®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
lª anh linh
PHÁP LUẬT VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ CÔNG TY CON VÀ THỰC TIỄN TỔNG
CÔNG TY CHÈ VIỆT NAM
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi 2008
đại học quốc gia hà nội
khoa luật
lê anh linh
PHP LUT V Mễ HèNH CễNG TY M - CễNG TY
CON V THC TIN TNG CễNG TY CHẩ VIT
NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 50
luận văn thạc sĩ luật học
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa
Hà nội - 2008
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ MÔ HÌNH
6
CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
1.1.
Khái niệm công ty mẹ - công ty con
6
1.1.1.
Khái niệm
6
1.1.2.
Những đặc trưng pháp lý mô hình công ty mẹ - công ty con
9
1.1.3.
Cơ cấu tổ chức của công ty mẹ
12
1.1.4.
Cơ cấu tổ chức của công ty con
25
1.1.5.
Mối quan hệ giữa các công ty trong mô hình công ty mẹ và
công ty con
26
1.1.6.
Vai trò của chủ sở hữu nhà nước với các tập đoàn theo
mô hình công ty mẹ - công ty con
29
1.2.
Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về mô hình
công ty mẹ - công ty con trong đổi mới doanh nghiệp nhà
nước
Quy định của pháp luật Việt Nam về mô hình công ty mẹ -
34
1.2.1.
34
công ty con trong đổi mới doanh nghiệp nhà nước
1.2.2.
1.2.3.
Những điểm mới của Nghị định 111/2007/NĐ-CP về tổ
chức quản lý, quản lý Tổng công ty nhà nước và chuyển
đổi Tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập,
công ty mẹ là công ty nhà nước hoạt động theo hình thức
công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật Doanh
Thành công và hạn chế của pháp luật Việt Nam đối với mô
hình công ty mẹ - công ty con
40
Chương 2: THỰC TẾ VIỆC CHUYỂN ĐỔI TỔNG CÔNG TY CHÈ
45
42
VIỆT NAM THEO MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG
TY CON
2.1.
Thực tễn của việc chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ công ty
con
45
2.2.
Thực tễn của việc chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ
49
- công ty con
2.3.
Sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu của Tổng công ty Chè
52
Việt Nam khi tiến hành cổ phần hóa
2.3.1.
Khắc phục tồn tại của công ty mẹ theo mô hình hiện tại
52
2.3.2.
Điều chỉnh cơ cấu tổ chức nhằm phát huy vai trò công ty
52
mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con
2.4.
Phương án chuyển Tổng công ty Chè Việt Nam thành
57
Tổng công ty cổ phần
2.4.1.
Mục têu phát triển đến năm 2015
57
2.4.2.
Mô hình tổ chức của Tổng công ty sau đổi mới
58
2.5.
Các vướng mắc, bất cập trong quá trình chuyển Tổng công
54
ty Chè Việt Nam sang mô hình công ty mẹ - công ty con
2.5.1.
Vấn đề làm chủ của người lao động
64
2.5.2.
Các chế độ chính sách về cổ phần hóa ban hành chậm
64
và thường xuyên thay đổi
2.5.3.
Vị trí của các đơn vị sản xuất thuộc công ty mẹ
65
2.5.4.
Mâu thuẫn trong việc xác định giá trị vườn chè
66
2.5.5.
Đất đai
68
2.5.6.
Giá trị lợi thế về vị trí địa lý
69
2.5.7.
Thủ tục hành chính phức tạp
70
2.5.8.
Chưa có chương trình tổng thể với mục tiêu rõ ràng và lộ
70
trình cho từng giai đoạn, dẫn đến tnh trạng "vừa chạy vừa
xếp hàng"
2.5.9.
Quan hệ giữa mẹ và con còn lỏng lẻo
72
2.6.
Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn chuyển đổi Tổng công ty
73
Chè Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty
con
Chương 3:
KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
76
MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
3.1.
Định hướng của Đảng về việc hoàn thiện pháp luật về mô
76
hình công ty mẹ - công ty con
3.2.
Một số kiến nghị của tác giả về việc hoàn thiện pháp
80
luật về mô hình công ty mẹ - công ty con
3.2.1.
Kiến nghị về quan hệ về đầu tư tài chính
80
3.2.2.
Kiến nghị về cách hạch toán và cơ chế tài chính
83
3.2.3.
Kiến nghị về việc xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý của
84
doanh nghiệp
3.2.4.
Kiến nghị về việc xác định lại giá trị vườn cây từ thực tế
84
chuyển đổi Tổng Công ty Chè Việt Nam sang mô hình
công ty mẹ - công ty con
3.2.5.
Kiến nghị về việc kiện toàn và đổi mới hoạt động của Tổ
85
công tác liên ngành - Ban Đổi mới doanh nghiệp Trung
3.2.6.
ương
Kiến nghị về thủ tục hành chính trong vấn đề chuyển đổi
85
doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty
con
3.2.7.
Tăng cường sức mạnh của tổ hợp công ty mẹ - công ty con
86
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
bảng
2.1.
Một số mục tiêu chủ yếu
2.2
Tình hình sắp xếp lại lao động tại thời điểm chuyển sang
cổ phần ở Tổng công ty Chè Việt Nam
58
63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc tự do hóa các hoạt động đầu tư, thương mại, mở rộng liên
doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, đầu tư thâm nhập lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế, đặc biệt là cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước đã làm thay đổi đáng kể quan hệ giữa các doanh nghiệp, trong
đó có quan hệ giữa thành viên với tổng công ty và giữa tổng công ty với các
doanh nghiệp khác ngoài tổng công ty. Điều đó đã tạo ra các tiền đề để
chuyển đổi các tổng công ty sang mô hình công ty mẹ - công ty con.
Tuy nhiên, cho đến trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước
sửa đổi năm 2003, các quy định pháp luật, điều lệ mẫu và quy chế hoạt động
của tổng công ty hầu như không thay đổi. Các tổng công ty 90 và 91 tiếp
tục là sự ghép nối, gom đầu mối các doanh nghiệp độc lập mà thành,
hầu như không có sự đầu tư vốn của doanh nghiệp này vào doanh nghiệp kia
để gắn kết với nhau chặt chẽ về tài chính. Do đó, mô hình tổng công ty
chứa đựng nhiều hạn chế. Một số tổng công ty tuy có đóng góp tích cực cho
phát triển kinh tế đất nước, nhưng chưa có tổng công ty nào trở thành
tập đoàn kinh tế mạnh, tương xứng với tiềm năng và nguồn lực được Nhà
nước trang bị và đầu tư.
Đứng trước các hạn chế của mô hình tổng công ty và tác dụng của mô
hình công ty mẹ - công ty con, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) đã đề ra chủ trương thí điểm
chuyển tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Lợi ích của việc chuyển đổi là giúp phân định rõ về vốn, tài sản, quyền lợi,
nghĩa vụ giữa các đơn vị trong tổng công ty; bảo đảm lợi ích của Nhà nước.
Đồng thời, chuyển đổi tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con lại
1
thúc đẩy tổng công ty tến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp thành
viên
2
hoặc sử dụng vốn để liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, nhờ đó mà tổng
công ty giữ cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp này. Thông qua mối liên
kết công ty mẹ - công ty con mà thúc đẩy mở rộng đầu tư, góp vốn ra ngoài
phạm vi của tổng công ty, kể cả đầu tư ra nước ngoài, từ đó xây dựng, phát
triển tổng công ty thành tập đoàn.
Những lợi ích của việc chuyển tổng công ty theo mô hình công ty mẹ công ty con là xuất phát từ chuyển đổi cơ chế hoạt động và quan hệ giữa
tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên. Trong đó, nền tảng của mối
quan hệ này là việc đầu tư và chi phối của tổng công ty đối với doanh nghiệp
thành viên. Việc chi phối hoặc kiểm soát chủ yếu là về sở hữu vốn, công
nghệ, thị trường, thương hiệu hoặc thông qua một hợp đồng chi phối. Doanh
nghiệp có vốn đầu tư và chi phối doanh nghiệp khác trở thành công ty
mẹ. Doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư và bị doanh nghiệp khác chi phối
trở thành công ty con. Quan hệ ghép nối, cấp trên - cấp dưới trên thực tế
đã chuyển thành quan hệ công ty mẹ - công ty con.
Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu pháp luật thực định cũng như
thực tễn của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công
ty mẹ
- công ty con cũng còn nhiều bất cập. Do việc thể chế hóa và xây dựng pháp
luật về mô hình công ty mẹ - công ty con và việc chuyển đổi tổng công ty
sang mô hình này được thực hiện theo chủ trương thí điểm, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm nên pháp luật còn nhiều điểm chưa hoàn thiện như các quy
định về loại mô hình này mới chỉ tồn tại ở dạng "luật khung". Luật Doanh
nghiệp nhà nước chưa có các quy định về loại mô hình này nhằm đảm
bảo sự vận hành hiệu quả của các tổng công ty sau khi chuyển đổi; Luật
Doanh nghiệp năm 2005 cũng chỉ mới giành một chương (chương VII) với
bốn điều (từ Điều 146 đến Điều 149) quy định về nhóm công ty trong đó có
mô hình công ty mẹ - công ty con. Thậm chí trong Luật Doanh nghiệp nhà
nước năm 2003 vẫn còn hình thức tổng công ty do Nhà nước tự đầu tư
3
thành lập. Đây là một hạn chế lớn cần chuyển đổi theo mô hình công ty mẹ
- công ty con. Với xu
4
hướng phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, mô
hình công ty mẹ - công ty con sẽ phát triển với nhiều hình thức đa dạng,
có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức sở hữu.
Trong xu hướng chung như vậy, Luật Doanh nghiệp sẽ đóng vai trò chủ đạo
trong việc tạo ra một hành lang pháp lý, điều chỉnh tổ chức và hoạt động của
mô hình công ty mẹ - công ty con. Với sứ mệnh lịch sử đó, Luật Doanh
nghiệp cần phải có sự thay đổi, theo đó, cần bổ sung các quy định mới nhằm
tạo dựng khung pháp lý cần thiết điều chỉnh tổ chức và hoạt động của mô
hình này.
Việc nghiên cứu các khía cạnh pháp lý của mô hình công ty mẹ - công
ty con và chuyển đổi Tổng công ty nhà nước sang mô hình này và thực tiễn áp
dụng đã và đang đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Đây cũng chính là lý do
chúng tôi chọn đề tài: "Pháp luật về mô hình công ty mẹ - công ty con và
thực tiễn Tổng Công ty Chè Việt Nam" để góp phần giải đáp một cách thiết
thực các vấn đề đặt ra từ các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn chuyển đổi Tổng công ty nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty
con.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận của đề tài
Mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam hiện nay là một mô
hình hoàn toàn mới. Sau khi cho ra đời các tổng công ty 90, 91 với hy vọng
đó sẽ trở thành những "quả đấm thép" trong nền kinh tế nhưng các tổng
công ty 90, 91 này đã chưa thực sự đáp ứng được sự mong mỏi và trông
đợi của nền kinh tế về những bước phát triển vượt bậc của mình. Việc ra đời
công ty mẹ - công ty con đang hy vọng mở ra lối đi mới cho doanh nghiệp
nhà nước. Tuy nhiên, đây là một mô hình hoàn toàn mới và có rất nhiều vấn
đề pháp lý cần được nghiên cứu như cơ cấu tổ chức của công ty mẹ, công
ty con; vị trí, vai trò, sự chi phối của công ty mẹ đối với công ty con thông
qua hình thức đầu tư tài chính v.v...
5
Hiện nay, ở Việt Nam, việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang
mô hình công ty mẹ - công ty con đã được bàn luận nhiều tại các cuộc
hội
6
thảo, các cuộc gặp gỡ giữa Chính phủ và các doanh nghiệp và có nhiều bài
báo, bài viết đề cập hoặc nghiên cứu về vấn đề này. Bên cạnh đó cũng có
những nghiên cứu trực tiếp, có hệ thống và sâu sắc vấn đề này, một số
luận văn thạc sĩ Luật học như: "Pháp luật về tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam", của giả
Nguyễn Huy Giang, 2003; "Mô hình tập đoàn kinh doanh theo pháp luật Việt
Nam và kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp", của Ngô Thúy Giang, 2004 v.v...
Đặc biệt có luận án tến sĩ Luật học: "Những vấn đề pháp lý về đổi mới tổ
chức Tổng công ty nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con", của
Nguyễn Thị Mai Phương, 2007. Điều này đã chứng tỏ việc nghiên cứu để
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của loại hình công ty mẹ - công ty con đang
được những người nghiên cứu và những người làm thực tễn quan tâm. Tuy
nhiên, các công trình này mặc dù đã thể hiện sự tiếp cận của các nhà nghiên
cứu với kinh nghiệm pháp luật của các nước về tập đoàn kinh doanh, mô
hình công ty mẹ - công ty con nhưng chưa có công trình nào đi sâu, tập trung
phân tch về mô hình tổ chức hoạt động cũng như đi sâu thực tế tại một
doanh nghiệp chuyển đổi cụ thể.
Trong quá trình phát triển hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ
thống vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đề tài mà tác giả
lựa chọn mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng khung pháp lý đầy đủ, phù
hợp với pháp luật quốc tế là cơ sở pháp lý để xây dựng mô hình công ty mẹ công ty con. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả
thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về công
ty mẹ - công ty con để mô hình hoạt động có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ. Tác giả hy vọng và tin tưởng rằng với quá trình nghiên
cứu, tm hiểu một cách nghiêm túc thì kết quả thu được sẽ trở thành một tài
liệu tham khảo có giá trị và sẽ đóng góp một phần nhỏ vào những cơ sở lý
luận pháp lý về mô hình công ty mẹ - công ty con.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các khía cạnh pháp lý, tnh thực tế
cũng như cơ sở lý luận của mô hình công ty mẹ - công ty con. Trong nội dung
trình bày, tác giả sẽ đưa ra các nhận xét, đánh giá thực tễn về sự cần thiết
của việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty mẹ công ty con, các vấn đề pháp lý, các vướng mắc, bất cập khi chuyển đổi, từ
đó đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện khung pháp lý của mô hình công ty mẹ
- công ty con. Luận văn cũng tập trung đi sâu nghiên cứu thực tiễn khi
chuyển đổi Tổng Công ty Chè Việt Nam hoạt động theo mô hình công ty mẹ
- công ty con và kiến giải các bất cập pháp lý trong quá trình chuyển đổi, đề
xuất hướng phát triển tếp theo để xây dựng VINATEA trở thành một tập
đoàn kinh tế mạnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận truyền thống
của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
duy vật lịch sử, phương pháp thống kê xã hội học và các phương pháp khác
như phân tích, so sánh các quy định của pháp luật các quốc gia điển hình
trên thế giới về mô hình công ty mẹ - công ty con.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
8
Chương 1: Các vấn đề lý luận pháp lý về mô hình công ty mẹ - công
ty con.
Chương 2: Thực tiễn chuyển đổi Tổng Công ty Chè Việt Nam theo
mô hình công ty mẹ - công ty con.
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mô hình công ty
mẹ - công ty con.
9
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ
VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
1.1. KHÁI NIỆM CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
1.1.1. Khái niệm
Theo G.E. FITZGERALD và A.E.SPECK trong cuốn: "Công ty mẹ tại
Australia và Niu DiLân (xuất bản lần thứ năm) thì:
"Một định nghĩa của thuật ngữ được chấp nhận chung là
không có". Xem xét theo nghĩa rộng nhất, nó có thể bao hàm bất
kỳ công ty nào nắm giữ cổ phần tại công ty khác. Nhưng
thông thường, thuật ngữ chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp những
công ty mà tỷ lệ nắm giữ cổ phần đủ để có thể tiến hành hoạt
động kiểm soát đối với công ty khác, do đó các công ty nắm giữ cổ
phần như các khoản đầu tư không được bao hàm trong định nghĩa
này.
Cũng có những khía cạnh khác của thuật ngữ liên quan đến
những khía cạnh này không có sự nhất trí chung nào. Một số người
viết chỉ áp dụng đối với những công ty thực sự tiến hành hoạt động
kiểm soát, trong khi những người khác cho rằng "khả năng kiểm
soát, chứ không phải chính bản thân hành động kiểm soát là yếu tố
quyết định". Từ "kiểm soát" cũng có rất nhiều cách giải thích khác
nhau. Liệu khái niệm này chỉ nên áp dụng với trường hợp tỷ lệ cổ
phần nắm giữ đủ để công ty bầu tất cả hay đa số thành viên
hội đồng quản trị, hay nên bao hàm cả trường hợp một công ty có
ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của một công ty khác
thông qua tỷ lệ cổ phần nắm giữ "thiểu số có tính chất ảnh hưởng"
[25, tr. 7-8].
Theo diễn giải của chuẩn mực kế toán quốc tế ISA (International
Accounting Standard), công ty mẹ (Parent company) là một thực thể pháp
lý có ít nhất một đơn vị trực thuộc - công ty con (Subsidiary). Công ty con
là thực thể pháp lý bị kiểm soát bởi công ty mẹ. Kiểm soát ở đây được hiểu
là: (1) sở hữu trực tếp hoặc gián tiếp nhiều hơn 50% số phiếu bầu; hoặc (2)
sở hữu 50% số phiếu bầu hoặc ít hơn nhưng nắm quyền đối với hơn 50%
số phiếu bầu theo sự thỏa thuận với các cổ đông khác; hoặc nắm quyền lãnh
đạo, điều hành liên quan đến các chính sách tài chính hay sản xuất kinh
doanh của công ty và được qui định tại điều lệ, theo sự thỏa thuận hay hợp
đồng; hoặc có quyền bổ nhiệm hay miễn nhiệm phần lớn các thành viên của
Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo; hay có quyền quyết định, định hướng đến
phần lớn số phiếu bầu tại các cuộc họp Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo.
Theo Luật công ty của Anh năm 1985, công ty mẹ được hiểu là công
ty nắm cổ phần khống chế (trên 50%) ở công ty khác (công ty con). Tuy
nhiên, theo tu chính năm 1989 để phù hợp với "Hướng dẫn chính thức lần
thứ 7 về Luật công ty" (Seventh Company Law Directive) của Cộng đồng châu
Âu (EC) thì (A) là công ty mẹ của công ty con (B) khi:
(1) A là cổ đông nắm giữ đa số phiếu bầu ở B;
(2) A là cổ đông và có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm phần lớn thành
viên Hội đồng quản trị của B;
(3) A có quyền quyết định về chính sách tài chính và sản xuất kinh
doanh của B bằng sự thỏa thuận chính thức, hợp đồng;
(4) A là cổ đông của B và có quyền kiểm soát phần lớn phiếu bầu một
cách độc lập hay liên kết với các cổ đông khác; hoặc
(5) A có quyền lợi tham gia điều hành (partcipatng interest được hiểu là nắm giữ từ 20% cổ phần) và trên thực tế thực hiện quyền chi
phối đối với B hoặc A và B có cùng một cơ chế quản lý thống nhất.
Theo Luật công ty của Cộng hòa Liên bang Nga năm 1995, một công
ty được gọi là công ty con (tiếng Nga gọi là Dotchernie) nếu do một công ty
khác - công ty mẹ (Osnovnoe) nắm giữ cổ phần khống chế trong vốn điều lệ
hoặc bị công ty khác chi phối các quyết định của mình hoặc bằng một thỏa
thuận chính thức hay dưới hình thức nào đó. Luật không qui định một cách
cụ thể thế nào là cổ phần khống chế và không nêu cụ thể hình thức hợp
đồng, thỏa thuận như thế nào liên quan đến việc chi phối các quyết định của
công ty con [17, tr. 1-2].
Khái niệm về công ty mẹ - công ty con còn có định nghĩa khác. Theo
từ điển pháp luật của Black (Back’s Law Dictonary) thì công ty mẹ là:
Công ty thường giới hạn các hoạt động của mình trong việc
sở hữu cổ phần trong các công ty khác và thực hiện việc giám sát
quản lý đối với các công ty này. Công ty mẹ cần phải nắm giữ
quyền kiểm soát trong các công ty mà nó có cổ phần. Để
được hưởng những quyền về thuế, công ty mẹ phải nắm giữ
80% hoặc hơn số cổ phần biểu quyết của một công ty [25, tr. 40].
Cũng theo từ điển này thì công ty con là: "Công ty bị công ty khác
nắm giữ đa số cổ phần và kiểm soát; hoặc là công ty mà hơn 50% cổ phần
biểu quyết bị công ty khác (công ty mẹ) nắm giữ" [25, tr. 42].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (khoản 15 Điều 4 Luật Doanh
nghiệp năm 2005) thì công ty mẹ - công ty được định nghĩa như sau:
Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ
thông đã phát hành của công ty đó;
b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc
tất cả các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc của công ty đó;
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của
công ty đó [14].
1.1.2. Những đặc trưng pháp lý mô hình công ty mẹ - công ty con
Tuy cách diễn giải có khác nhau, có thể rút ra những đặc trưng của
quan hệ công ty mẹ - công ty con như sau:
Thứ nhất, công ty mẹ - công ty con là một tập hợp các công ty, trong
đó, mỗi công ty là một pháp nhân độc lập, có tài sản riêng, có bộ máy điều
hành quản lý riêng và tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ cũng như
các nghĩa vụ tài sản của mình. Trong các công ty này, mỗi công ty đều có
quyền và nghĩa vụ riêng biệt, hoạt động trước tiên là vì lợi ích của công
ty mình nhằm thu lợi nhuận tối đa.
Thứ hai, quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con được thiết lập
trên cơ sở sở hữu vốn. Theo đó, công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc đầu tư phần
vốn góp chi phối vào công ty con. Tùy theo pháp luật của mỗi nước và điều lệ
của từng công ty quy định mà mức chi phối được thể hiện ở tỷ lệ vốn góp.
Thông thường, công ty mẹ chiếm từ 50% trở lên vốn góp của công ty con. Tuy
nhiên, có trường hợp vẫn được coi là công ty mẹ mặc dù vốn góp dưới
50% tùy thuộc vào điều lệ công ty.
Thứ ba, công ty mẹ là công ty nắm giữ quyền chi phối, kiểm soát công
ty con. Việc kiểm soát, chi phối của công ty mẹ đối với công ty con thể hiện ở
việc tác động tới các quyết định quan trọng của công ty con thông qua người
đại diện phần vốn góp hay người trực tiếp quản lý phần vốn của công ty
mẹ tại công ty con (các thành viên Hội đồng quản trị).
Các luật của Anh quốc và Niu Dilân quy định rằng "một công ty sẽ
được coi là công ty mẹ của một công ty khác nếu, và chỉ nếu khi công ty khác
đó là công ty con của công ty mẹ nói trên". Phụ thuộc vào một số những điều
kiện nhất định, những đạo luật này quy định rằng một công ty là công ty con
của một công ty khác nếu:
(a) Công ty khác đó:
(i) Là thành viên của công ty này và kiểm soát thành phần hội đồng
quản trị; hoặc
(ii) Nắm giữ hơn một nửa giá trị danh nghĩa của vốn cổ phần; hoặc
(b) Công ty đề cập đầu tiên là một công ty con của bất kỳ một công ty
nào là công ty con của công ty khác đó.
Định nghĩa của công ty con trong các đạo luật công ty thống nhất các
bang nước Ôxtrâylia quy định rằng công ty A là một công ty con của công ty B
nếu:
(a) Công ty B(i) Kiểm soát cơ cấu thành phần của hội đồng quản trị công ty A;
(ii) Kiểm soát hơn một nửa quyền biểu quyết của công ty A; hoặc
(iii) Nắm giữ hơn một nửa tỷ lệ vốn cổ phần đã phát hành của công ty
A (không bao gồm những phần không tạo quyền tham gia vượt quá mức
phân phối lợi nhuận hoặc vốn); hoặc
(b) Công ty A là công ty con của bất kỳ công ty nào là công ty con
của công ty B [25, tr. 8].
Thứ tư, mỗi công ty mẹ có thể có nhiều công ty con nhưng mỗi công
ty con chỉ có một công ty mẹ. Và các công ty con có thể tếp tục đầu tư vào
các công ty con khác. Một câu hỏi đặt ra là có trường hợp nào công ty con
đầu tư ngược trở lại công ty mẹ và trở thành công ty mẹ hay không? Theo
luật pháp của một số nước như Cộng hòa Liên bang Nga thì công ty con không
được phép nắm giữ cổ phần của công ty mẹ [28, tr. 22]. Ở Việt Nam, pháp
luật chưa thấy quy định về vấn đề này và trên thực tế cũng chưa thấy xuất
hiện trường hợp công ty con nào đầu tư ngược trở lại công ty mẹ để trở
thành công ty mẹ.
Thứ năm, công ty mẹ không bị ràng buộc hay phải chịu trách nhiệm
liên đới đối với các nghĩa vụ tài sản của công ty con. Các công ty tự chịu
trách nhiệm về các khoản nợ cũng như các nghĩa vụ tài chính khác bằng tài
sản của mình, không sử dụng tài sản của công ty này để trả nợ cho công ty
kia.
Với năm đặc trưng trên đây thì đặc trưng cơ bản nhất của mô
hình công ty mẹ - công ty con là đặc trưng về sở hữu vốn của công ty mẹ với
công ty con và sự kiểm soát chi phối của công ty mẹ đối với công ty con. Việc
sở hữu vốn quyết định việc kiểm soát chi phối của công ty mẹ với công ty
con.
Công ty mẹ thường tiến hành kiểm soát đối với các công ty con bằng
cách bổ nhiệm các thành viên hội đồng quản trị. Đôi khi hội đồng quản trị của
công ty mẹ trở thành hội đồng quản trị của công ty con, trong các trường
hợp khác chúng ta thấy hội đồng quản trị công ty mẹ thường chỉ có đại diện
tại hội đồng quản trị của công ty con. Phương pháp áp dụng tại bất kỳ
trường hợp nào đều sẽ phụ thuộc vào một số các nguyên tắc cơ sở sau đây:
- Bản chất kinh doanh, tình hình công ty con;
- Mức độ hiểu biết chuyên môn cần thiết đối với hội đồng quản trị;
- Sở thích của các thành viên hội đồng quản trị công ty mẹ.
Sau đây là một ví dụ minh họa về cách quản trị trong mô hình công ty
mẹ, công ty con, đó là Công ty Điện thoại và Điện tín Mỹ.
Công ty này thống trị ngành công nghiệp điện thoại tại Mỹ. Đây có lẽ
là một doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ công ích lớn nhất trên thế giới
kiểm soát các công ty con bao gồm các công ty kinh doanh điện thoại chính
với một hệ thống dây đường dài trên phạm vi toàn quốc; công ty cũng là nhà
sản xuất thiết bị điện thoại hàng đầu. Vốn cổ phần của công ty được nắm
giữ bởi trên
600.000 nhà đầu tư và không có nhà đầu tư nào nắm giữ trên 1% của tổng
số vốn cổ phần và công ty được kiểm soát bởi phương pháp quản lý rất thành
công.
Cơ cấu tổ chức được miêu tả như sau:
Công ty Điện thoại và Điện tín Mỹ thuê một loạt các công ty con, mỗi
công ty được quản trị bởi một Hội đồng quản trị riêng biệt, Hội đồng quản
trị
sẽ có trách nhiệm đầy đủ đối với công ty con đó. Để đảm bảo, các Hội đồng
quản trị này được bầu bởi các nhân viên cao cấp của công ty mẹ, nhưng thực
chất các Hội đồng quản trị tách biệt này có quyền tự chủ rất lớn. Hội đồng
quản trị của một công ty con điển hình, Công ty Điện thoại New York, nơi tất
cả cổ phiếu đều do công ty mẹ sở hữu, bao gồm 14 thành viên, và chỉ có ba
trong số 14 thành viên này là thành viên Hội đồng quản trị của công ty
mẹ,
1 thành viên là chủ tịch. Trong số 11 thành viên còn lại, 5 là các nhân viên
cao cấp của công ty con, 6 thành viên là các cá nhân không liên quan gì đến
công ty con hoặc công ty mẹ. Hầu hết những người này đều có những vị trí
đã được thừa nhận trong giới ngân hàng hoặc công nghiệp - các nhân viên
điều hành có năng lực và có kiến thức về điều kiện địa phương có thể tác
động đến ngành nghề kinh doanh. Điều này cũng tương tự như ở các công ty
điện thoại con khác. Trong tất cả các trường hợp được điều tra, các thành
viên hội đồng quản trị công ty con không có mối liên hệ nào khác với lĩnh vực
kinh doanh điện thoại được lựa chọn từ khu vực địa lý nơi công ty con hoạt
động và hầu hết đều là những người có khả năng đã được thừa nhận. Có
một vấn đề nhỏ là hội đồng quản trị của các công ty con đều không phải là
những bù nhìn được lựa chọn chủ yếu là để thực hiện các chỉ thị của Công ty
Điện thoại và Điện tn Mỹ. Kết quả đạt được gần giống như một tổ chức của
một tập đoàn các công ty liên kết, trong đó các công ty hoạt động độc lập với
nhau, nhưng các hoạt động được điều phối với các công ty liên kết thông qua
công ty mẹ [25, tr. 12].
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty mẹ
Công ty mẹ không phải là một hiện tượng mới vì có những bằng
chứng về cơ cấu hợp nhất đó tại Mỹ trước năm 1850 và tại Ôxtrâylia là trước
Thế chiến I. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 30 đến 40 năm qua, chúng đã chiếm vị
trí quan trọng trong các lĩnh vực thương mại và công nghiệp. Hình thức
tổ chức này đã phát triển tới mức độ một công ty độc lập - công ty không