NHTM). Tuy nhiên, quá trình này, bên cạnh những kỳ vọng lớn lao, cũng có không ít
trở ngại không dễ vượt qua. Để phát triển mạnh và bền vững thị trường tín dụng nông
nghiệp rất cần động lực mới, có tính đột phá được cộng hưởng bởi sự nhận thức thấu
đáo và các giải pháp thích ứng từ nhiều phía .
Việt Nam về cơ bản hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp, dù nhiều năm qua
đã có nhiều thành tựu to lớn về sản xuất nông nghiệp. Do đó, về mặt chủ trương, các
chính sách về thuế, các loại phí ưu đãi nông nghiệp nói chung và các ngành thuộc
nông nghiệp riêng luôn được khuyến khích, tạo điều kiện áp dụng và thực thi. Điển
hình là thuế nông nghiệp và thủy lợi phí . Nuôi trồng dược liệu là một lĩnh vực trong
sản xuất nông nghiệp, do vậy cũng chịu sự tác động và nằm trong phạm vi áp dụng của

các chính sách về thuế, thủy lợi phí nông nghiệp.
Về thuế nông nghiệp, đã có một vài công trình nghiên cứu, trong đó phải kể đến
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Chính sách thuế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Thị Xuân Lan (2007).
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Quá trình cải cách thuế đã tạo ra những ảnh hưởng tích cực
đối với nông nghiệp. Tuy nhiên, chính sách thuế cũng bộc lộ một số hạn chế trong thời
gian vừa qua, đó là chưa đảm bảo tận dụng hết các nguồn thu; Chưa đảm bảo tính công


16
bằng trong chính sách thuế; Làm tăng gánh nặng thuế cho người nông dân; Làm tăng
giá thành và giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam; Chưa đảm bảo tính đơn giản
rõ ràng và ổn định; Gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các đơn vị kinh doanh
nông sản và ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân. Tác giả cũng đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện chính sách thuế đó là: Điều chỉnh thuế sử dụng đất nông
nghiệp phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; Điều
chỉnh căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp dựa trên lý thuyết về địa tô; Đưa các
loại hàng hóa, dịch vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp vào diện không chịu thuế Giá
trị gia tăng; Loại bỏ dần cách tính thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp…
Nghiên cứu về thủy lợi phí, Nguyễn Văn Song (2007) với công trình nghiên cứu:
“Những mặt tích cực và hạn chế của quá trình thực thi miễn thủy lợi phí đến chi phí sản
xuất của hộ nông dân ở đồng bằng sông Hồng”. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chính sách
miễn thủy lợi phí làm giảm khoảng 3% tổng chi phí sản xuất, đồng thời tăng thu nhập cho
các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp (dao động từ 17.000 – 20.000 đ/sào). Tuy nhiên
chính sách này cũng đã bộc lộ một số hạn chế trong quá trình thực thi như giảm ý thức
của người dân trong việc sử dụng tiết kiệm nước, giảm ý thức bảo vệ công trình thủy lợi
và ý thức trong thanh toán nợ đọng thủy lợi phí; mất công bằng giữa các hộ có nhiều diện
tích canh tác ở đầu hệ thống và cuối hệ thống, giảm diện tích một số cây trồng vụ đông
(28% tổng số hộ điều tra bỏ cây trồng vụ đông) do tính phức tạp về lịch tưới của cây vụ
đông, kết quả này chỉ ra rằng chính sách Thủy lợi phí cần rõ ràng hơn cho các mùa vụ,

cây trồng và đối tượng được hưởng lợi. Bên cạnh đó, một nghiên cứu khác của Nguyễn
Văn Song (2010) đã tập trung vào việc nghiên cứu: Cơ sở kinh tế của chính sách miễn
thuế nông nghiệp, miễn thủy lợi phí, thực tiễn và mối quan hệ với vấn đề tam nông”. Vấn
đề tam nông đang được Đảng, Nhà nước và ngành nông nghiệp triển khai thực hiện nhằm
tăng cường đầu tư cho lính vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, chính sách miễn
thuế nông nghiệp, chính sách miễn thủy lợi phí là những chính sách hướng tới vấn đề này.
Bài viết phân tích cơ sở kinh tế của chính sách miễn thuế nông nghiệp, chính sách miễn
thủy lợi phí đồng thời phân tích các thuận lợi, khó khăn của quá trình thực thi hai chính
sách này liên quan tới chủ trương về vấn đề tam nông.
Đề cập đến vai trò của chính phủ trong công nghệ sinh học- một phần trong quá
trình chế biến dược phẩm, trong nghiên cứu của mình Susanne (2000) đã so sánh về
vai trò của chính phủ giữa hai quốc gia Mỹ và Đức. Kết quả so sánh cho thấy, ở Đức,
vai trò Chính phủ Đức tập trung vào việc phát triển công nghệ sinh học- một nhánh
quan trọng và là công việc đầu tiên của quy trình sản xuất dược liệu. Chính phủ Đức
đã bắt đầu thực hiện các chính sách cho hoạt động này vào cuối năm 1960, khi trong


17
báo cáo của OECD đã xác định rằng, công nghệ sinh học được dự đoán sẽ đóng vai trò
quan trọng quá trình phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của ngành dược liệu
nói riêng. Bởi vậy, công nghệ sinh học đã được sự hỗ trơ của chính phủ sử dụng vốn
đầu tư công để phát triển ngành này. Chính phủ Đức đã thành công trong việc thúc đẩy
sự phát triển của ngành công nghệ sinh học, Đức đã trở thành quốc gia có sự phát triển
mạnh mẽ sau chiến tranh . Và Chính phủ liên bang đã thực hiện các quyết định để đạt
được các kết quả để có thể tiếp tục mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia này. Ở Mỹ,
vai trò chính phủ hướng vào vấn đề chăm sóc sức khỏe nhiều hơn khi họ quan tâm đến
trực tiếp kết quả khám chữa bệnh, kết quả xét nghiệm. Đồng thời ở Mỹ, dược liệu
được xem xét như một ngành công nghiệp, trong đó công nghệ sinh học là một ngành
mà cũng buộc phải cạnh tranh như những ngành khác trên thị trường, cũng phải đối
mặt với những khó khăn về tài chính, sự thâm nhập thị trường, khó khăn nhất mà các

đơn vị phải đối mặt vào khoảng những năm 1993 và 1994. Khi có nhiều công ty mới
về ngành dược ra nhập thị trường và khu vực chăm sóc sức khỏe đối mặt với những
thất bại trong quá trình điều trị, kết quả xét nghiệm có sự sai lệch, khi đó, chính phủ
Mỹ dần quan tâm đến ngành dược liệu đặc biệt trong quá trình nghiên cứu dược phẩm.
Kết quả cho thấy, ngành dược liệu ở quốc gia này đã ổn định trở lại sau những thời
điểm khó khăn chung của cả ngành. Đồng thời, trong nghiên cứu tác giả đã chỉ ra sự
khác biệt trong chính sách của hai quốc gia này. Đồng thời, tác giả cũng phân tích các
yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội- những yếu tố quyết định đến việc lựa chọn con
đường khác nhau trong các chính sách liên quan đến ngành này.
Maria das Graças Lins Brandão và cộng sự (2013) có bài viết “Changes in the
trade in native medicinal plants in Brazilian public markets” đăng tải trên Environ
Monit Assess năm 2013 đã trình bày những nghiên cứu và chỉ ra những thay đổi của
việc buôn bán các loại cây thuốc bản địa ở Braxin. Nhóm nghiên cứu đã khảo sát 15
vùng thị trường khác nhau của Brazil, tìm kiếm 40 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực y
học cổ truyền có sản phẩm được mua bán trên thị trường. Kết quả cho thấy có nhiều
cây thuốc, dược liệu quý nguồn gốc bản địa đang có xu hướng giảm dần, cần có chiến
lược bảo tồn và đa dạng sinh học .
Nghiên cứu về chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam có một số
công trình đáng chú ý. Trần Văn Trung (2015) với luận án tiến sĩ “Chính sách phát
triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc Việt Nam”, tác giả đã đưa ra những phân tích
đánh giá thực trạng các chính sách liên quan đến nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc, chỉ
ra những ưu, nhược điểm tồn tại trong tổ chức triển khai chính sách. Đồng thời, luận
án cũng cung cấp các định hướng và giải pháp xây dựng nhằm hoàn thiện chính sách


×