Tải bản đầy đủ (.doc) (192 trang)

Pháp luật việt nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 192 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––– o0o –––

NGUYỄN THỊ THU HÀ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––– o0o –––

NGUYỄN THỊ THU HÀ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


TS. DOÃN HỒNG NHUNG

Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP ...................................................................................... 9
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập doanh nghiệp
theo pháp luật Việt Nam ..................................................................................... 9
1.1.1 Khái niệm góp vốn ................................................................................................. 9
1.1.2 Bản chất pháp lý của góp vốn
.............................................................................12
1.2 Khái niệm, phân loại tài sản góp vốn ............................................................ 13
1.2.1 Khái niệm tài sản góp vốn
...................................................................................13
1.2.2 Phân loại tài sản góp vốn
.....................................................................................17
1. 3 Lƣợc sử pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp ............. 19
1.4.1 Giai đoạn trước năm 1986
..................................................................................19
1.4.2 Từ năm 1986 đến nay
..........................................................................................21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN ........ 24
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP .................................................................... 24

2.1 Pháp luật thực định về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam ...... 24
2.1.1 Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam
...................................24
2.1.2 Hình thức góp vốn thành lập doanh
nghiệp......................................................28
2.1.3 Thủ tục góp vốn thành lập doanh
nghiệp...........................................................35
2.2 Áp dụng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam ........ 51
2.2.1 Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về góp vốn
thành lập doanh nghiệp
.................................................................................................51


2.2.2 Những khó khăn, tồn tại trong hoạt động góp vốn thành lập doanh
nghiệp ..55
2.2.3 Nguyên nhân của những khó khăn và tồn tại
...................................................68
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN ........ 70
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ......................................... 13


3.1 Nhu cầu góp vốn đầu tƣ sản xuất kinh doanh trong nền KTTT tại Việt Nam . 70
3.2 Những định hƣớng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động góp vốn
thành lập doanh nghiệp.............................................................................. 72
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc góp vốn thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam ............................................................................... 73
3.3.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp
........73
3.3.2 Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Nhà nước
..........................................78

3.3.3 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho
người
dân và nâng cao văn hoá pháp lý doanh nghiệp.
........................................................81
3.4 Hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp .......................... 82
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 86
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 92


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS năm 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

Công ty THHH

Công ty Trách nhiệm hữu hạn

Công ty THHH 1

Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Công ty THHH 2

Công ty Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

KTTT

Kinh tế thị trường


LDN năm 1999

Luật Doanh nghiệp năm 1999

LDN năm 2005

Luật Doanh nghiệp năm 2005


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những mốc quan trọng trong lịch sử pháp luật về doanh nghiệp
của Việt Nam là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp được Quốc hội khoá X, kỳ họp
thứ 5 thông qua ngày 12/6/1999. Luật Doanh nghiệp năm 1999 thể hiện sự hợp
nhất Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, hướng tới
những cải cách tương đối toàn diện về doanh nghiệp đánh dấu thời kỳ mở đầu
thực hiện chủ trương Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước cùng với việc hội
nhập quốc tế.
Ở mức phát triển toàn diện hơn, Luật Doanh nghiệp năm 2005 được
Quốc Hội khoá X kỳ họp thứ 10 thông qua đã quy định đầy đủ hơn, rõ nét hơn về
các vấn đề liên quan đến việc góp vốn thành lập, kinh doanh và các hoạt động khác
của doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và
những quy định có ý nghĩa hành lang để bảo vệ nhà đầu tư, các chủ thể tham gia
kinh doanh… Những quy định mang tính ưu việt đó đã khẳng định sự ra đời của
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 góp một phần không nhỏ vào các thành tựu
chung của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế.
Có thể nói, cùng với quá trình đổi mới kinh tế đất nước là sự không ngừng ra
đời và phát triển các loại hình doanh nghiệp. Sự phát triển như vũ bão các loại hình
doanh nghiệp đó đã kéo theo những tranh chấp trong và xung quanh doanh

nghiệp. Trong đó tranh chấp về vấn đề góp vốn, tài sản góp vốn để thành lập doanh
nghiệp xảy ra tương đối nhiều. Mặt khác, pháp luật về doanh nghiệp luôn luôn
được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, văn hoá pháp lý về
doanh nghiệp của người dân Việt Nam còn thấp và hoạt động xét xử còn nhiều
lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp. Chính vì những lý do đó, việc
nghiên cứu pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp là luôn cần
thiết cho cả
1


công tác lý luận và thực tiễn.

2


Bên cạnh pháp luật về doanh nghiệp, chúng ta không thể không nhắc tới
sự ra đời và phát triển của Pháp luật Dân sự, Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật
đất đai… đã góp phần không nhỏ cho việc phát triển pháp luật về doanh nghiệp
nói
riêng và việc phát triển kinh tế của đất nước nói
chung.
Góp vốn thành lập doanh nghiệp không phải là một khía cạnh mới, nhưng
trong hệ thống các quy định pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, khía
cạnh này tuy đã được quy định nhưng vẫn chưa được đầy đủ, chi tiết và chặt
chẽ dẫn tới nhiều tranh cãi và hiểu sai, hiểu không toàn diện. Mặc dù Bộ Luật Dân
sự năm 2005 với tư cách là một đạo luật gốc cho các ngành luật trong đó có
Luật Doanh nghiệp, nhưng bản thân Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về các vấn
đề liên quan đến việc góp vốn thành lập doanh nghiệp vẫn còn có nhiều quan
điểm chưa thống nhất.
Hơn nữa, trong nền KTTT, lĩnh vực kinh tế tư nhân ngày càng được ưu tiên

phát triển. Việc làm ăn kinh doanh của người dân được thực hiện dưới hình thức
doanh nghiệp (pháp nhân) là một điều tất yếu và đang được khuyến khích thúc
đẩy. Trong bối cảnh đó, góp vốn kinh doanh trong nền KTTT ngày càng trở nên phức
tạp hơn. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về góp vốn giúp cho
các chủ thể kinh doanh hiểu biết thêm kiến thức pháp luật và dễ dàng quyết định
việc góp vốn của mình một cách an toàn và hiệu quả hơn. Mặt khác, Nền KTTT xuất
hiện nhiều yếu tố kinh tế mới ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp như vấn đề
“tài sản ảo”, “giá trị thương hiệu”, ...những yếu tố này cần phải được hiểu rõ và
phải được pháp luật điều chỉnh theo xu hướng thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Góp vốn thành lập doanh nghiệp tạo điều kiện cho phát huy nhiều năng lực
sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp kinh doanh
làm giàu cho cá nhân, tổ chức. Dân giàu, nước mạnh là mục tiêu lớn mà Nhà nước
ta luôn quan tâm.

2


Như vậy, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp là mảng đề tài đã và
đang được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Việc nghiên cứu tổng quát các
quy định pháp luật về vốn, góp vốn, tài sản góp vốn...giúp cho ta nhận thức rõ hơn
các quan điểm, quan niệm về các vấn đề này một cách có hệ thống và qua đó
áp

3


dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Qua việc nghiên cứu các quy định này,
đặc biệt là quy định về tài sản góp vốn, pháp luật Việt Nam cần điều chỉnh theo xu
hướng đa dạng hóa các hình thức tài sản góp vốn.Tuy không còn là mới mẻ trong
công tác lý luận và thực tiễn cuộc sống, nhưng để nghiên cứu một cách toàn diện,

đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đất nước phát triển theo xu hướng toàn cầu
hoá nền kinh tế, thì việc nghiên cứu khía cạnh góp vốn thành lập doanh nghiệp
càng trở nên cần thiết.
Xuất phát từ các lý do nêu trên, đề tài nghiên cứu “Pháp luật Việt Nam về
góp vốn thành lập doanh nghiệp” tác giả nghiên cứu cố gắng đóng góp một phần
các yêu cầu mà lý luận và thực tiễn đang đặt ra.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam các lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp đã được nhiều nhà
khoa học, giới luật học và các thương gia quan tâm. Trong những năm gần đây đã
có nhiều hội thảo, nhiều bài báo, đề tài khoa học nghiên cứu về các khía cạnh khác
nhau của doanh nghiệp như doanh nghiệp với nền kinh tế thị trường, văn hoá
pháp lý trong doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, hợp đồng thành lập công ty,…
Những người nghiên cứu về doanh nghiệp nói chung cũng như pháp luật về doanh
nghiệp nói riêng chủ yếu từ những năm 1990 trở lại đây có xu hướng ngày
càng nhiều.
Trong những công trình nghiên cứu đó, tiêu biểu phải kể đến các tác phẩm
như:
Phạm Duy Nghĩa (1990), “Các khía cạnh Luật công ty và luật bảo vệ sở hữu
trí tuệ của quá trình chuyển giao công nghệ quốc tế thông qua doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài”, Luận án PTS KH luật học. Luận án đã chỉ ra bản chất pháp
lý của các thoả thuận góp vốn thành lập công ty, những nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng góp vốn công nghệ vào doanh nghiệp, liên doanh quốc tế, cách thức
thoả thuận về giá trị công nghệ doanh nghiệp liên doanh.

3


Nguyễn Ngọc Điện (1999), “Nghiên cứu về tài sản trong pháp luật dân sự
Việt Nam”, sách chuyên khảo. Cuốn sách có thể được coi là một trong những dấu

ấn đầu tiên nghiên cứu pháp luật về tài sản một cách có hệ thống trong lịch sử
nghiên

4


cứu lập pháp tại Việt Nam. Việc hiểu biết rõ về phân loại tài sản có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Ngô Huy Cương (2004) “Hợp đồng góp vốn thành lập công ty” Luận án tiến
sỹ luật học. Luận án đã cho ta cái nhìn tổng quát, có hệ thống lý luận pháp luật về
Hợp đồng thành lập công ty hiện nay ở Việt Nam. Luận án cũng đã phân tích và
đánh giá một cách tương đối có hệ thống hiện trạng pháp luật về hợp đồng thành
lập công ty cũng như đưa ra những định hướng giải pháp cụ thể nhằm xây dựng
chế định hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam hiện nay và cách thức xây dựng
chế định này, những nội dung pháp lý chủ yếu và việc pháp điển hoá nó trong Bộ
Luật dân sự năm 2005.
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), “Công ty, vốn, quản lý và
tranh chấp theo luật doanh nghiệp năm 2005” Cuốn sách đáp ứng được các yêu
cầu mới từ khi Luật doanh nghiệp năm 2005 ban hành như: Những khái niệm và
định chế đã tồn tại ở các nước đã khá lâu mà nay do nhu cầu hội nhập chúng ta bị
buộc phải đem vào; việc thực hiện Luật Công ty kể từ năm 1990 đến nay đã để lại
một số thực tiễn mà bây giờ có thể trình bày để độc giả có thông tin áp dụng trong
hoàn cảnh của mình; Cuốn sách cũng đưa ra những sửa đổi của Luật doanh
nghiệp năm
2005 so với Luật doanh nghiệp năm 1999.
Phạm Tuấn Anh (2009), “Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt
Nam” Luận văn thạc sỹ luật học. Luận văn đã nghiên cứu một cách khái quát, có hệ
thống các vấn đề pháp lý về vốn góp, hình thức góp vốn, thực trạng pháp luật Việt
Nam về vấn đề góp vốn... dựa trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành về góp
vốn thành lập doanh nghiệp và trên cơ sở tham khảo pháp luật của một số nước về

vấn đề này, Luận văn cũng đã đưa ra được một số định hướng cơ bản nhằm giải
quyết tồn tại của pháp luật về góp vốn thành lập công ty tại Việt Nam.
Hồng Vân (2009), “Góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam”, Luận
4


văn thạc sỹ Luật học. Luận văn đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận của pháp luật

5


về góp vốn nói chung và pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất nói riêng.
Qua đó, Luận văn đã đánh giá một cách toàn diện pháp luật Việt Nam về góp vốn
bằng quyền sử dụng đất. Luận văn đã đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện
các quy định pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất; Hoàn thiện các quy
định pháp luật về thị trường bất động sản ở Việt Nam; Nâng cao năng lực quản lý
Nhà nước về đất đai; Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc góp vốn bằng quyền sử
dụng đất tại Việt Nam.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu chủ yếu được công bố dưới hình thức
các bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học chuyên ngành, sách chuyên khảo. Trong số
đó phải kể đến các bài viết tiêu biểu của TS. Ngô Huy Cương, “Những bất cập về
khái niệm tài sản, phân loại tài sản của Bộ Luật dân sự năm 2005 và định hướng
cải cách”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn phòng Quốc Hội số 11 năm 2009, trang
21-29; Doãn Hồng Nhung (2003) “Một số ý kiến về góp vốn là giá trị quyền sử
dụng đất trong doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam”, Học viện Tư pháp, Tạp chí
Ngề luật, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp, chuyên đề cải cách tư pháp số
6 (trang 62-65); Lê Thị Thu Thủy (2003) “Thế chấp quyền sử dụng đất trong vay
vốn ngân hàng: những vướng mắc cần được tháo gỡ”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, Văn phòng Quốc hội số 6 năm 2004; Vũ Xuân Tiền, “Góp vốn bằng giá trị

thương hiệu”, Websiet http:// www.bsc.com.vn/new/2010/6/19;
Như vậy, pháp luật về doanh nghiệp là mảng đề tài được nhiều giới khoa
học quan tâm nghiên cứu. Trên cơ sở thừa kế những thành quả nghiên cứu của các
công trình đi trước, luận văn đi vào nghiên cứu sâu khía cạnh góp vốn thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu là góp một phần xây dựng cơ sở lý luận
về vấn đề góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời kiến nghị một số
giải pháp cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề
này.
5


Với mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
doanh nghiệp. Luận văn phân tích, bình luận nhằm làm rõ các yếu tố chủ yếu của
các khái niệm như vốn, góp vốn, tài sản góp vốn.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của pháp luật hiện
hành về góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam như chủ thể góp vốn, hình
thức góp vốn, thủ tục góp vốn.
Ba là, kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá đất nước.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Góp vốn thành lập doanh nghiệp là một đề tài có phạm vi rộng nên trong
khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, chúng tôi sẽ tập trung vào nghiên cứu các đặc thù
của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp như chủ thể góp vốn, thủ tục góp
vốn, hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp đối với loại hình doanh nghiệp là:

Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh theo Luật doanh
nghiệp Việt Nam năm 2005. Luận văn không nghiên cứu pháp luật về góp vốn đối
với các loại hình doanh nghiệp đặc thù như hợp tác xã, văn phòng Luật sư, các tổ
chức tín dụng hoặc các mô hình góp vốn liên doanh, liên kết khác.
Trong từng nội dung nghiên cứu, luận văn đưa ra nhận xét, đánh giá và kiến
nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về góp vốn thành lập doanh
nghiệp. Đặc biệt trong các hình thức góp vốn, luận văn đi sâu hơn phân tích hình
thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên nền tảng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu truyển thống kết hợp với phương
pháp nghiên cứu hiện đại, như: phương pháp thống kê tổng hợp, phương pháp so
sánh phân tích, phương pháp thu thập tài liệụ,… để hệ thổng, khái quát, phân
tích,
6


tổng hợp, làm rõ và bình luận những nội dung nghiên cứu chính của đề tài, nằm
đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất.

6. Những đóng góp mới của luận văn
Pháp luật việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp là một mảng đề
tài rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực tài sản, đất đai, đầu tư, thương mại,... Khi
tiếp cận nghiên cứu, luận văn đi sâu vào những vấn đề có tính chất nguyên tắc
và các
nội dung mang tính đặc thù.
Dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu đó, luận văn đã nghiên cứu để làm sáng tỏ
hơn một số vấn đề về lý luận và thực tiễn như: (i) lý luận về các khái niệm vốn,
góp vốn, tài sản, quyền tài sản, quyền sở hữu. Từ những khái niệm cơ bản này,

luận văn đã tiếp cận thực trạng các quy định pháp luật về góp vốn. Trong đó, luận
văn đi sâu hơn phân tích, bình luận một số hình thức góp vốn đang có xu hướng
phát triển phổ biến hiện nay nhưng các quy định pháp luật về nó chưa đầy đủ
và còn nhiều tranh cải như: hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sử dụng đất, hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, hình thức
góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng thương hiệu; (ii)

luận văn đã chỉ ra các

nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên như do chưa có quan điểm thống nhất
về vị trí vai trò cũng như cần làm rõ một số khái niệu về tài sản được nêu trong
của Bộ luật dân sự năm
2005; một số vấn đề về góp vốn thành lập doanh nghiệp quy định trong luật
doanh
nghiệp năm 2005 còn nhiều hạn chế như quy định về các hình thức, tài sản
góp
vốn, việc định giá tài sản góp vốn và các vấn đề về tài sản khi giải thể, phá sản
doanh nghiệp,…(iii) luận văn cũng đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục
thực trạng còn tồn tại của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp nói
chung, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất
7


nói riêng như giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật, giải pháp về
tăng cường năng lực cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến góp vốn
thành lập doanh nghiệp; giải pháp nâng cao sự hiểu biết pháp luật của người dân
và văn hóa
pháp lý của doanh nghiệp.

8



7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương
sau: Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn thành lập doanh
nghiệp. Chương II. Thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp
tại Việt nam. Chương III. Hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh
nghiệp tại Việt Nam.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH
LẬP DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập doanh
nghiệp theo pháp luật Việt Nam
1.1.1 Khái niệm góp vốn
Trước khi nghiên cứu các quy chế về góp vốn, chúng ta cùng tìm hiểu các
quan điểm về vốn trong sản xuất kinh doanh đã được đề cập từ trước tới nay:
Theo quan điểm của lý thuyết kinh tế cổ điển và tân cổ điển: Vốn bao gồm
các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (máy móc, thiết bị,
phương tiện, nhà xưởng sản xuất, văn phòng, nguyên vật liệu….). Nghĩa là vốn
được nhìn nhận dưới góc độ tài sản là hiện vật là chủ yếu. [31; Tr518-520]
Đứng trên quan điểm của nền kinh tế thị trường: Coi doanh nghiệp cũng là
hàng hoá. Giá trị của doanh nghiệp gồm giá trị hữu hình và giá trị vô hình. [65]
Như vậy, các quan niệm trên về vốn chỉ thể hiện được vai trò của vốn trong
những điều kiện lịch sử cụ thể, với các yêu cầu nghiên cứu cụ thể. Nhưng đứng
trên phương diện pháp lý về quản lý vốn hiện nay, các quan điểm này chưa đáp
ứng được yêu cầu về quản lý và hoạch toán vốn đối với doanh nghiệp.

Chúng ta có thể xây dựng hoặc quan niệm về vốn trong nền kinh tế thị
trường theo xu thế hội nhập thì vốn phải được hiểu bao hàm cả phương diện pháp
lý và phương diện kinh tế.
Về phương diện pháp lý: Vốn được hiểu và gắn liền với quyền và trách
nhiệm của chủ thể góp vốn, vốn có thể là một điều kiện bắt buộc để thành lập và
kinh doanh trong một số ngành nghề kinh doanh nhất định.
Về phương diện kinh tế: Vốn là một yếu tố không thể thiếu tham gia vào quá
trình kinh doanh dưới dạng tài sản để mang lại giá trị thặng dư; Vốn là một trong
9


những nhân tố quan trọng hàng đầu trong kinh doanh và sản xuất. Nếu không
gắn kết vốn với các yếu tố khác của công ty thì công ty mới không thể kinh
doanh và sản xuất tốt được. Khi tiếp cận nghiên cứu từ góc độ tài chính, vốn là
tổng số tiền hay tổng số tài sản do các cổ đông, thành viên đóng góp và họ được
nhận cổ tức
chia theo tỷ lệ góp vốn hoặc cổ phiếu mà họ đầu
tư.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế bao cấp, vốn không được phân biệt theo
tính chất pháp lý và nhìn nhận ở phương diện kinh tế một cách rõ nét, vốn
được hiểu và được gọi theo cách gắn liền với chủ thể quản lý và cung cấp như: Vốn
ngân sách nhà nước, vốn vay ngân hàng, vố tự có,...
Bước sang thời kỳ kinh tế mở cửa (sau năm 1986), với chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng và
Nhà nước đã quan tâm đến nền kinh tế tư nhân. Song nhìn chung trong thời
gian đầu vẫn mang màu sắc quan điểm về vốn như thời kỳ bao cấp. Luật Công ty và
Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1991 ra đời đề ra vốn pháp định cho mọi ngành
nghề kinh doanh. Vốn là điều kiện và phương tiện bắt buộc để kinh doanh.
Không có vốn, doanh nghiệp không thể thành lập. Việc pháp luật quy định như vậy
cũng xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu như đã có nhiều xí nghiệp, doanh

nghiệp ra đời mà không có đồng vốn nào, chỉ có tên gọi và con dấu để hoạt động,
ký kết rất nhiều hợp đồng rồi lâm vào tình trạng nợ nần, phá sản, gây thiệt hại kinh
tế cho nhiều người. Luật Công ty năm 1991 ra đời đã quy định vốn là điều kiện và
phương tiện kinh doanh nhằm ngăn ngừa hành vi lừa đảo trong kinh doanh. [13;
tr124-126]
Quan niệm coi đồng vốn là điều kiện và phương tiện kinh doanh như vậy
dẫn đến hạn chế quyền tự do kinh doanh cũng như nhu cầu kinh doanh của người
dân trong đời sống dân sự. Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 1999 ra đời đã bãi bỏ
vốn pháp định. Việc bãi bỏ quy định này đã đáp ứng được lòng dân, phù hợp với
10


đường lối chủ trương của Đảng. Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 vẫn giữ
nguyên quan điểm đó ngoại trừ một số ngành nghề bắt buộc phải có vốn pháp
định để bảo đảm sự an toàn đối với xã hội như ngành kinh doanh vàng, chứng
khoán…Người

11


thành lập công ty chỉ cần khai báo sẽ có bao nhiêu vốn chứ không bị bắt buộc phải
có một số vốn nhất định như trước.
Từ khái niệm về vốn, có thể hiểu một cách chung nhất góp vốn là sự đóng
góp của hai hay nhiều đối tác để tạo nên số vốn nhất định. Do việc góp vốn liên
quan đến quyền lợi riêng hoặc quyền lợi chung của các thành viên góp vốn nên
việc góp vốn có nhiều vấn đề phức tạp dễ dẫn tới nguy cơ như đồng vốn không
sinh lời, thâm hụt thậm chí mất vốn và nghiêm trọng hơn còn dẫn tới tranh chấp về
đồng vốn góp. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta vẫn thường thấy có rất nhiều
hình thức góp vốn từ buôn bán nhỏ lẻ cho đến mở công ty kinh doanh hoặc là “hùn
vốn” buôn bán, “khoán trắng” vốn cho người khác hoặc góp vốn vào công ty hay

góp vốn để thành lập Công ty.
Có thể thấy “góp vốn” là một khái niệm rất thông dụng trong đời sống dân
sự cũng như trong quy định pháp lý. Từ khi Luật Công ty năm 1991 ra đời, khái
niệm này đã được nghi nhận một cách rõ nét và cụ thể hơn.
Tại Điều 9 Luật Công ty năm 1991 đã quy định:“Phần vốn góp của mỗi
thành viên có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, tài sản bằng hiện vật
hoặc bản quyền sở hữu công nghiệp. Phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bản quyền
sở hữu công nghiệp phải được đại hội đồng thành lập xem xét, chấp thuận,
định giá và được ghi vào điều lệ công ty; Phần vốn góp này phải được nộp đầy đủ
ngay sau khi
công ty chính thức thành lập”
Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào
công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản
góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử
dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác
ghi trong điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”

11


Theo Điều 4 khoản 4 Luật Doanh nghiệp 2005: “Góp vốn là việc đưa tài sản
vào công ty để trở thành chủ sở hữu chung của Công ty. Tài sản góp vốn có thể là
tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị

12


quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ
công ty do thành viên công ty góp để tạo thành vốn của Công ty”.
Như vậy, so với Luật Công ty năm 1991, LDN năm 1999 và LDN năm 2005 đã

quy định khái niệm góp vốn một cách sắc nét hơn. Luật Công ty năm 1991
không chỉ ra góp vốn là gì mà chỉ quy định hình thức “phần vốn góp” của mỗi thành
viên. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 đã chỉ ra bản chất của việc góp vốn là một
hành vi pháp lý.

1.1.2 Bản chất pháp lý của góp vốn
Để hình thành một công ty, việc góp vốn của các chủ thể là nội dung quan
trọng có tính chất quyết định trong các vấn đề thủ tục thành lập công ty. Việc góp
vốn nhằm tạo ra cơ sở đầu tiên cho bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào,
khi có vốn doanh nghiệp mới có thể thuận lợi hơn để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vốn là điều kiện cần để doanh nghiệp tiến hành khởi sự các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Việc góp vốn này là nguồn gốc của mọi quyền lợi cũng
như nghĩa vụ của các thành viên trong công ty sau này. Có thể nói, trong các quy
định về thủ tục thành lập doanh nghiệp thì các quy định về vốn, góp vốn quan
trọng nhất, thậm chí có ý nghĩa quyết định. Góp vốn có thể nói là “linh hồn” của
một hợp đồng thành lập công ty.
Về bản chất, góp vốn là hành vi pháp lý nhằm đưa tài sản của mình vào một
hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Trong mối quan hệ góp
vốn, có các bên góp vốn và tài sản góp vốn.
Về phương diện kinh tế thì góp vốn là sự đóng góp của các các thành viên
tạo ra khối tài sản chung cho Công ty nhằm đảm bảo cho những chi phí đối với
hoạt động của công ty và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ khi công ty lâm
vào tình trạng phá sản.
Xét về phương diện pháp lý, thì góp vốn là hành vi tự nguyện chuyển giao
tài sản hay đưa tài sản riêng của mình vào công ty sử dụng chung nhằm mục đích
12


×