Tải bản đầy đủ (.doc) (187 trang)

Pháp luật việt nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 187 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ HOÀNG YẾN

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN
TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ HOÀNG YẾN

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN
TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG

Chuyờn ngành : Luật Kinh tế
Mó số

: 603850

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cương

Hà nội – 2012



0


MỤC LỤC
Mục lục

2

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

4

MỞ ĐẦU

5

Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN

11

1.1

Khái niệm

11

1.1.1

Khái niệm đại diện


11

1.1.2

Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng

16

1.2

Phân loại

18

1.2.1

Đại diện theo pháp luật

19

1.2.2

Đại diện theo ủy quyền

20

1.3

Đặc điểm


26

1.3.1

Bên đại diện hành động với danh nghĩa bên được đại diện

26

hoặc với danh nghĩa của mình
1.3.2

Bên đại diện hành động vì lợi ích của bên được đại diện

28

1.3.3

Người đại diện hành động trong phạm vi đại diện

29

1.4

Vai trò và ý nghĩa của chế định đại diện

30

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ


34

ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG
2.1

Nguồn luật điều chỉnh đại diện trong quan hệ hợp đồng

34

2.2

Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện

36

trong quan hệ hợp đồng
2.2.1

Chủ thể đại diện trong quan hệ hợp đồng

36

2.2.2

Phạm vi đại diện trong quan hệ hợp đồng

54

2.2.3


Thời điểm xác lập, chấm dứt đại diện trong quan hệ hợp
đồng
Những tranh chấp thực tế liên quan đến đại diện trong

67

2.3

quan
1

73


hệ hợp đồng
2.3.1

73

2.3.2

Tranh chấp về chủ thể trong đại điện trong quan hệ hợp
đồng
Tranh chấp về xác định thời hạn ủy quyền

2.3.3

Tranh chấp về phạm vi đại diện

83


2.3.4

Tranh chấp về hình thức pháp lý của quan hệ đại diện

85

Chương 3: CƠ SỞ VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP HOÀN

88

82

THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ
HỢP ĐỒNG
3.1
3.2

Cơ sở hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp
đồng
Định hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện

88
90

trong quan hệ hợp đồng
3.2.1

Định hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ


90

hợp đồng
3.2.2

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan

91

hệ hợp đồng
KẾT LUẬN

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

103

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
CTCP

: Công ty cổ phần


CTHD

: Công ty hợp danh

CTTNHH

: Công ty trách nhiệm hữu hạn

DNTN

: Doanh nghiệp tư nhân

HTX

: Hợp tác xã

LCK

: Luật chứng khoán

LDN

: Luật doanh nghiệp

TGĐ

: Tổng giám đốc THT

: Tổ hợp tác

TTGDCK

: Trung tâm giao dịch chứng khoán

UBND

: Ủy ban nhân dân

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Trong cuộc sống, nhu cầu của con người về các lĩnh vực khác nhau
không ngừng tăng lên, theo đó sự chuyên môn hoá sản xuất, phân phối
các sản phẩm cũng hình thành và phát triển. Khi đó, để tự đáp ứng nhu cầu
của mình, giữa các chủ thể đã diễn ra sự trao đổi hàng hoá, các sản phẩm
dịch vụ dựa trên nền tảng là thiết lập nên các loại hợp đồng khác nhau. Như
vậy, Hợp đồng chính là nền tảng cho mọi giao dịch trong xã hội.
Tuy nhiên, do đặc tính xã hội nên mỗi chủ thể khi tồn tại trong xã hội
sẽ phải cùng lúc tham gia rất nhiều giao dịch khác nhau. Tự bản thân
họ không thể trực tiếp tham gia, thiết lập và thực hiện tất cả các hợp đồng.
Chính khi đó đã thúc đẩy một loại hoạt động đặc thù - hoạt động đại diện ra
đời, mà cụ thể hơn chính là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Bằng hoạt
động đại diện này, các chủ thể có thể dễ dàng hơn trong việc giải quyết và
đảm bảo thực hiện tổng hoà các giao dịch liên quan đến cuộc sống của họ.
- Chế định đại diện là một chế định rất rộng, bao gồm nhiều loại hình
đại diện khác nhau và được quy định trong rất nhiều các văn bản pháp luật.
Nhưng như đã trình bày ở trên, hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng
là loại đại diện diễn ra phổ biến hơn và có tầm quan trọng đặc biệt trong

cuộc sống hiện đại so các hoạt động đại diện khác. Và đồng thời, loại đại
diện này cũng mối quan hệ chặt chẽ với các chế định khác như: Chế định
hợp đồng, chế định bồi thường thiệt hại, các vấn đề liên quan đến công ty,.
….
- Các quy định pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp
đồng còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu xót. Đặc biệt khi Việt Nam đang trên
4


đà hội nhập như hiện nay, nhiều quy định pháp luật liên quan còn chưa thể
hiện được xu hướng chung của thế giới, chưa phù hợp với một số quan điểm
pháp lý phổ

5


biến, được nhiều nước trên thế giới ghi nhận và thực hiện. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong
quan hệ hợp đồng, từ đó rút ra những hạn chế, bất cập và đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết.
- Các tranh chấp liên quan đến đại diện trong quan hệ hợp đồng rất
phổ biển. Cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp thời để giải quyết và
hạn chế phần nào các tranh chấp liên quan.
Trên cơ sở những lý do trên, với đề tài “Pháp luật Việt Nam về đại diện
trong quan hệ hợp đồng” tác giả mong muốn luận văn sẽ nghiên cứu một
cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện
trong quan hệ hợp đồng, xem xét cụ thể các quy định pháp luật Việt Nam về
vấn đề này, từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện về những hạn chế, thiếu xót của
hệ thống pháp luật và đề xuất một một số giải pháp mang tính hoàn thiện
để phần nào giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật Việt Nam hiện

nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan hệ hợp đồng luôn là một đề tài được nhiều nhà khoa học
thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm. Hoạt động đại diện trong quan hệ
hợp đồng là một phần quan trọng của chế định hợp đồng, theo đó
cũng nằm trong những vấn đề cần nghiên cứu của các công trình, bài viết
liên quan đến đề tài hợp đồng. Ví dụ: một số sách, bài viết chuyên ngành
nghiên cứu về chế định hợp đồng như: “Pháp luật về hợp đồng” của TS
Nguyễn Mạnh Bách (1995), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam”
của PGS.TS Dương Đăng Huệ (2002), “Chế định hợp đồng kinh tế - Tồn tại
hay không tồn tại” của GS.TS Lê Hồng Hạnh (2003), “Một số vấn đề liên quan
đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp đồng” (2004), “Dự thảo Bộ luật
6


dân sự (sửa đổi) và vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng ở Việt Nam” của
PGS.TS Phạm Hữu Nghị

7


(2005), “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu,…. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về chế định
đại diện thì chưa có, chỉ có rất ít bài viết chuyên ngành về vấn đề này như:
“Một số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế” của Th.S Lê
Thị Bích Thọ, “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS Ngô Huy Cương,….. Và mới đây nhất là
Luận án tiến sĩ “Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt
Nam hiện nay” của Hồ Ngọc Hiển (tháng 5/2012) và một số khóa luận tốt
nghiệp của các cử nhân luật của trường Đại học Luật và Khoa Luật ĐHQGHN.
Có thể thấy, tuy vấn đề đại diện trong quan hệ hợp đồng không phải

là vấn đề mới, nhưng các công trình khoa học liên quan chỉ dừng lại ở
nghiên cứu khái quát, nghiên cứu vấn đề này trong cái tổng thể, lớn hơn là
quan hệ hợp đồng, chế định đại diện chung hay trong phạm vi hẹp hơn về
chế định đại diện cho thương nhân trong Luật thương mại. Như vậy, trên
thực tế chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn
diện, mang tính hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện
trong quan hệ hợp đồng nhằm đưa ra cơ sở khoa học, phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này. Tuy vậy, các công
trình nói trên là những tài liệu quý giá cho tác giả tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu của mình.
Luận văn này sẽ nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong quan hệ hợp
đồng, và từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về lĩnh vực này.
3. Mục đích - nhiệm vụ của đề tài
8


- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong
quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất định hướng các giải
pháp

9


hoàn thiện pháp luật về đại diện nói chung và về đại diện trong quan hệ
hợp đồng nói riêng, góp phần làm cho những quy định pháp luật về đại diện
trong quan hệ hợp đồng có tính thực tiễn cao hơn, giải quyết và hạn chế tốt
hơn các tranh chấp liên quan và góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

- Nhiệm vụ:
* Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định đại diện
* Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về đại diện
trong quan hệ hợp đồng. Từ đó đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điểm
của những quy định pháp luật cụ thể này.
* Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp
đồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những vấn đề lý luận khái
quát về chế định đại diện; những quy định pháp luật cụ thể về đại diện
trong quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại; và tình hình thực tiễn
hoạt động áp dụng pháp luật về lĩnh vực này.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu các khía
cạnh của đại diện trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu về đại diện cho các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh
doanh, thương mại. Trên cơ sở những nghiên cứu này sẽ đưa ra những nhận
định sâu sắc, từ đó góp phần vào việc phát triển quan hệ hợp đồng (có hoạt
động đại diện) trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

10


Chế định đại diện là một chế định rất rộng, bao gồm nhiều loại đại
diện
khác nhau như: Đại diện trong hợp đồng (có thể là hợp đồng dân sự, hợp
đồng

11



trong kinh doanh thương mại,...), đại diện tham gia tố tụng, đại diện theo
pháp luật của người chưa thành niên, đại diện thương nhân… và được quy
định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: BLDS 2005, Luật thương
mại
2005, Luật doanh nghiệp 2005…. Vì vậy việc giới hạn phạm vi nghiên cứu
nhằm hạn chế việc mở rộng đối tượng nghiên cứu của luận văn, tránh sự
dàn trải, không tập trung. Luận văn giới hạn nghiên cứu chỉ ở hoạt động đại
diện trong quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại và những quy định
pháp luật Việt Nam về vấn đề này, vì theo tác giả, đại diện trong quan hệ
hợp đồng là loại hoạt động được áp dụng rất nhiều trong thực tế và theo đó
thực trạng của nó rất đa dạng, cũng như rất nhiều tranh chấp phát sinh
từ hoạt động này (nhiều hơn các loại hoạt động đại diện khác). Chính vì
vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể về lý luận cũng như thực tiễn của
hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
và các quy định pháp luật về lĩnh vực này từ đó đưa ra những nhận định
mang tính lý luận và những biện pháp mang tính thực tiễn là một việc làm
rất cần thiết.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
Phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh luật học, phương pháp logic và lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với
thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
12



- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
chế định đại diện và cụ thể là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Từ đó luận
giải về một số những vấn đề cơ bản và đưa ra cách nhìn mới về những vấn đề
này.

13


- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật Việt Nam điều
chỉnh về đại diện trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở chỉ ra những điểm
bất cập, hạn chế, luận văn khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tạo ra một hành lang pháp lý an toàn
cho quan hệ hợp đồng (có hoạt động đại diện) cũng như hạn chế phần nào
những tranh chấp liên quan có thể xảy ra.
- Trên cơ sở nghiên cứu xu hướng phát triển và thực tiễn áp dụng
pháp luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở một số nước
và Việt Nam, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở Việt Nam.
Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái luận về chế định đại diện
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về Đại diện trong quan hệ
hợp đồng
Chương 3: Cơ sở và định hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật về Đại
diện trong quan hệ hợp đồng
Trước khi đi vào nội dung chính của Luận văn, tác giả thống nhất về
mặt sử dụng thuật ngữ ngắn gọn để thuận tiện cho quá trình phân tích và
luận giải. Thuật ngữ “hợp đồng” dùng thay cho “hợp đồng trong kinh doanh,
thương mại”; thuật ngữ “đại diện trong quan hệ hợp đồng” dùng thay cho

“đại diện trong quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại”;
thuật ngữ “Bộ luật dân sự” thay cho “Bộ luật dân sự 2005”; thuật ngữ “Luật
thương mại” thay cho “Luật thương mại 2005”.
14


Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN
Cùng với sự tiến bộ, phát triển không ngừng của loài người, con người
ngày càng mở rộng hơn nữa về các loại hình quan hệ xã hội. Và các quan hệ
về kinh tế thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Theo guồng quay phát
triển kinh tế, một cá nhân chủ thể hay một tổ chức để có thể duy trì sự tồn
tại của mình và thúc đẩy hơn nữa các tiềm năng bản thân, họ phải tham gia
cùng lúc nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Có những quan hệ xã hội đòi
hỏi phải do chính chủ thể trong quan hệ xác lập. Những cũng có những quan
hệ có thể hình thành mà không cần thiết chính các chủ thể phải tự mình
tham gia. Đây chính là một nét thể hiện sự nhạy bén của xã hội nói chung và
nền kinh tế nói riêng.
Với những quan hệ xã hội phải do chính các chủ thể tự mình xác lập,
tác giả sẽ không đưa ra bàn luận trong cuốn Luận văn này. Nội dung mà tác
giả muốn hướng đến đó là những quan hệ xã hội mang tính linh hoạt cao, thể
hiện sự kết hợp một cách hiệu quả giữa các chủ thể thông qua một hình
thức pháp lý, một công cụ pháp lý hữu hiệu là quan hệ đại diện. Có phải quan
hệ đại diện diễn ra một cách phổ biến, tùy hứng và được các bên chủ thể
lựa chọn ngẫu nhiên không? Câu trả lời sẽ dần được giải đáp trong các
phần nội dung khác nhau mà tác giả sẽ trình bày dưới đây trong nội dung
cuốn Luận văn này.
Trước hết, để có thể hiểu sâu sắc về quan hệ đại diện, các nội dung
của đại diện hay đơn giản chỉ là để hiểu đại diện là gì, Luận văn sẽ trình
bày về nội dung đầu tiên đó là Khái luận về Đại diện.

1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm đại diện
15


Trong đời sống xã hội nói chung và đời sống dân sự nói riêng, trong
phần lớn quan hệ pháp luật các chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện các
giao dịch.

16


Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là nguyên nhân khách
quan hoặc chủ quan, các cá nhân, tổ chức không thể tự mình tham gia vào các
giao dịch nhất định. Đó là khi cá nhân gặp các vấn đề về sức khỏe, hay vì một
số lý do do đặc thù công việc của cá nhân, cũng có thể xuất phát từ yêu cầu
công việc cần thực hiện đòi hỏi trình chuyên môn chuyên biệt,…. Hay xuất
phát từ nguyên nhân chủ thể không thể đảm bảo điều kiện để tham gia các
giao dịch theo quy định của pháp luật như: Người chưa thành niên, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự,…. Lúc này, họ cần đến sự hỗ trợ về mặt chủ
thể để thay mặt họ tham gia vào các quan hệ pháp luật. Hay chính là họ sử
dụng những “người giúp đỡ” thực hiện hành vi với bên thứ ba “vì họ”, “theo
tài khoản của họ” như những “người được ủy quyền” hoặc “trong lợi ích của
họ” [32]. Và pháp luật đã tạo ra một công cụ pháp lý hữu hiệu để giải quyết
vấn đề này, đó là chế định đại diện.
Đại diện là một chế định lớn, xuyên suốt được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật thực định, và được quy định cụ thể nhất
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005. Mở rộng tầm nhìn ra hệ thống văn bản
pháp luật của các nước khác trên thế giới, chúng ta sẽ thấy những cách nhìn
nhận, quy định có phần khác biệt của các Bộ luật dân sự lớn về khái niệm đại

diện.
Mặc dù trong những BLDS này không đưa ra khái niệm đại diện một
cách trực tiếp. Nhưng qua cách quy định gián tiếp ta cũng có thể hiểu
được đại diện là gì. Trong BLDS Pháp quy định về một số nội dung của hợp
đồng ủy quyền, tại điều 389-3 có đưa ra “người quản lý theo pháp luật đối
với tài sản của người chưa thành niên đại diện cho người chưa thành niên
trong mọi giao dịch dân sự”, hay tại điều 1984 “hợp đồng ủy quyền là hợp
đồng trong đó một người trao cho người khác quyền thực hiện một công
17


việc nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền [2]. Qua những quy định
này có thể thấy theo tinh thần của BLDS Pháp thì đại diện chính là việc một
người thay người khác thực hiện công việc của người đó, vì lợi ích và nhân
danh người đó.

18


Cùng chung với quan điểm này, trong BLDS Thái Lan 1995 cũng đưa ra
quy định: “Hợp đồng uỷ quyền là một hợp đồng mà trong đó một người gọi
là người thụ uỷ được quyền hành động cho một người khác gọi là người chủ
uỷ và người đó chấp thuận làm như vậy” [3].
Tuy không đưa ra một khái niệm cụ thể về hoạt động đại diện nhưng
các quy định kể trên đã thể hiện được tinh thần, nội dung cốt lõi của khái
niệm đại diện. Không phải là ngoại lệ, cùng với tinh thần đó BLDS Việt Nam
2005 đã đưa ra khái niệm cụ thể về đại diện: “Đại diện là việc một người (sau
đây là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây là
người được đại diện) xác lập và thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện”.

Từ khái niệm đại diện được quy định trong BLDS Việt Nam 2005 và
những quan điểm về đại diện được thể hiện trong các BLDS lớn, ta có thể rút
ra khái niệm đại diện: Đại diện là việc một người (người đại diện) thay mặt
người khác (người được đại diện) thực hiện một số hành vi nhất định vì lợi
ích hợp pháp và trong sự cho phép của người đó.
Từ những phân tích khái niệm đại diện trên có thể nhận định Đại
diện là một quan hệ pháp lý được cấu thành từ nhiều quan hệ pháp lý
khác nhau. Cụ thể:
1. Quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện: Đây là quan hệ
“nội bộ”, không có hiệu lực pháp lý đối với bên ngoài.
2. Quan hệ pháp lý giữa người đại diện và người thứ ba trong quan hệ
giao dịch cũng là quan hệ “nội bộ” mang tính phụ thuộc, phái sinh từ quan
hệ thứ nhất.

19


3. Quan hệ giữa người được đại diện và người thứ ba là quan hệ chủ yếu,
phát sinh từ giao dịch do người đại diện xác lập. [13, tr. 292]

20


Qua ba quan hệ pháp lý cấu thành kể trên, có thể thấy rõ nội dung
của một quan hệ đại diện.
- Quan hệ thứ nhất đề cập đến khía cạnh tương tác về quyền và nghĩa
vụ giữa người đại diện và người được đại diện. Việc người được đại diện giao
cho người đại diện những “công việc” gì, phạm vi công việc đến đâu hay người
đại diện được hưởng những quyền lợi gì từ việc thực hiện đại diện là yếu tố
“nội bộ”, là nội dung chỉ tác động đến người đại diện và người được đại diện,

hoàn toàn không ảnh hưởng đến bên ngoài, đến các chủ thể khác. Bên thứ ba
khi giao kết hợp đồng với người được đại diện thông qua người đại điện
không cần biết và cũng không có nghĩa vụ phải biết giữa người được đại diện
và người đại diện thỏa thuận những nội dung gì. Điều duy nhất bên thứ ba
cần quan tâm đó là người đại diện có “quyền hạn” như thế nào trong giao
dịch với mình.
- Quan hệ thứ hai là một quan hệ phái sinh từ quan hệ thứ nhất.
Nếu như trong quan hệ thứ nhất, người được đại diện giao cho người đại
diện những “công việc” cụ thể và phạm vi của những công việc đó, thì quan
hệ thứ hai chính là sự cụ thể hóa những nội dung đó của quan hệ thứ nhất.
Mọi hoạt động nằm trong quan hệ pháp lý thứ hai sẽ diễn ra theo giới hạn
và nội dung cụ thể được thỏa thuận trong quan hệ pháp lý thứ nhất. Tuy
nhiên, thực tế luôn luôn đa dạng. Và việc quan hệ pháp lý thứ hai diễn ra
vượt quá phạm vi mà quan hệ pháp lý thứ nhất vạch ra là điều hoàn toàn có
thể xảy ra. Lúc này, sự tương tác giữa quan hệ pháp lý thứ nhất và quan hệ
pháp lý thứ hai sẽ dẫn đến sự xuất hiện của quan hệ pháp lý mấu chốt nhất quan hệ pháp lý thứ ba.
- Quan hệ pháp lý thứ ba - Quan hệ giữa người được đại diện và người
thứ ba là quan hệ mấu chốt, cần được quan tâm nhất. Có thể nhậ n định
21


như vậy bởi lẽ bản chất của hoạt động đại diện là việc một người “thực hiện
thay” người khác một công việc nhất định đối với người thứ ba. Và hậu
quả cần

22


quan tâm nhất phát sinh từ hoạt động đại diện chính là người được đại diện
và người thứ ba sẽ có trách nhiệm với nhau như thế nào từ hoạt động đại

diện của người đại diện. Chứ không phải là người đại diện sẽ có nghĩa vụ gì
với bên thứ ba vì người đại diện chỉ là “làm thay” mà thôi. Hay có thể nói
theo một cách khác, chính việc một người xác lập một giao dịch dân sự trong
phạm vi thẩm quyền cho phép lại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
quyền, nghĩa vụ dân sự của người khác (người được đại diện) là điểm đặc
biệt, là cơ sở phân biệt chế định đại diện với các chế định pháp lý tương tự
khác.
Có thể thấy rõ sự khác biệt này của chế định đại diện qua những
so sánh cụ thể sau:
- Khác với người đại diện, người nhận bán hàng ký gửi, đại lý dù xác
lập giao dịch cho người ký gửi, người đại lý nhưng nhân danh mình, không
phải nhân danh người ký gửi, người đại lý. Vì vậy, giữa người ký gửi, người
đại lý và người mua không có quan hệ pháp lý. Mọi quyền và nghĩa vụ dân sự
phát sinh trong loại hợp đồng này đều chỉ phát sinh đối với người nhận
ký gửi, người nhận đại lý và người mua.
- Đối với giao dịch vì lợi ích của người thứ ba thì các bên cũng nhân
danh mình xác lập, không phải nhân danh người thứ ba. Hơn nữa, trong
một số trường hợp, người xác lập giao dịch vì lợi ích của người thứ ba cũng có
các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó.
- Khác với đại diện, người đưa tin không xác lập giao dịch mà chỉ
truyền đạt ý chí của một bên đến đối
tác.
- Nếu không có hợp đồng ủy quyền thì bản thân việc tư vấn ký kết hợp
đồng không phải là đại diện. Người thực hiện dịch vụ tư vấn chỉ hỗ trợ về mặt
23


×