Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ huy cận trước và sau cách mạng tháng tám năm 1945 qua các tập thơ lửa thiêng, vũ trụ ca, hạt lại gieo, những năm sáu mươi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM HỒNG MINH

ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TỪ VỰNG TRONG THƠ HUY CẬN
TRƢỚC VÀ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
QUA CÁC TẬP THƠ LỬA THIÊNG, VŨ TRỤ CA,
HẠT LẠI GIEO, NHỮNG NĂM SÁU MƢƠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Khóa: QH – 2015 - X

Hà Nội, 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM HỒNG MINH

ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TỪ VỰNG TRONG THƠ HUY CẬN
TRƢỚC VÀ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
QUA CÁC TẬP THƠ LỬA THIÊNG, VŨ TRỤ CA,
HẠT LẠI GIEO, NHỮNG NĂM SÁU MƢƠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Hữu Đạt



Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.
Nguyễn Hữu Đạt.
Đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Kết quả và các số
liệu trong Luận văn là trung thực do tôi tự tìm hiểu, có sự tham khảo và kế
thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước.
Tôi xin cam đoan những điều này là sự thật. Nếu có vấn đề gì sai
phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Hồng Minh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Nguyễn
Hữu Đạt. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo, động viên của người thầy
đáng kính.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngôn ngữ học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội và Hội đồng chấm luận văn đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi để học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, cơ quan, đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ,
động viên để tôi hoàn thành công việc của mình.
Luận văn này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý của
Hội đồng chấm luận văn và những người quan tâm đến vấn đề này để nội dung của

luận văn được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2018
TÁC GIẢ

Phạm Hồng Minh


MỤC LỤC
ơ

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................... Error! Bookmark not defined.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................ Error! Bookmark not defined.
4. Phương pháp nghiên cứu....................................... Error! Bookmark not defined.
5. Đóng góp của luận văn .......................................... Error! Bookmark not defined.
6. Cấu trúc luận văn .................................................. Error! Bookmark not defined.
NỘI DUNG .............................................................. Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........ Error!
Bookmark not defined.
1.1. Một số vấn đề chung về từ và phân loại từ tiếng ViệtError! Bookmark not
defined.
1.1.1. Một số quan điểm về từ ............................ Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Vấn đề phân loại từ trong tiếng Việt ......... Error! Bookmark not defined.
1.2. Một số đặc điểm của phong cách nghệ thuật và đặc điểm ngôn ngữ thơ Error!
Bookmark not defined.
1.2.1. Đặc điểm của phong cách nghệ thuật ...... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ ..................... Error! Bookmark not defined.
1.3. Huy Cận và tình hình nghiên cứu thơ Huy CậnError!


Bookmark

not

defined.
1.3.1. Vài nét về Huy Cận ................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thơ Huy CậnError!

Bookmark

not

defined.
1.4. Tiểu kết ........................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG TRONG THƠ HUY CẬN TRƢỚC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1. Sự phân bố các lớp từ trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám Error!
Bookmark not defined.


2.1.1. Sự phân bố từ vựng trong lớp thực từ ...... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Sự phân bố lớp phụ từ đi kèm thực từ ...... Error! Bookmark not defined.
2.2. Hiện tượng lặp từ vựng trong thơ Huy Cận trước Cách mạng ............... Error!
Bookmark not defined.
2.2.1. Kết quả thống kê định lượng .................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Phân tích ................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Tiểu kết ........................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG TRONG THƠ HUY CẬN SAU CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ........................ Error! Bookmark not defined.

3.1. Sự phân bố các lớp từ trong thơ Huy Cận sau Cách mạngError! Bookmark
not defined.
3.1.1. Sự phân bố từ vựng trong lớp thực từ ...... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Sự phân bố từ vựng trong lớp phụ từ ....... Error! Bookmark not defined.
3.2. Hiện tượng lặp từ vựng trong thơ Huy Cận sau Cách mạng ................. Error!
Bookmark not defined.
3.2.1. Kết quả thống kê định lượng .................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Phân tích ................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Biến đổi từ vựng trong thơ Huy Cận so với trước Cách mạng ........ Error!
Bookmark not defined.
3.3. Tiểu kết ........................................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .............................................................. Error! Bookmark not defined.
Tài liệu tham khảo .................................................. Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tương quan các lớp thực từ trong Lửa thiêng và Vũ trụ ca ............. Error!
Bookmark not defined.
Bảng 2.2. Tương quan các tiểu loại từ định danh trong Lửa thiêng và Vũ trụ ca Error!
Bookmark not defined.
Bảng 2.3: Tương quan các tiểu loại từ chỉ hành động trong Lửa thiêng và Vũ trụ ca Error!
Bookmark not defined.
Bảng 2.4: Tương quan các tiểu loại từ chỉ tính chất trong Lửa thiêng và Vũ trụ ca
................................................................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.5: Tương quan các lớp phụ từ trong Lửa thiêng và Vũ trụ ca .............. Error!
Bookmark not defined.
Bảng 2.6: Độ lặp từ vựng trong Lửa thiêng .............. Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.7: Độ lặp từ vựng trong Vũ trụ ca................. Error! Bookmark not defined.
Bảng 3.1: Tương quan các lớp thực từ trong Những năm sáu mươi và Hạt lại gieo
................................................................................... Error! Bookmark not defined.

Bảng 3.2: Tương quan các tiểu loại từ định danh trong Những năm sáu mươi và Hạt
lại gieo ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 3.3: Tương quan các tiểu loại từ chỉ hành động trong Những năm sáu mươi và
Hạt lại gieo ................................................................ Error! Bookmark not defined.
Bảng 3.4: Tương quan các tiểu loại từ chỉ tính chất trong Những năm sáu mươi và
Hạt lại gieo ................................................................ Error! Bookmark not defined.
Bảng 3.5: Tương quan các lớp phụ từ trong Những năm sáu mươi và Hạt lại gieo
................................................................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 3.6: Độ lặp từ trong Những năm sáu mươi ...... Error! Bookmark not defined.
Bảng 3.7: Độ lặp từ trong Hạt lại gieo...................... Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Huy Cận là một trong số những nhà thơ lớn của nền thi ca Việt Nam hiện
đại. Xuất hiện trên thi đàn từ năm 1938 với bài thơ Cảm xúc đăng trên báo Ngày
nay, sau đó, tiếp tục cho ra mắt tập thơ Lửa thiêng (1940), ông đã “nhanh chóng trở
thành một trong những ngôi sao sáng chói nhất của phong trào Thơ mới” [49, tr. 14]
và cũng từ thời điểm đó, những tác phẩm của ông đã là đề tài cho rất nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình văn học. Sau Cách mạng, ông tiếp tục sáng tác và xuất bản
thêm hàng chục tập thơ trong đó có những bài thơ đạt đến trình độ điêu luyện, ghi
dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Nghiên cứu về Huy Cận là nghiên cứu một trong những gương mặt thơ lớn
của thời đại, một trong những nhà văn hóa có đóng góp đáng kể cho sự nghiệp văn
học, văn hóa dân tộc Việt Nam thế kỷ XX. Huy Cận và thơ ông luôn nhận được sự
quan tâm từ rất nhiều nhà nghiên cứu trên các phương diện khác nhau, tuy nhiên, đa
số các tác giả thường chỉ chú ý đến mặt nội dung và nghệ thuật, hiếm có công trình
nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ thơ Huy Cận. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm sử
dụng từ vựng trong thơ ông trước và sau Cách mạng không chỉ góp phần làm rõ đặc
điểm phong cách của một tác giả qua các giai đoạn sáng tác, mà còn cho thấy vẻ

đẹp và sự phong phú của ngôn ngữ trong khi hành chức.
Mặt khác, Huy Cận là một trong số các nhà thơ có nhiều tác phẩm được đưa
vào giảng dạy trong trường phổ thông, vì vậy, việc nghiên cứu thơ ông sẽ góp phần
làm cho việc dạy học về tác giả, tác phẩm được sâu sắc hơn.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Đặc điểm sử dụng từ
vựng trong thơ Huy Cận trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (qua các
tập thơ: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Những năm sáu mươi, Hạt lại gieo)
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là từ vựng trong thơ Huy Cận trước và sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945.

1


Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các tập thơ: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Hạt lại
gieo và Những năm 60 được tổng hợp và in trong Tuyển tập thơ Huy Cận – tập 1.
NXB Văn học, năm 1986.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu đặc điểm sử dụng từ vựng của Huy Cận theo các lớp từ nhằm chỉ
ra những đặc điểm riêng trong phong cách nhà thơ.
- Khảo sát hệ thống từ vựng được sử dụng trong bốn tập thơ theo các lớp từ
- Phân tích, miêu tả đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy Cận trước và
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu là phương pháp miêu tả với
mục đích miêu tả đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy Cận trên phương diện từ
loại. Từ đó làm rõ những điểm riêng trong cách sử dụng từ vựng của nhà thơ qua 2
giai đoạn sáng tác, chỉ ra ảnh hưởng của nó đến đặc điểm phong cách nhà thơ.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tu từ học khi thống kê tỷ lệ, phân

loại các từ loại được sử dụng nhằm tìm ra một số nguyên tắc, quy luật trong cách sử
dụng từ của nhà thơ, đồng thời xác định màu sắc tu từ học của những từ được sử
dụng trong thơ Huy Cận. Qua đó chỉ ra một số đặc điểm của phong cách tác giả.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số thủ pháp nghiên cứu định lượng
nhằm thống kê số lượng từ được sử dụng, đồng thời phân loại hệ thống từ vựng
thành các lớp từ; thủ pháp so sánh nhằm chỉ ra sự thay đổi trong cách dùng từ của
Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến sau Cách mạng.
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào tìm hiểu đặc điểm ngôn
ngữ thơ Huy Cận, trong đó có đặc điểm phong cách của nhà thơ.
Ngoài ra, luận văn cũng đóng góp tư liệu cho việc nghiên cứu thơ Huy Cận,
đổi mới cách giảng dạy thơ Huy Cận trong nhà trường.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
2


Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy Cận trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945
Chương 3: Đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy Cận sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945.

3


NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề chung về từ và phân loại từ tiếng Việt
1.1.1. Một số quan điểm về từ

Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên của ngôn ngữ, là khái niệm quan trọng nhưng
cũng không hề đơn giản trong nghiên cứu ngôn ngữ học. F. De. Saussure đã viết:
“Từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng chúng ta như một cái gì đó trung tâm
trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ mặc dù khái niệm này khó định nghĩa” [29, tr.21].
Do xuất phát từ sự khác nhau về cách định hình, về chức năng và những đặc điểm ý
nghĩa của từ trong các ngôn ngữ khác nhau cũng như trong bản thân một ngôn ngữ
nào đó nên các nhà ngôn ngữ học không có sự thống nhất trong cách định nghĩa về
từ. Cho đến nay, đã có khoảng 350 định nghĩa khác nhau. Các nhà Việt ngữ học đi
theo khuynh hướng chú ý đến tính nhiều mặt và đặc điểm riêng của từ đã đưa ra
một số định nghĩa về từ trong tiếng Việt như:
Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những
đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng
với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu.
[10, tr. 16]
Từ là đơn vị nhỏ nhất, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức
năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu. [12,
tr. 141]
Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có khả năng vận dụng độc lập để tạo
thành câu và có tính hoàn chỉnh về ngữ âm và ngữ nghĩa. [19, tr. 48]
Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức. [28,
tr. 61]
Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để cấu tạo câu
nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền”. [29, tr. 69]
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi chọn định nghĩa về từ của các
tác giả cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt làm cơ sở. Theo đó, từ là đơn vị nhỏ
nhất, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận
dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu. [12, tr. 141].
4



1.1.2. Vấn đề phân loại từ trong tiếng Việt
Từ vựng của mỗi ngôn ngữ là một kho tàng luôn vận động theo chiều hướng
biến đổi và phát triển không ngừng. Để phân chia hệ thống từ vựng trong mỗi ngôn
ngữ, các nhà nghiên cứu căn cứ vào các tiêu chí khác nhau với các mục đích khác
nhau. Về cơ bản, có hai hướng phân chia: theo quan điểm của ngữ pháp học, hệ
thống từ được phân chia thành các từ loại; theo quan điểm của từ vựng học, hệ
thống từ vựng được phân chia thành các lớp từ
Việc phân loại từ vựng tiếng Việt thành các từ loại theo quan điểm của ngữ
pháp học không hề đơn giản. Các nhà Việt ngữ học khi tiến hành phân loại dựa vào
các tiêu chí khác nhau, do đó, kết quả phân loại có sự khác biệt. Tác giả Nguyễn
Thiện Giáp trong Lược sử Việt ngữ học [33] đã tổng hợp một số quan điểm phân
định từ loại tiếng Việt của một số tác giả như: các tác giả Trần Trọng Kim, Phan
Duy Khiêm, Bùi Kỷ xuất phát từ ý nghĩa của từ, chia vốn từ vựng tiếng Việt thành
13 từ loại: Danh tự, mạo tự, loại tự, chỉ thị tự, đại danh tự, tính tự, động tự, trạng tự,
giới tự, liên tự, tán than tự, trợ ngữ tự, tiếng đệm….; Cùng dựa vào ba tiêu chí: ý
nghĩa, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp của từ nhưng các tác giả Đinh Văn Đức,
Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Kim Thản, Bùi
Minh Toán … lại có cách phân chia từ tiếng Việt không hoàn toàn giống nhau.
Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Đức, từ tiếng Việt có thể chia thành 3
nhóm lớn: Thực từ (gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ), hư từ (gồm từ phụ,
từ nối), tình thái từ (gồm tiểu từ và trợ từ). [24]
Nhóm tác giả Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung chia từ tiếng Việt thành
2 nhóm lớn với các từ loại cụ thể: thực từ (gồm danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số
từ), hư từ là các phụ từ (định từ, phó từ), kết từ, tiểu từ ( gồm trợ từ và tình thái từ),
trong đó, số từ và đại từ là trung gian giữa thực từ và hư từ. [2]
Theo tác giả Bùi Minh Toán, từ tiếng Việt có thể được chia thành: danh từ,
động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ. [52]
Trong khi đó, Nguyễn Kim Thản chia kho từ vựng tiếng Việt thành hai
mảng: ngữ thái từ (trợ từ và thán từ) và phi ngữ thái từ (thực từ và bán thực từ). [49]


5


Nguyễn Minh Thuyết trong Dẫn luận ngôn ngữ học [28] lại chia từ vựng
tiếng Việt thành ba mảng là thực từ (gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ), hư
từ (gồm phó từ, kết từ, trợ từ) và thán từ.
Nguyễn Thiện Giáp phân chia từ vựng tiếng Việt thành các tiểu loại cụ thể
như: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, lượng từ, quán từ, trợ từ, liên từ, giới từ. [32]
Quan điểm dựa vào đoản ngữ để phân định từ loại tiếng Việt của Nguyễn Tài
Cẩn được khá nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ. Ông chia kho từ vựng: danh từ, động
từ, tính từ, đại từ, số từ, phó từ, quan hệ từ, trợ từ, thán từ.
Về quan điểm phân loại từ dưới góc độ của từ vựng học các tác giả cuốn Cơ
sở ngôn ngữ học và tiếng Việt [12] chủ trương phân loại từ vựng tiếng Việt dựa vào
các các cứ khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc, hệ thống từ vựng được chia thành:
các từ ngữ gốc Hán, các từ gốc Ấn Âu; căn cứ theo phạm vi sử dụng, các tác giả
chia hệ thống từ vựng thành: thuật ngữ, từ ngữ địa phương, từ nghề nghiệp, tiếng
lóng, lớp từ chung; căn cứ vào mức độ sử dụng, chia hệ thống từ vựng thành lớp từ
ngữ tích cực và lớp từ ngữ tiêu cực; phân lớp theo phong cách sử dụng, hệ thống từ
vựng được chia thành: lớp từ khẩu ngữ, lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, lớp từ
ngữ trung hòa về phong cách.
Cũng theo quan điểm của từ vựng học, tác giả Đỗ Hữu Châu [10] đã phân
chia hệ thống từ vựng tiếng Việt thành các lớp: thuật ngữ khoa học, từ vựng nghề
nghiệp, biệt ngữ, từ ngữ địa phương, các lớp từ được phân chia theo phong cách
chức năng.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, để làm cơ sở cho
việc phân tích, miêu tả đặc điểm từ vựng trong thơ Huy Cận, trong luận văn này,
chúng tôi khảo sát từ vựng trong thơ Huy Cận theo 2 lớp từ cơ bản: lớp thực từ là
những từ mang ý nghĩa từ vựng và lớp phụ từ đi kèm thực từ. Trong đó, mỗi lớp từ
tiếp tục được phân chia thành các lớp nhỏ hơn.
Lớp thực từ có thể chia thành: lớp từ định danh, lớp từ mang ý nghĩa hành

động, lớp từ mang ý nghĩa tính chất.

6


- Lớp từ định danh có thể được phân chia thành: lớp từ chỉ tên riêng biểu thị
tên gọi của một sinh vật, một tập thể hay một sự kiện riêng biệt và lớp từ là tên gọi
khái quát của cả một loại sự vật. Trong lớp từ chỉ tên gọi khái quát của sự vật, có
thể chia thành 2 lớp: lớp từ chỉ đơn vị và lớp từ chỉ sự vật, khái niệm
+ Lớp từ chỉ đơn vị có thể chia thành hai tiểu loại: Một loại là từ chỉ đơn vị
tự nhiên dùng để chỉ từng cá thể sự vật, lọai này gồm những đơn vị chỉ người:
người, đứa, tên, thằng, con, anh, chị… và những đơn vị chỉ về động thực vật, sự
vật, sự việc, khái niệm: con, cây, quả, cái, chiếc, bức, tấm, cuốn,.... Loại thứ hai là
từ chỉ đơn vị quy ước gồm những từ: tạ, cân, yến, thước, sào, mẫu, miếng, cục,
đoạn, đoàn, bầy, loại, thứ…
+ Lớp từ chỉ sự vật, khái niệm được phân chia thành các tiểu loại: các từ chỉ
người, các từ chỉ động thực vật, sự vật, sự việc và từ chỉ khái niệm trừu tượng (lớp
từ có biệt loại): cậu sinh viên, cuốn sách, nền giáo dục…; lớp từ chỉ chất liệu: nước,
đất, dầu… (lớp từ không biệt loại).
- Lớp từ chỉ hành động được chia thành: lớp từ chỉ hoạt động, lớp từ chỉ
trạng thái, lớp từ tình thái.
+ Lớp từ chỉ hoạt động lại có thể chia thành ba loại: thứ nhất, những từ chỉ
hoạt động tác động: khuyên, sai, bảo, cho, tặng, cướp, ăn, mang, viết, vẽ….,những
từ chỉ hoạt động không tác động lên đối tượng: ra, vào, lên, xuống, nằm, khóc,
cười…., những từ chỉ hoạt động cảm nghĩ – nói năng, gồm các từ như: nghĩ, tưởng,
ngỡ, thấy, yêu, ghét, trông, chờ…
+ Lớp từ dùng để biểu thị các trạng thái khác nhau của sự vật có thể chia
thành: từ chỉ trạng thái xuất hiện, tồn tại – tiêu biến: có, còn, mọc, hiện…; từ chỉ trạng
thái biến hóa: hóa, biến thành, hóa thành…, từ chỉ quan hệ: là, làm, như, y như
+ Lớp từ tình thái, biểu thị ý chí, nhu cầu, khả năng thực hiện một hoạt động

nào đó hoặc biểu thị trạng thái tiếp thụ của sự vật. Đó là những từ như: cần, muốn,
phải, toan, định, bị, được, chịu….
- Lớp từ chỉ đặc trưng hoặc tính chất của sự vật được chia lớp từ này thành:
+ Lớp từ chỉ đặc điểm về tính chất của sự vật, gồm các từ chỉ phẩm chất: tốt,
đẹp, xấu…, từ chỉ cường độ: mạnh, yếu, lạnh, nóng…, từ chỉ hình thể: vuông, tròn,
7


méo…, từ chỉ mùi vị: thơm, chua, cay…, từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ, vàng…, từ chỉ
kích thước: to, nhỏ, cao thấp…, từ chỉ âm thanh: ồn ào, im ắng,…
+ Lớp từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật, gồm các từ chỉ số lượng: nhiều,
ít, dày, thưa…, từ chỉ trọng lượng: nặng, nhẹ….
Lớp phụ từ đi kèm thực từ có thể chia thành các lớp:
- Lớp 1 gồm những từ có ý nghĩa trỏ hoặc thay thế cho ý nghĩa của các lớp
thực từ. Lớp từ này gồm: từ hô gọi: ta, tôi, chúng tôi, nó, họ…; từ có ý nghĩa số
nhiều và không trỏ ngôi cụ thể: nhau; từ có ý nghĩa số lượng nhưng không nói rõ
lượng ấy là bao nhiêu: chừng ấy, ngần ấy, bấy nhiêu…; từ dùng để thay thế vị từ:
thế, vậy; từ mang nghĩa phiếm chỉ, gồm: từ hỏi về người: ai, từ hỏi về sự vật: gì,
nào, từ hỏi về thời gian: bao giờ, từ hỏi về địa điểm: đâu, từ hỏi về số lượng: bao
nhiêu, bao, mấy, từ hỏi về tình hình, tính chất của sự vật: thế nào, sao. Lớp từ này
khá đặc biệt, nó nằm trung gian giữa nhóm thực từ và nhóm từ phụ, nhưng cơ bản ý
nghĩa của các từ thuộc nhóm này phụ thuộc vào ý nghĩa của các thực từ trong cùng
ngữ cảnh, nên chúng tôi tạm xếp vào nhóm phụ từ đi kèm thực từ
- Lớp 2: gồm những từ có ý nghĩa số lượng có thể chia thành: lớp từ có ý
nghĩa số lượng xác định: một, hai, ba, bốn và lớp từ có ý nghĩa số lượng không xác
định gồm có các từ mang ý nghĩa số ít: một vài, dăm ba, dăm bảy…và từ mang ý
nghĩa số nhiều: những, mấy, các…
- Lớp 3 gồm những từ mang ý nghĩa bổ sung cho các từ thuộc lớp thực từ.
Có thể chia lớp này thành: những từ có ý nghĩa bổ sung cho từ định danh: này, ấy,
đó, kia; những từ có ý nghĩa bổ sung cho từ chỉ hành động và từ chỉ tính chất: rất,

quá, lắm, đã, từng, đang, sẽ, cũng, đều; có, không, chưa, chẳng, chả, hãy, đừng,
chớ…
- Lớp 4 gồm những từ biểu thị quan hệ nghĩa cho ý nghĩa của các từ thuộc
lớp thực từ, gồm các từ: của, mà, ở, từ, với, bởi, vì, do, bằng, để, cho, rằng, và, với,
cùng, hoặc, hoặc là, còn, mà, huống hồ, nữa là; tuy…nhưng, nếu…thì, vì…nên…
- Lớp 5 gồm những từ có tín hiệu của tình cảm: a, úi chà, ôi, ô, ô hay, chà,
hỡi, ơi, dạ, ừ…

8


- Lớp 6 gồm những từ mang ý nghĩa tình thái: à, ư, nhỉ, nhé, hở, chứ, chăng,
hẳn, đi, với, kia, vậy, chính, những, đến, mà, ấy, ngay, tận….
Khảo sát hệ thống từ vựng trong thơ Huy Cận theo hai lớp từ cơ bản như
trên, chúng tôi không đi vào nghiên cứu vai trò ngữ pháp của từ mà đi vào tìm hiểu
giá trị biểu hiện, giá trị tín hiệu của từ, qua đó chỉ ra đặc điểm trong cách sử dụng từ
vựng của nhà thơ, góp phần cho thấy đặc điểm của phong cách nhà thơ. Việc sử
dụng lớp thực từ sẽ cho thấy được tư tưởng, nội dung được phản ánh trong thơ, qua
đó giúp làm rõ đề tài chủ yếu mà nhà thơ hướng đến. Lớp phụ từ đi kèm sẽ cho thấy
cách nhà thơ lựa chọn và kết hợp từ trong sáng tác, từ đó làm rõ đặc điểm riêng
trong cách sử dụng lớp từ này, đồng thời góp phần thể hiện đặc điểm phong cách
nhà thơ.
1.2. Một số đặc điểm của phong cách nghệ thuật và đặc điểm ngôn ngữ thơ
1.2.1. Đặc điểm của phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật là loại phong cách có nhiều tên gọi nhất trong số các
phong cách chức năng. Theo Hữu Đạt, "phong cách nghệ thuật là một phong cách
chức năng được dùng để sáng tạo hình tượng nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật
nhằm phục vụ cho nhu cầu về đời sống tinh thần của con người" [18]. Phong cách
nghệ thuật mang một số đặc trưng về chức năng của ngôn ngữ , tính thẩm mĩ, tính
hình tượng, tính sinh động biểu cảm, tính tổng hợp, cách sử dụng từ ngữ.

Nói về chức năng của ngôn ngữ trong phong cách nghệ thuật, khi thực hiện
chức năng tác động, ngôn ngữ của phong cách nghệ thuật có thể đi theo các hướng:
tác động theo hướng giải trí, tác động theo hướng nhận thức, giáo dục, tác động theo
hướng thẩm mĩ. Ba hướng tác động trên của ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng phối
hợp với nhau, cái này là nguyên nhân của cái kia theo hướng đa trị của các yếu tố
ngôn ngữ.
Tính hình tượng thể hiện ở chỗ ngôn ngữ nghệ thuật tác động đến người đọc
qua một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ mang tính hình tượng. Khi các đơn vị ngôn
ngữ được sử dụng để tạo nên hình tượng nghệ thuật, tự nó đã làm mờ nhạt đi bản
chất của mình và tạo nên một loại nghĩa mới. Việc nhận biết ý nghĩa của hình tượng

9


nghệ thuật phải bằng con đường lí giải quá trình biểu tượng hóa các tín hiệu này
thông qua thao tác tư duy trừu tượng.
Nói đến nghệ thuật là phải nói đến tính thẩm mĩ. Tính thẩm mĩ của ngôn ngữ
nghệ thuật là sự tương hợp giữa hình thức và nội dung. Ở phong cách nghệ thuật,
ngôn ngữ thiên về miêu tả, lấy miêu tả làm mảnh đất nuôi dưỡng cho mình.
Phong cách nghệ thuật mang tính sinh động và biểu cảm cao, nhờ đó, phong
cách này dễ đi vào lòng người, dễ chiếm được lòng người, làm cho người ta dễ nhớ,
dễ thuộc và nhớ lâu, thiếu đi tính sinh động, biểu cảm thì nghệ thuật không còn là
nghệ thuật nữa.
Phong cách nghệ thuật còn mang tính tổng hợp do nó sử dụng tất cả phương
tiện của các phong cách khác. Phong cách này chấp nhận đưa vào nó rất nhiều từ
ngữ địa phương, tiếng lóng, biệt ngữ, từ nghề nghiệp…., triệt để vận dụng tất cả các
lợi thế về giá trị phong cách của các đơn vị từ ngữ trên tất cả các mặt ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp nhằm phục vụ cho mục đích xây dựng hình tượng của mình.
Về đặc điểm sử dụng từ ngữ, phong cách này sử dụng nhiều từ có sức gợi
cảm cao, dễ tạo nên tính nhạc điệu, tiết tấu trong ngôn ngữ nghệ thuật như từ láy, từ

tượng hình, từ tượng thanh, các đơn vị tục ngữ, thành ngữ, quán ngữ. Ngoài ra,
phong cách nghệ thuật thường sử dụng các loại câu mở rộng các thành phần phụ và
các loại kết cấu đảo nhằm nhấn mạnh dụng ý của tác giả hoặc tạo ấn tượng với
người đọc.
Bên cạnh quan điểm của Hữu Đạt, tác giả Đinh Trọng Lạc trong Phong cách
học tiếng Việt [39] cũng nghiên cứu khá sâu về vấn đề này, tuy nhiên, ông không coi
phong cách nghệ thuật là một phong cách chức năng, do đó, khi nói về phong cách
này, ông sử dụng thuật ngữ “ngôn ngữ nghệ thuật”. Theo ông, ngôn ngữ nghệ thuật
gồm các đặc điểm: tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể hóa và tính cụ thể hóa.
Trong đó, tính cấu trúc của ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật đặt ra vấn đề
về một “phạm trù” đã liên kết tất cả các phương tiện ngôn ngữ hết sức đa dạng
trong tác phẩm thành một chỉnh thể lời nói nghệ thuật – phạm trù đó là phạm trù
“hình tượng tác giả”, trong “hình tượng tác giả” cần chú ý đến quan điểm nghệ

10


thuật, lập trường tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm và quy định những chỗ
nhấn mạnh, đem đến một điệu tính chung cho tác phẩm.
Tính hình tượng trong ngôn ngữ học, đặc biệt trong phong cách học có thể
xác định là thuộc tính của lời nói nghệ thuật, truyền đạt thông tin logic và thông tin
được tri giác một cách cảm tính nhờ hệ thống những hình tượng ngôn từ. Ông đã
trích dịch ý kiến của V.V.Vinôgơrađốp, cho rằng một từ trong tác phẩm nghệ thuật
không thể được coi ngang bằng như từ của ngôn ngữ thực hành, vì trong văn bản
nghệ thuật, từ nghệ thuật có hai bình diện theo khuynh hướng nghĩa của mình, có
mối tương quan đồng thời với cả những từ của ngôn ngữ văn hóa chung, cả với
những yếu tố cấu trúc ngôn từ của văn bản nghệ thuật.
Tính cá thể hóa của ngôn ngữ tác phẩm nghệ thuật ngôn từ là dấu ấn phong
cách tác giả trong ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ là chung nhưng sự vận dụng
ngôn ngữ là tùy thuộc vào cá nhân mỗi tác giả.

Tính cụ thể hóa nghệ thuật là sự di chuyển từ bình diện khái niệm của ngôn
ngữ sang bình diện hình tượng. Sự cụ thể hóa này có tính tổng hợp, được diễn đạt
trong hệ thống hoàn chỉnh của các phương tiện ngôn ngữ thuộc các cấp độ khác
nhau. Sự cụ thể hóa nghệ thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các
phương tiện ngôn ngữ cùng một số hình thức khác như giao tiếp độc thoại, đối
thoại, các phương thức diễn đạt tường thuật, miêu tả, các phương tiên tu từ và các
biện pháp tu từ ở các cấp độ.
Tuy quan điểm về phong cách nghệ thuật khác nhau, nhưng khi chỉ ra đặc
điểm của phong cách này, hai tác giả Hữu Đạt và Đinh Trọng Lạc đều thống nhất ở
chỗ cho rằng phong cách nghệ thuật mang tính hình tượng. Đây có thể được coi là
đặc trưng của phong cách nghệ thuật. Tính hình tượng được thể hiện ở mối quan hệ
giữa cái biểu đạt – các đơn vị ngôn ngữ - và cái được biểu đạt – sự vật, đặc điểm
của sự vật. Nói về tính hình tượng trong thơ, tác giả Hữu Đạt cho rằng “thực chất
của việc xây dựng tính hình tượng và hình tượng thơ không phải là cái gì khác
ngoài việc tổ chức các đơn vị ngôn ngữ” [17, tr.133] vì “trong thơ ca, những kết
hợp bất ngờ bao giờ cũng làm tiền đề cho việc tạo ra tính hình tượng” [17, tr.131].
Do đó, một mặt hình tượng thơ có mang dấu ấn chủ quan của nghệ sĩ, nhưng mặt
11


khác, xét về bản chất nó lại thuộc về yếu tố khách quan nằm trong những quy luật
nội tại của ngôn ngữ”. [17, tr.133]
1.2.2. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ
Khi nghiên cứu về đặc điểm của ngôn ngữ thơ, tác giả Nguyễn Phan Cảnh
[4] đã đi sâu vào nghệ thuật ngôn ngữ, phân biệt ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn
xuôi. Ông cho rằng hai thao tác cơ bản của hành động ngôn ngữ là thao tác lựa chọn
từ và thao tác kết hợp từ. Việc vận dụng hai thao tác này trong sáng tác nghệ thuật
làm cho ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi có những điểm khác nhau. Với văn
xuôi, nhằm vào việc miêu tả hiện thực, văn xuôi làm việc trước hết bằng thao tác
kết hợp và lặp là điều tối kị được dùng để tạo ra thông báo. Tuy nhiên, “chính cái

điều văn xuôi rất kị ấy lại là thủ pháp làm việc của thơ, trong thơ, tính tương đồng
của các đơn vị ngôn ngữ lại được dùng để xây dựng các thông báo” [4, tr. 46].
Trong công trình này, ông đã xây dựng hệ thi pháp ngôn ngữ trong thơ Việt Nam
trên cơ sở lý thuyết nghiêng về ngữ âm học. Từ góc độ ngôn ngữ, tác giả đã nêu ra
một số nhận định về tiến trình thể loại của thể thơ lục bát Việt Nam cũng như một
số vấn đề quan yếu trong thơ dịch và dịch thơ.
Tác giả Hữu Đạt trong Ngôn ngữ thơ Việt Nam [17] đã phân tích một số đặc
điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ, gồm: tính tương xứng, tính nhạc và đặc điểm
của phong cách nhà thơ.
Tính tương xứng trong ngôn ngữ thơ đảm bảo cho thơ có một vẻ đẹp hài hòa,
nó gồm những cái tương phản, đối xứng hoặc cân đối nhau và cả những cái tồn tại
trong thế bổ sung cho nhau. Tính tương xứng gồm các loại: tương xứng về âm
thanh, tương xứng về ý nghĩa, tương xứng về từ loại, tương xứng trực tiếp và tương
xứng gián tiếp. Trong đó, tính tương xứng về từ loại là sự tương xứng gồm các từ
cùng thuộc một nhóm từ loại đi sóng đôi với nhau.
Tính nhạc của ngôn ngữ thơ được thể hiện ở cách hòa âm, đó là sự hòa phối
các thanh điệu, các cách kết hợp âm thanh theo một kiểu nhất định nào đó ở trong
câu thơ, đoạn thơ và một bài thơ cụ thể.
Nói về đặc điểm phong cách nhà thơ, cũng theo [18], xét theo sự phát triển
của lịch sử, mỗi giai đoạn thường có một nhát cắt phân chia các kiểu phong cách
12


khác nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu đặc điểm phong cách nghệ thuật, ta phải coi
trọng tính thời đại, tính lịch sử của tác phẩm và đặc trưng về phong cách tác giả,
trong đó bao hàm cả phong cách nhà thơ. Đặc điểm phong cách nhà thơ sẽ trực tiếp
chi phối việc sử dụng ngôn ngữ trong các tác phẩm. Nhưng đặc điểm ấy, lại cũng
chịu sự chi phối của thế giới quan sáng tác, cách lựa chọn đề tài, chủ đề, lựa chọn
đối tượng phản ánh của tác giả. Sự khác nhau về cách thức miêu tả đối tượng sẽ làm
cho các nhà thơ tìm đến các bút pháp khác nhau để xây dựng tác phẩm của mình.

Để phục vụ đắc lực cho mỗi kiểu bút pháp, mỗi nhà thơ sẽ huy động những vốn từ
ngữ khác nhau, những kiểu cấu trúc khác nhau, những cách diễn đạt khác nhau. Từ
đó làm nảy sinh những đặc trưng riêng của từng tác giả. Cho nên, xét cho cùng,
không phải là nội dung phản ánh mà là cách phản ánh của nhà thơ mới là nhân tố
quan trọng làm nên đặc điểm riêng về ngôn ngữ của mỗi nhà thơ.
Có thể thấy, tác giả Hữu Đạt chủ yếu quan tâm đến tín hiệu thẩm mĩ và đăch
trưng của ngôn ngữ nghệ thuật. Ông có cách nhìn bao quát hơn khi quan tâm đến
mọi phương diện của ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác thơ ca như: âm thanh, ý
nghĩa, từ loại. Theo ông, tất cả những phương diện này của ngôn ngữ góp phần tạo
nên tính tương xứng, tính nhạc và đặc trưng trong phong cách nhà thơ.
1.3. Huy Cận và tình hình nghiên cứu thơ Huy Cận
1.3.1. Vài nét về Huy Cận
Huy Cận, tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 trong
một gia đình nhà nho gốc nông dân, tại chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu
(thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, (có lúc đổi tên thành xã
Đức Ân, huyện Đức Thọ) nhưng sau này, xã Ân Phú được gọi tên trở lại và được
xếp vào huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, ông học chữ quốc ngữ với một
người trong họ, sau đó vào Huế học tú tài toàn phần.
Ngoài cương vị nhà thơ, Huy Cận còn tham gia nhiều hoạt động chính trị, văn
hoá trong và ngoài nước, giữ các cương vị quan trọng trong chính phủ. Ông là nhà
hoạt động quốc tế năng động, có nhiều đóng góp tích cực trên lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật. Ông am hiểu nhiều nền văn minh, văn hoá và tiếp nhận nhiều nguồn ảnh hưởng
nhưng cái gốc tâm hồn, thơ Huy Cận vẫn bắt nguồn từ văn hoá dân tộc Việt Nam.
13


Về sự nghiệp thơ ca, Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập thơ
đầu Lửa thiêng năm 1940 (gồm những bài đã đăng báo trong những năm19361940). Tập thơ đã trở thành tác phẩm xuất sắc trong phong trào Thơ mới, đưa tên
tuổi Huy Cận lên vị trí hàng đầu trong nền thi ca lãng mạn Việt Nam. Năm 1942,
ông cho xuất bản tập văn xuôi triết lí Kinh cầu tự , đồng thời, những sáng tác của

ông đăng báo trong giai đoạn 1940 -1942 được tập hợp trong tập thơ Vũ trụ ca. Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Huy Cận có một thời gian khá dài vắng bóng trên
thi đàn. Từ những năm sáu mươi, ông xuất hiện trở lại với hàng loạt tập thơ: Trời
mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963). Khi đất
nước bước vào cuộc kháng chiến trường kì chống Mỹ, Huy Cận tiếp tục cho ra mắt
bạn đọc những tập thơ tiêu biểu như: Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần
đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975). Cũng trong giai
đoạn này, ông cho xuất bản các tập thơ viết cho thiếu nhi: Hai bàn tay em (1967),
Phù Đổng thiên vương (1968), Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973). Sau ngày đất
nước thống nhất cho đến khi từ biệt cuộc đời, ông vẫn liên tục sáng tác và cho xuất
bản nhiều tập thơ với các đề tài khác nhau như Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại
gieo (1984), Chim làm ra gió (1991), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (1997).
Với những đóng góp to lớn của mình, Huy Cận đã được Nhà nước phong
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996). Ngày 23
tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội.
1.3.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thơ Huy Cận
Với một gia tài đồ sộ gồm 20 tập thơ, Huy Cận trở thành cây đại thụ của nền
thơ ca Việt Nam hiện đại, thơ ông trở thành một mảng đề tài lớn thu hút sự quan
tâm của nhiều thế hệ các nhà phê bình, nghiên cứu. Tựu chung lại, các nhà nghiên
cứu đi theo hai hướng: nghiên cứu văn học và nghiên cứu ngôn ngữ học.
Theo hướng nghiên cứu văn học, thơ Huy Cận là mối quan tâm của rất nhiều
tác giả. Hai tập thơ Lửa thiêng và Vũ trụ ca ra mắt bạn đọc thời kì trước Cách mạng
tháng Tám đã trở thành đối tượng của các nhà nghiên cứu như Hoài Thanh – Hoài
Chân với Lửa thiêng [46], Lê Đình Kị với Thơ mới – những bước thăng trầm [54],
14


hay một số tác giả khác như Phạm Thế Ngũ, Trương Nhân Huyền [50]. Sau Cách
mạng, thơ Huy Cận tiếp tục thu hút sự chú ý của độc giả và giới phê bình, sáng tác.

Chế Lan Viên trong Trời mỗi ngày lại sáng của Huy Cận đã biểu dương sự gắn bó
của Huy Cận với hiện thực cuộc đời [57]. Lê Đình Kị, Đào Xuân Quý, Nguyễn
Xuân Nam [45] hay Nguyễn Văn Long [41], Hà Minh Đức [27] có những tiểu luận,
phê bình về thơ Huy Cận. Với một sự quan tâm đặc biệt, nhà thơ Xuân Diệu cũng
nghiên cứu khá nhiều về Huy Cận, trong đó, đáng chú ý có chuyên luận Thế giới
thơ Huy Cận [13]. Là một nhà nghiên cứu nhiều năm về Huy Cận, Trần Khánh
Thành đã có khá nhiều bài viết, chuyên luận về thơ Huy Cận qua từng thời kì, trong
đó có Thi pháp thơ Huy Cận [50]. Ngoài ra, Trần Khánh Thành và Lê Dục Tú còn
tuyển chọn và giới thiệu các bài viết, tiểu luận về Huy Cận và tổng hợp trong cuốn
sách Huy Cận về tác gia và tác phẩm. Gần đây nhất, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của
Nguyễn Thị Kim Ửng với đề tài Phong cách thơ Huy Cận qua Lửa thiêng đã nghiên
cứu các đặc điểm làm nên phong cách thơ Huy Cận [56].
Theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ học, thơ Huy Cận chưa thực sự được chú
ý. Ngôn ngữ thơ ông hầu như chỉ được nhắc đến như những nhận xét trong các tiểu
luận, chuyên luận chung về Huy Cận. Trần Khánh Thành trong chương 4 của
chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận đã phân tích một số đặc điểm về thể loại và kết
cấu của thơ Huy Cận trước và sau Cách mạng. Tác giả đã thống kê tỷ lệ các thể thơ
được Huy Cận sử dụng và đưa ra nhận xét, Huy Cận làm nhiều thể thơ nhưng sở
trường là thơ lục bát, thơ 7 chữ và thơ 8 chữ, trong đó, thơ lục bát trở thành sở
trường của Huy Cận. Bên cạnh đó, Trần Khánh Thành cũng chỉ ra các đặc điểm nổi
bật trong vần điệu và nhịp thơ Huy Cận. Đặc biệt, tác giả Thi pháp thơ Huy Cận khi
nói đến đặc điểm ngôn từ thơ Huy Cận đã nhận thấy “hệ thống từ vựng trong thơ
Huy Cận sau Cách mạng đã thay đổi cơ bản so với trước Cách mạng. Đó là sự thay
đổi từ việc sử dụng hệ thống ngôn từ trang trọng, cổ điển ở Lửa Thiêng đến ngôn từ
bình dị, mộc mạc, có khi thô ráp của quần chúng nhân dân” [50, tr.127]. Cũng trong
chuyên luận này, Trần Khánh Thành nhận xét: “nhà thơ dùng nhiều danh từ chỉ các
yếu tố của vũ trụ: đất trời, suối sông, biển núi, trăng sao…Khi miêu tả vũ trụ, Huy
Cận dùng nhiều từ Hán Việt: nhật nguyệt, hải hà, hoa đăng, tạo hóa, thiên
15



thu…Những từ ngữ ấy tạo nên không khí cổ xưa, diễn tả được sự bất biến, trường
tồn của vũ trụ” [50, tr. 176].
Nhà nghiên cứu Mã Giang Lân với chuyên đề Cấu trúc câu thơ Lửa thiêng
của Huy Cận [40] đã thống kê số lượng bài thơ với các kiểu cấu trúc câu thơ khác
nhau trong Lửa thiêng. Trong chuyên đề này, ông chủ yếu phân tích hai phương
diện: thanh điệu của từ và nhịp điệu của câu thơ. Ngoài ra, ông có đưa ra một số
nhận xét về ảnh hưởng của cách sử dụng từ ngữ đến cấu trúc thơ và thể thơ Huy
Cận: thơ 7,8 chữ ở Lửa thiêng dùng nhiều từ láy và ghép từ tạo ngữ nghĩa độc đáo
và nhìn chung từ ngữ mực thước, cổ điển đã cản trở khả năng tạo vần của nhà thơ.
Điều đó đã dẫn đến sự ổn định trong cấu trúc câu thơ, thể thơ.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Ửng cũng đi vào phân tích phong cách
thơ Huy Cận thể hiện qua ngôn ngữ thơ Lửa thiêng với những biểu hiện trong nghệ
thuật ngôn từ, trong nhạc tính, trong ngữ pháp thơ. Từ đó, tác giả khái quát
“phương thức lựa chọn từ, kết hợp từ, ngữ; ngữ pháp thơ, tính nhạc trong thơ cũng
góp phần tạo nên phong cách thơ độc đáo của Huy Cận” [56]. Trong luận án này,
tác giả đã phân tích thao tác lựa chọn từ và kết hợp từ của Huy Cận qua các văn bản
viết tay bài thơ Tràng giang của Huy Cận và nhận thấy “sự lựa chọn từ ngữ tùy
thuộc rất lớn vào năng lực liên tưởng ngôn từ và tài năng sử dụng ngôn từ tinh thế
của nhà thơ” [56, tr.94]. Ngoài ra, tác giả cũng dành sự quan tâm cho ngữ pháp thơ
trong Lửa thiêng. Tác giả phân tích hiện tượng đảo ngữ, hiện tượng điệp cú pháp, sử
dụng cấu trúc câu so sánh và so sánh tỉnh lược trong Lửa thiêng nhằm chỉ ra những
khám phá về ngữ pháp thơ đã khẳng định tài năng, bản lĩnh sáng tạo ngôn ngữ thơ
Huy Cận, góp phần làm nên phong cách nghệ thuật thơ ông.
Ngoài ra, Luận án tiến sĩ Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới của La Nguyệt Anh [1]
đã khảo sát 11 tập thơ của 11 tác giả thuộc phong trào Thơ mới, trong đó có Lửa
thiêng của Huy Cận. Tác giả luận án nhận thấy từ ngữ Thơ mới phong phú và đa
dạng, nhà thơ có cách sáng tạo từ ngữ trên cơ sở kết ghép, ví dụ như sự kết ghép
danh từ, động từ, tính từ trong một dòng thơ để tạo ra cách diễn đạt mới; hệ thống
từ vựng được lạ hóa; nhà thơ sử dụng từ láy như một phương thức biểu hiện để làm

tăng giá trị biểu cảm, giá trị tạo hình và hiệu quả hòa âm của ngôn ngữ thi ca.
16


[1tr.96]. Ngoài ra, tác giả cũng phân tích cú pháp Thơ mới và chỉ ra cú pháp Thơ
mới có sự kế thừa cú pháp thơ truyền thống. Để minh chứng cho đặc điểm này, tác
giả lấy việc Huy Cận sử dụng thành thạo thể thơ lục bát làm ví dụ. Theo tác giả
“Lục bát Huy Cận không mới nhưng cái tài của nhà thơ chính là diễn tả được giai
điệu trầm lắng, miên man, nỗi sầu thiên cổ. Câu thơ có sự kết hợp nhịp chẵn và lẻ
như một thứ tơ chùng và bước đi chầm chậm” [1, tr.107].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của Trần Khánh Thành, Mã Giang
Lân, Nguyễn Thị Kim Ửng hay La Nguyệt Anh đều có dành sự quan tâm nhất định
cho ngôn ngữ thơ Huy Cận. Tuy nhiên, từ vựng trong thơ Huy Cận vẫn chưa thực
sự được nhắc đến như một mảng riêng trong nghiên cứu của các tác giả này. Mặc dù
có nhắc đến từ vựng, nhưng phần lớn đó chỉ là những nhận xét chung chung, thêm
vào đó, chưa có tác giả nào quan tâm đến đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy
Cận trên phương diện từ loại.
Gần đây- năm 2017- tác giả Hữu Đạt công bố một công trình chuyên khảo
Tiến trình phát triển và đổi mới ngôn ngữ thơ Việt Nam bàn đến quá trình phát triển
và đổi mới ngôn ngữ thơ Việt Nam từ sau 1986. Tại công trình này, ngôn ngữ thơ
Huy Cận và ba nhà thơ hiện đại khác đã được nghiên cứu khá sâu từ hai phương
diện từ vựng và cú pháp. Có thể nói, cho đến thời điểm hiện tại, đây là công trình
nghiên cứu công phu nhất về Huy Cận từ phương diện ngôn ngữ học.
Xuất phát từ sự gợi mở của công trình nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn và
tiến hành nghiên cứu về đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy Cận trước và sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
1.4. Tiểu kết
Trong chương 1, chúng tôi điểm qua một số quan niệm khi định nghĩa về từ
nói chung, từ tiếng Việt nói riêng. Trên cơ sở lựa chọn một quan điểm mang tính khả
thi cho việc miêu tả và phân tích đặc điểm từ vựng trong thơ Huy Cận, chúng tôi coi

từ tiếng Việt “là đơn vị nhỏ nhất, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có
chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu. [12,
tr. 141]. Thêm vào đó, dựa trên kết quả phân chia từ vựng tiếng Việt của các nhà
nghiên cứu, chúng tôi khảo sát từ vựng tiếng Việt trong thơ Huy Cận theo 2 lớp từ cơ
17


bản: lớp thực từ gồm lớp từ định danh, lớp từ chỉ hành động, lớp từ chỉ tính chất và
lớp phụ từ đi kèm với thực từ.
Để có được các nhận định về phong cách thơ Huy Cận, chúng tôi đã tìm hiểu
và khái quát lại một số đặc điểm quan trọng nhất về phong cách nghệ thuật và ngôn
ngữ thơ. Đây là cơ sở lí luận giúp cho khảo sát và phân tích các tư liệu thu thập được.
Ngoài ra, chúng tôi cũng trình bày một số hiểu biết về tác giả Huy Cận, đồng thời
tổng hợp các công trình nghiên cứu thơ Huy Cận của các tác giả đi trước theo hai
khuynh hướng: nghiên cứu văn học và nghiên cứu ngôn ngữ học. Từ sự gợi mở của
những công trình đó, chúng tôi lựa chọn thực hiện nghiên cứu đặc điểm sử dụng từ
vựng trong thơ Huy Cận trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

18


×