Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.06 KB, 55 trang )

TÓM LƯỢC
Trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ như hiện nay thì việc tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế để có cái nhìn hoàn chỉnh và sâu sắc một mặt giúp
cho các thương nhân có thể tích lũy thêm kiến thức cũng như phần nào đó tự rút ra kinh
nghiệm cho doanh nghiệp của mình, bên cạnh đó không còn tỏ ra lúng túng khi tham gia
đàm phán, ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Không chỉ thế, việc đi sâu tìm
hiểu về các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cùng thực
tiễn áp dụng tại một đơn vị cụ thể cũng để chỉ ra những điều khoản còn chưa phù hợp với
thực tế thương mại và thông lệ quốc tế. Từ những bất cập, mâu thuẫn và chưa phù hợp này
bài khóa luận đưa ra những đề xuất nhằm sửa đổi, bổ sung những quy định sao cho ngày một
hoàn thiện hơn. Vì những lý do cấp thiết trên, đề tài: “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh”
rất cần được nghiên cứu và tìm hiểu.
Trước hết, bài khóa luận này tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản như: Khái niệm
liên quan đến pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cơ sở ban hành, nội dung,
nguyên tắc của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Đồng thời, bài khóa luận cũng tìm hiểu về các hệ thống pháp luật của Việt Nam, pháp
luật quốc tế về loại hợp đồng này như các điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế…
Bên cạnh đó, khóa luận phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế tại Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2
Quảng Ninh và đưa ra quan điểm hoàn thiện, các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật từ phía nhà nước và từ phía doanh nghiệp.
Mong rằng nội dung của bài khóa luận sẽ mang lại một cái nhìn khái quát hơn về pháp
luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn mà các thương nhân Việt Nam đang
trải qua khi áp dụng pháp luật và sử dụng loại hợp đồng này, nhất là trong giai đoạn hiện nay
khi hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của bất kỳ nền kinh tế
nào. Khi mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, Nhà nước ta đã và đang cố gắng hoàn
thiện pháp luật, tạo ra những hành lang pháp lý vững chắc, thông thoáng nhất để sẵn sàng
đối mặt với những thách thức từ quá trình hội nhập kinh tế, góp phần vào sự phát triển của
đất nước.


1


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa kinh tế - luật trường Đại học thương mại và sự đồng ý của
cô giáo hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Nguyệt em đã thực hiện đề tài “Pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2
Quảng Ninh”
Hoàn thành bài khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo trường Đại
học Thương mại, những người đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt cho em những kiến thức bổ
ích. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Nguyễn Thị Nguyệt – người đã tận tình
quan tâm và hướng dẫn em trong quá trình thực tập.
Em cũng xin được cảm ơn sự giúp đỡ của ban lãnh đạo, các anh chị cán bộ công nhân
viên tại Công ty Cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh, những người đã nhiệt tình chỉ
bảo em trong thời gian thực tập tại công ty.
Trong quá trình làm bài khóa luận, do kinh nghiệm thực tế còn hạn chế cũng như thời
gian thực tập có hạn nên bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được
sự đóng góp ý kiến từ phía cô giáo hướng dẫn cùng các quý thầy, cô để em hoàn thiện bài
viết và rút ra được những kinh nghiệm bổ ích.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

ASEAN
CIF
CISG
EU
FOB
ICC
INCOTERMS
L/C
PICC
TNHH
TPP
UCP 500
UNCITRAL
UNIDROIT
VIAC
WTO
DDU
TCVN
ISO 9001

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Trả cước, bảo hiểm tới bến
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Liên minh châu Âu
Giao trên tàu
Phòng thương mại quốc tế
Các điều kiện cơ sở giao hàng trong mua bán hàng hóa quốc tế
Thư tín dụng
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế
Trách nhiệm hữu hạn

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (Bản sửa đổi lần thứ 500)
Ủy ban của Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế
Viện quốc tế về thống nhất luật tư
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
Tổ chức Thương mại Thế giới
Giao chưa nộp thuế
Tiêu chuẩn Việt Nam
Tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức tiêu chuẩn hóa
quốc tế ban hành năm

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ sau các Đại hội Đảng: Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII
(1996) – khi Đảng ta ghi nhận cơ chế thị trường, khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể. Nền kinh
tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm. Ngày
25/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), góp phần triển khai phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại mà Đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra. Đến ngày 11/07/2011, việc chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã thúc đẩy nền kinh tế Việt
Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới, tạo cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Gần đây nhất, Việt Nam đã tham
gia vào Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) – một bước ngoặt đối với
hội nhập kinh tế khu vực và đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh việc thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế, Việt
Nam đã thực hiện nhất quán chính sách đa phương hoá, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối

ngoại. Cho đến nay, Việt Nam đã có được một chỗ đứng nhất định trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh đó, thị trường nước ta trở thành thị trường tiềm năng với nhiều quốc gia
khác. Ngược lại, nắm bắt thời cơ từ quá trình tăng trưởng của kinh tế toàn cầu; các doanh
nghiệp Việt Nam đã mở rộng kinh doanh, tiến hành xuất khẩu hàng hóa đến nhiều quốc gia
trên thế giới. Có thể thấy, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường không chỉ tạo
ra cơ hội mà còn tiềm ẩn những thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước.
Bởi nếu như trước đây đối thủ cạnh tranh với sản phẩm trong nước chỉ là hàng hóa, dịch vụ
nội địa thì ngày nay các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đối mặt với nguồn hàng hóa, dịch
vụ mạnh cả về số lượng và chất lượng từ các doanh nghiệp nước ngoài khác. Để tồn tại và
phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi doanh nghiệp trong nước phải mở rộng các mối quan
hệ xã hội. Trong đó các bên thiết lập với nhau những quan hệ, chuyển giao cho nhau các lợi
ích vật chất, hàng hóa… nhằm đáp ứng nhu cầu các bên và đi đến lợi ích tối ưu nhất. Việc
thiết lập quan hệ đó được thực hiện thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Từ lâu, hợp đồng mua bán hàng hóa đã trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu cho các
thương nhân, thể hiện hầu hết các quan hệ mua bán của các bên trong nhiều lĩnh vực. Với
nhu cầu phát triển hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa càng đóng vai trò quan trọng hơn
nữa. Khi mà hợp đồng mua bán hàng hóa không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia
5


mà đã mở rộng thành những hợp đồng mua bán hàng hóa phạm vi quốc tế. Với đà phát triển
hiện tại của nền kinh tế nước ta, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ ngày một tăng mạnh. Tuy
nhiên, hành lang pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa và cụ thể là pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, không đáp ứng được tốc độ
hội nhập quốc tế. Tính từ năm 1993 cho đến năm 2013, số lượng các vụ tranh chấp do Trung
tâm quốc tế Việt Nam (VIAC) giải quyết ngày càng gia tăng, đạt gần 1.000 vụ, trong đó có
70% là tranh chấp về hợp đồng thương mại quốc tế [1]. Trước tình hình thể chế kinh tế thị
trường Việt Nam chưa thực sự hoàn thiện thì việc hoàn thiện pháp luật chính là một trong
những mối quan tâm hàng đầu, trong đó pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa đang trở
thành một yêu cầu cấp thiết.

Đối với Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh, hoạt động chủ yếu trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng thủy hải sản sang các thị trường như: Nhật Bản, Mỹ, EU, Malaysia,
Đài Loan, Quatar, Jordany… thì việc áp dụng pháp luật trong mỗi hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế mà công ty thực hiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công ty. Dù đã đi
vào hoạt động như một công ty cổ phần từ năm 2005 và xuất khẩu sản phẩm sang nhiều
quốc gia song việc áp dụng pháp luật trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của công ty
vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Tóm lại, để hạn chế các tranh chấp liên quan đến mua bán hàng hóa quốc tế và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật trong mua bán hàng hóa quốc tế cần phải có các giải pháp thiết
thực nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đề tài
“Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần
Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh” là một vấn đề mang tính thời sự, bức xúc cả về lý luận
và thực tiễn áp dụng.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Thời gian qua có nhiều bài báo, bài tham luận, luận văn, luận án, chuyên đề đề cập đến
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Đó là những tác phẩm nghiên cứu nội dung, bất
cập của các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa hiện hành, thực trạng và đề
xuất các kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Cùng với các tác phẩm này là các nghiên cứu về pháp
luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trên thế giới và trong nước đã có nhiều công trình
nghiên cứu chất lượng liên quan đến đề tài này. Trong đó có những nghiên cứu đã có những
1[1] Nguồn: Hội thảo “Việt Nam gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, ngày
01/11/2013

6


thành công nhất định, góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Một số tác phẩm đề cập đến đề tài cần
được quan tâm như:

Nguyễn Thị Tuyết Giang (2008), Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luận văn tập trung vào các
vấn đề lý luận chung liên quan đến xác định pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, thực trạng pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế và đưa ra một số giải pháp. Bài luận văn chỉ đi sâu vào việc xác định pháp luật áp dụng
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chưa đề cập đến các vấn đề như giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và những bất cập còn tồn tại của pháp luật điều
chỉnh nội dung này.
Nguyễn Uy Pháp (2014), Các vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo Công ước Viên 1980 – CISG, Nghiên cứu khoa học sinh viên, Viện đại học mở Hà Nội:
Bài nghiên cứu tìm hiểu các quy định chung của Công ước Viên 1980 – CISG; làm rõ trách
nhiệm, nghĩa vụ và biện pháp xử lý trong trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng. Nhìn
chung, bài nghiên cứu tập trung vào vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo Công ước Viên 1980 – CISG mà chưa phân tích các quy phạm pháp luật trong nước về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguyễn Văn Quang (2014), So sánh chế định giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học
Quốc gia Hà Nội: Luận văn khái quát chung về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980, so sánh các nội dung cụ thể của Công
ước Viên 1980 với pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế. Bài luận văn đã đưa ra sự so sánh, đánh giá dựa trên quá trình phân tích cụ
thể từng nội dung trong các quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước Viên 1980. Song,
luận văn của tác giả vẫn chưa đề cập đến vấn đề áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế trong thực tiễn.
Ngoài các tác phẩm nêu trên, còn có nhiều bài luận văn, công trình nghiên cứu về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy
nhiên, ở những công trình đó tác giả chỉ xem xét một hoặc một số khía cạnh riêng biệt của
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chưa phân tích đầy đủ, toàn diện để
giải quyết được căn bản những hạn chế, vướng mắc. Nhìn chung, các nghiên cứu liên quan

7


đến đề tài này đều có mục tiêu tập trung vào hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế sao cho phù hợp với nền kinh tế thị trường trong nước cũng như quốc tế nhưng
chỉ trên phương diện lý luận, thiếu tính áp dụng trên thực tế. Bên cạnh đó một số công trình
nghiên cứu còn chưa bắt kịp được sự sửa đổi, bổ sung mới đây của pháp luật hiện hành. Cho
nên, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần được quan tâm, nghiên cứu sâu
hơn nữa về cả lý luận và thực tiễn áp dụng. Trên hết, tình hình kinh tế - xã hội hiện nay đòi
hỏi một cơ sở pháp lý vững chắc hơn nữa cho các doanh nghiệp tự tin trong giao kết và thực
hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; qua đó tạo dựng môi trường kinh doanh lành
mạnh, hiệu quả, bắt kịp xu thế thời đại.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Có thể thấy, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và tình hình đầy biến động của
nền kinh tế nước nhà, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là
một nhu cầu tất yếu. Đây cũng là giải pháp góp phần bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; giảm thiểu các vi phạm hợp đồng xảy ra; dễ
dàng hơn trong xác định trách nhiệm pháp lý; tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi thu
hút các doanh nghiệp nước ngoài.
Ngoài ra, sau quá trình tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan trên cơ sở phân
tích, đánh giá cũng như nhận thức được rõ mức độ cấp thiết của đề tài, có thể thấy rằng đề
tài nghiên cứu được đưa ra tuy không hoàn toàn mới mẻ nhưng rất cần được quan tâm
nghiên cứu một cách đúng đắn và sâu sắc. Vì các công trình nghiên cứu trước đây giải quyết
các vấn đề riêng lẻ của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế về mặt lý thuyết
song lại thiếu đi tính thực tế và cái nhìn toàn diện về hệ thống pháp luật hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
và thực tiễn áp dụng hiện nay là vô cùng cần thiết.
Bằng việc tham khảo các tài liệu, công trình nghiên cứu trình nghiên cứu đi trước khác
và quá trình tìm hiểu, thực tập tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh cùng
với sự hướng dẫn tận tình của giảng viên ThS. Nguyễn Thị Nguyệt, đề tài nghiên cứu này

tập trung vào các quy định pháp luật trong nước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
nghiên cứu thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đưa ra thực tiễn áp
dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy
sản 2 Quảng Ninh, làm rõ những bất cập của pháp luật hiện hành và nêu lên một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế.
8


4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
 Về đối tượng nghiên cứu: Do hạn chế về thời gian và năng lực nghiên cứu nên bài
khóa luận chỉ tập trung vào nghiên cứu các đối tượng gồm:
Những quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong
giao kết và thực hiện hợp đồng, thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh.
 Về mục tiêu nghiên cứu: Bài khóa luận được thực hiện với các mục tiêu như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Các khái
niệm, đặc điểm liên quan đến pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; cơ sở ban
hành và nội dung của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; các nguyên tắc về
pháp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong nước; từ
đó có sự nhìn nhận, đánh giá, so sánh khách quan giữa pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa ở một số nước trên thế giới và Việt Nam.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại
Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh trong giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
- Đề xuất định hướng, quan điểm, kiến nghị khắc phục những bất cập trong thực trạng
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam.
 Về phạm vi nghiên cứu:

- Nội dung nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của một khóa luận tốt nghiệp, bài viết
tập trung nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và các vấn đề liên
quan (bao gồm các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật mua bán hàng hóa quốc tế tại Công ty
cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh trong giao kết và thực hiện hợp đồng; một số
kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế).
- Không gian nghiên cứu: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ghi nhận trong
pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và các điều ước quốc tế… Tuy nhiên để thuận lợi
hơn cho việc nghiên cứu, bài khóa luận chủ yếu nghiên cứu pháp luật Việt Nam, thực trạng
thi hành tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng và Ninh các doanh nghiệp có liên

9


quan đến nội dung ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà công ty tham
gia…
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp thu thập thông tin: Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, bài khóa luận
được thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp thông qua các thông tin, số liệu thống kê đã được công
bố từ các bài báo, tạp chí, tài liệu pháp luật và các trang web có tin cậy liên quan đến vấn đề
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Đây là nguồn thông tin dễ tìm, chi phí thấp, không cần tốn nhiều thời gian mà có thể áp dụng
ngay cho một số mục đích cụ thể. Từ các dữ liệu thứ cấp thu thập được, đề tài nghiên cứu có
sự đánh giá tính cụ thể, tính thời sự và tính chính xác của thông tin để sử dụng một cách hợp
lý cho các mục tiêu nghiên cứu.
Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn sử dụng một số dữ liệu sơ cấp thu thập được qua quan
sát, điều tra.
Các phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng các dữ liệu đã thu thập được, bài khóa luận

đã vận dụng các phương pháp sau để nghiên cứu khái quát các nội dung đề ra về lý luận và
thực tiễn:
- Phương pháp biện chứng: Xem xét pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
trong mối liên hệ của nó với các hệ thống pháp luật khác có liên quan, nghiên cứu sự thay
đổi không ngừng của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo những lần sửa
đổi, bổ sung.
- Phương pháp duy vật lịch sử: Tìm hiểu sự ra đời của khái niệm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, cơ sở ban hành của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và cùng quá
trình phát triển, từ đó rút ra bản chất và quy luật chung của pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
- Phương pháp liệt kê so sánh, đối chiếu: Không chỉ nghiên cứu pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam, bài khóa luận còn đối chiếu và so sánh các quy định
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các văn bản luật trong nước, so sánh
với chính nó thời gian trước lần sửa đổi bổ sung gần đây nhất và với các điều khoản, thỏa
thuận trong các điều ước quốc tế, công ước… của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế trên thế giới.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế hiện nay và thực tế áp dụng tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2
10


Quảng Ninh. Đồng thời, qua những phân tích, đánh giá và những kết luận thu được từ việc
sử dụng các phương pháp trên cùng với những kiến thức đã học được đề ra những định
hướng, kiến nghị đề góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
6. Kết cấu bài khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; kết cấu bài khóa luận gồm
có ba chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế

Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn áp
dụng tại Công ty cổ phần Xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế

11


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) có nghĩa là ràng buộc, xuất hiện đầu tiên ở La Mã
vào khoảng thế kỷ V – IV trước công nguyên. Sau khi đế quốc La Mã tan rã, các nước châu
Âu đã chấp nhận dùng thuật ngữ “hợp đồng” khởi nguồn từ La Mã. Xuất phát từ thuật ngữ
“contractus”, trong tiếng Anh thuật ngữ này được gọi là “contract”, trong tiếng Pháp là
“contrat”, tiếng Nga là “kontrakt”… Ở Việt Nam, trong thời kỳ phong kiến thuật ngữ này có
thể gọi là “khế ước” và đến ngày nay từ “hợp đồng” đã trở nên gần gũi hơn sau quá trình
phát triển của hệ thống pháp luật nước ta.[2]
Về khái niệm hợp đồng, cũng có nhiều quan điểm khác nhau theo thời gian. Theo Bộ
luật dân sự đầu tiên trên thế giới (Bộ luật dân sự Pháp năm 1804) thì: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một công
việc” hoặc theo Bộ luật dân sự Liên bang Nga năm 1994: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”… Với
Việt Nam, nếu như trước đây khái niệm “khế ước” còn chưa để lại nhiều dấu ấn thì sau khi
cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, khái niệm “hợp đồng” đã thực sự thể hiện được vị trí của nó trong đời sống xã
hội. Cụ thể, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận

giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo đó, có
thể định nghĩa hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể.
Giữa hợp đồng và hoạt động mua bán hàng hóa có quan hệ mật thiết với nhau, mua bán
hàng hóa là hoạt động thương mại, trong đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên
bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. [3] Cơ sở pháp lý của việc mua bán
hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất
2[] Theo Nguyễn Ngọc Khánh (2006), Hợp đồng: Thuật ngữ và khái niệm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8, tr.38
3[] Theo Điều 3 Luật thương mại năm 2005

12


chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa. Luật thương mại nước ta không đưa ra định nghĩa
về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng
mua bán tài sản trong luật dân sự để xác định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2005, hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có
nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Hàng hóa được hiểu là động sản cho nên hàng
hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản, có thể xem xét các đặc điểm
của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với hợp đồng mua bán tài sản. Theo đó
hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng ưng thuận, có tính đền bù và là hợp đồng song vụ.
Về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật quốc tế và pháp luật các
nước có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này song đều thống nhất chung
một quan điểm rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có
tính quốc tế. Một số công ước quốc tế đã định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa có tính
quốc tế như sau:

Điều 1 Công ước La Hay năm 1964 (Công ước về Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng
mua bán quốc tế các động sản hữu hình) quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là
hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác
nhau và hàng hóa trong hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới, hoặc việc ký kết hợp
đồng được diễn ra ở các nước khác nhau”.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
cũng gián tiếp định nghĩa về loại hợp đồng này khi quy định “Công ước này áp dụng đối với
những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau”[4]. Khác với Công ước La Hay năm 1964, các yếu tố như địa điểm ký
kết hợp đồng, việc dịch chuyển qua biên giới đối với đối tượng của hợp đồng không được
Công ước Viên năm 1980 đề cập tới. Công ước Viên năm 1980 cho thấy tính chất quốc tế
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ được xác định bởi yếu tố duy nhất là các bên
giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất
về ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có tính quốc tế mà thông qua đó, thiết
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với nhau.
4[] Căn cứ Điều 1 Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

13


Tuy nhiên ngoài các công ước quốc tế, hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng tồn tại
những quan điểm khác nhau về tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo
pháp luật Pháp, việc xác định tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa được căn cứ
vào tiêu chí kinh tế hoặc pháp lý. Về tiêu chí kinh tế, một hợp đồng được coi là hợp đồng
quốc tế khi nó tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai
nước. Về tiêu chí pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi
các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán [5]. Còn ở Việt Nam, việc đưa ra một khái
niệm cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vẫn chưa được quan tâm thích đáng; căn

cứ theo Luật thương mại năm 2005 thì mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các
hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu [6].
Nghĩa là, theo quy định của Luật thương mại năm 2005, hoạt động mua bán hàng hoá được
coi là mua bán hàng hoá quốc tế không phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch của
các bên là Việt Nam hay nước ngoài. Luật thương mại năm 2005 lấy tiêu chí vận chuyển
hàng hoá qua biên giới để xác định quan hệ mua bán hàng hoá là mua bán hàng hoá quốc tế.
Tóm lại, hiện nay trên thế giới và trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một định
nghĩa thống nhất xác định cụ thể, trực tiếp phạm vi nội hàm của khái niệm hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Việc sử dụng khái niệm này vẫn phải dựa trên căn cứ pháp lý là các
nguồn luật khác nhau điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban
hành hoặc thứa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Theo đó,
trong mối quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế tương đối phức tạp với sự ảnh hưởng từ nhiều
hệ thống pháp luật khác nhau, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đóng vai trò
là hệ thống các quy tắc xử sự, điều chỉnh mối quan hệ mua bán hàng hóa có yếu tố nước
ngoài giữa các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng. Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế có thể thúc đẩy quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế phát triển khi những quy định của
nó phù hợp, phản ảnh đúng trình độ phát triển của quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế; và
ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của mối quan hệ mua bán này khi những quy định
của nó không tương thích với thực tiễn. Đối với công tác tổ chức và quản lý hoạt động
5[] Theo Nguyễn Thị Tuyết Giang, Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tr.16
6[] Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật thương mại năm 2005

14


thương mại quốc tế của ở mỗi quốc gia, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa có tầm
quan trọng nhất định. Bởi quá trình quản lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa

vào pháp luật. Chỉ trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, kịp thời; Nhà nước mới có thể phát
huy được hiệu quả chức năng của mình trong tổ chức và quản lý thương mại quốc tế. Vì
những lý do đó, pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở các nước trên thế giới cũng
như Việt Nam luôn cần đến sự quan tâm đúng mức trong công tác sửa đổi, bổ sung, làm mới
các quy định để có sự tương thích với tình hình kinh tế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật như các điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia (Ví dụ: Ở
Việt Nam là các văn bản luật; nghị quyết của Quốc hội; nghị định và nghị quyết của Chính
phủ; quyết định và chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, thông tư và chỉ thị của các
Bộ)… liên quan đến lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế và hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Xét trên phương diện nội dung, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế gồm
các quy phạm pháp luật về các vấn đề chủ yếu như giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng
(trong đó có nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên; các biện pháp khắc phục khi các
bên vi phạm quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng), giải quyết tranh chấp…
Do đó, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ có tính quốc tế phát sinh giữa các chủ thể là bên
có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, trong đó một bên là bên bán (bên xuất
khẩu) và bên còn lại là bên mua (bên nhập khẩu) liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu
hàng hóa theo quy định của pháp luật.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng, mua bán hàng
hóa là một giao dịch chủ yếu. Ở quy mô trong nước, mua bán hàng hóa thực hiện chức năng
trao đổi hàng hóa trong xã hội; ở quy mô quốc tế, nó làm nhiệm vụ trao đổi hàng hóa giữa
các nước thông qua các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Việc mua bán hàng hóa giữa các thương nhân thuộc các nước khác nhau xuất phát từ lợi
thế so sánh giữa các nước. Mỗi nước có những lợi thế tương đối so với các nước khác về

một số lĩnh vực hàng hóa. Vì vậy, một nước sẽ xuất khẩu những mặt hàng này và nhập khẩu
15


những mặt hàng khác mà mình ít có lợi thế hơn.[7] Tuy những loại hình giao dịch kinh doanh
quốc tế mới xuất hiện ngày càng nhiều như cung ứng dịch vụ quốc tế, đầu tư quốc tế… song
mua bán hàng hóa quốc tế vẫn có giá trị quan trọng hơn cả trong các giao dịch kinh doanh
quốc tế. Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là hoạt động mua bán hàng hóa vượt ra ngoài
phạm vi một quốc gia, diễn ra tại các địa điểm trên nhiều nước khác nhau, với những yếu tố
khác biệt về địa lý, lịch sử, khí hậu, cũng như các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp
luật, tôn giáo… Chính vì mang tính phức tạp hơn hoạt động mua bán hàng hóa trong nước
và ẩn chứa nhiều rủi ro hơn nên hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đòi hỏi cần có một hệ
thống pháp luật điều chỉnh phù hợp cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Ngoài ra, tính quốc tế trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng sẽ làm phát
sinh những vấn đề pháp lý đặc thù so với mua bán hàng hóa trong nước. Đó có thể là vấn đề
rủi ro đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, rủi ro
trong thanh toán, chuyển tiền quốc tế, hay hiện tượng xung đột pháp luật,… dẫn đến tranh
chấp. Giải quyết các vấn đề đó đòi hỏi một cơ sở pháp lý vững chắc, có tính thống nhất cao.
Mặt khác, trước thực tiễn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao
lưu mối quan hệ thương mại với các nước thì đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là việc làm cần
thiết. Vì thế, việc Nhà nước ta ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng nói
chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng có thể đưa hoạt động mua bán hàng
hóa đi đúng hướng; phần nào giúp các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế được
tự do thỏa thuận hợp đồng trong khuôn khổ pháp luật; thúc đẩy thương mại quốc tế; đồng
thời tạo điều kiện để Nhà nước dễ dàng quản lý hoạt động mua bán hàng hóa của các chủ thể
trong nền kinh tế.
Với những yêu cầu riêng biệt kể trên, việc ra đời của pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế là vô cùng cần thiết, không những làm cơ sở pháp lý cho hoạt động
thương mại quốc tế diễn ra suôn sẻ hơn mà còn tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế, tăng cường quản lý Nhà nước về kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế đa

phương tại nước ta.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Cũng giống như pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế gồm có các nội dung cơ bản như giao kết hợp đồng và thực

7[] Theo Chương 5 về “Pháp luật điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế”, Giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại
học Luật Hà Nội, tr.865

16


hiện hợp đồng. Tuy vậy, ở mỗi nội dung cụ thể pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế lại có những sự khác biệt nhất định được tạo nên bởi tính quốc tế của nó.
1.2.2.1. Nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Thứ nhất, về chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Chủ thể của một quan hệ pháp luật nói chung là cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật, tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Những điều kiện mà cá nhân
hoặc tổ chức đáp ứng được theo quy định của pháp luật và nhờ đó có khả năng trở thành chủ
thể của quan hệ pháp luật được gọi là năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể bao gồm năng lực
pháp luật và năng lực hành vi; đây không phải là thuộc tính tự nhiên của con người mà là
thuộc tính pháp lý, phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước.
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân
hoặc một trong các bên phải là thương nhân. Điều này có nghĩa là ngoài chủ thể là thương
nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp
đồng mua bán hàng hóa. Theo đó, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các cá
nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế; trong đó một
trong các bên chủ thể phải là thương nhân; cụ thể:
- Chủ thể là thương nhân: Đây là chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, gồm các thương nhân có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau và có đủ tư
cách pháp lý. Trong đó, tư cách pháp lý của các thương nhân được xác định căn cứ theo

pháp luật của nước mà thương nhân đó có trụ sở. Theo quy định của Luật thương mại Việt
Nam năm 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.[8]
Việc xác định năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự của tổ chức phụ
thuộc vào việc tổ chức đó có được công nhận là pháp nhân hay không. [9] Với các tổ chức là
pháp nhân như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… việc giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế của tổ chức được thực hiện thông qua người đại diện mà căn cứ xác
định là điều lệ của tổ chức hoặc quyết định thành lập tổ chức theo quy định pháp luật. Như
thế, người đại diện theo pháp luật của mỗi doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh
nghiệp đó thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế của doanh nghiệp; đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa
8[] Căn cứ Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005
9[] Xem thêm căn cứ công nhận pháp nhân tại Điều 84, Bộ luật dân sự năm 2005

17


vụ khác theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, với các tổ chức không có tư cách pháp
nhân như doanh nghiệp tư nhân hay các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên, có đăng ký kinh doanh thì chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế thường là chủ doanh nghiệp tư nhân, người đứng tên trong giấy đăng ký kinh doanh hoặc
người đại diện được ủy quyền theo quy định pháp luật.
- Chủ thể không là thương nhân: Khác với thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải là
thương nhân cũng được coi là chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi họ
có đầy đủ năng lực chủ theer để tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất
quốc tế với thương nhân. Đối với các cá nhân, để được thừa nhận là chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa, cá nhân trước hết phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự là khả năng được hưởng quyền lợi và
gánh vác những nghĩa vụ dân sự nhất định và năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá

nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự trong thực tế. [10] Đối
với tổ chức, có thể có tư cách pháp nhân hoặc không nhưng phải có đầy đủ năng lực chủ thể.
Năng lực pháp lý và năng lực hành vi của tổ chức phát sinh khi tổ chức đó được thành lập và
chấm dứt khi tổ chức đó bị giải thể, bị phá sản hoặc bị đình chỉ hoạt động.
Thứ hai, về nội dung giao kết trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế gồm các điều khoản do các bên
thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Tuỳ vào từng hợp đồng hàng hóa cụ thể, các bên có thể thoả thuận hay
không thỏa thuận những nội dung khác nhau theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có một
số nội dung mang đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần chú ý như:
- Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Căn cứ vào quy định của Luật thương mại 2005, hàng hóa là tất cả các loại động sản, kể
cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất. Đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường, được phép
xuất nhập khẩu theo quy định của pháp luật nước bên mua và bên bán, có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Thông thường hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế sẽ được dịch chuyển qua lại qua biên giới của một hoặc nhiều quốc gia khác
nhau. Song có những trường hợp hàng hóa không cần hoặc không thể dịch chuyển qua biên
giới vẫn là đối tượng của hợp đồng này. Ví dụ: Hợp đồng mua bán được giao kết giữa một
bên là công dân Việt Nam và một bên là công dân Việt Nam định cư tại nước ngoài, hàng
10[] Theo Điều 14, Điều 17 Bộ luật dân sự 2005

18


hóa mà các bên hướng đến đang tồn tại ở Việt Nam. Khi đó, dù hàng hóa có được chuyển ra
ngoài lãnh thổ Việt Nam hay không thì hợp đồng đó vẫn được xem là hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế do đã thỏa mãn điều kiện chủ thể hợp đồng cư trú tại các quốc gia khác
nhau.
- Số lượng và chất lượng hàng hóa: Các bên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có

thể thỏa thuận và ghi trong hợp đồng về số lượng hàng hóa cụ thể hoặc số lượng hàng hóa
được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán thương mại quốc tế như chiếc, mét
vuông, kilôgam hay bằng đơn vị nào khác tùy theo tính chất của hàng hóa. Chất lượng hàng
hóa giúp xác định chính xác hơn đối tượng của hợp đồng theo nhu cầu của người mua với
những tính năng, kích thước, quy cách nhất định. Thỏa thuận cụ thể về số lượng và chất
lượng hàng hóa là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên cũng
sẽ khác nhau với mỗi phương pháp xác định chất lượng hàng hóa, có các phương pháp xác
định chất lượng như dựa vào các phẩm cấp hoặc các tiêu chuẩn (ISO 9001, TCVN…), dựa
vào mẫu hàng hóa, dựa vào nhãn hiệu hàng hóa hay điều kiện kỹ thuật… Song song với đó,
một số thị trường lại có các quy định riêng về chất lượng hàng hóa mà các bên khi giao kết
hợp đồng cần quan tâm như: quy định về phụ gia thực phẩm với thị trường EU, quy định
mức giới hạn tối đa về hóa chất trong thủy sản với thị trường Canada, quy định vệ sinh đối
với hàng thủy sản theo Bộ luật vệ sinh thực phẩm Nhật Bản ở thị trường Nhật Bản…
- Giá và phương thức thanh toán: Trong hợp đồng, các bên có thể xác định cụ thể giá của
hàng hóa hoặc xác định giá và cách tính giá. Giá trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
phải được biểu thị rõ về đơn giá, tổng giá trình, đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán.
Tiền tệ dùng để thanh toán có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ đối với các bên. Ví dụ: Hợp đồng
được giao kết giữa người bán Việt Nam và người mua ở Đức, hai bên thoả thuận sử dụng
đồng euro làm đồng tiền thanh toán. Lúc này, đồng euro là ngoại tệ đối với phía người bán
Việt Nam nhưng lại là nội tệ đối với người mua Đức. Cũng có trường hợp đồng tiền thanh
toán đều là nội tệ của cả hai bên, như trường hợp các doanh nghiệp thuộc các nước trong EU
sử dụng đồng euro làm đồng tiền chung. Song, phần lớn các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế hiện nay sử dụng đồng đô la Mỹ làm đồng tiền thanh toán do các đặc tính nổi bật của
nó.
Trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, thu chi tiền hàng là quyền lợi và nghĩa vụ
cơ bản của hai bên mua và bán. Vì vậy, trước khi giao kết hợp đồng, các bên phải đàm phán
về phương thức thanh toán, nỗ lực thỏa thuận điều kiện thanh toán có lợi cho mình. Các
phương thức thanh toán mua bán hàng hóa quốc tế gồm có: Chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu,
19



nhờ thu trơn, thu kèm chứng từ, ủy thác mua hàng, tín dụng chứng từ, bảo lãnh và tín dụng
dự phòng.[11]
- Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng:
Địa điểm giao hàng cần được quy định rõ trong hợp đồng, đây là nơi mà các bên tiến
hành giao nhận hàng. Việc xác định địa điểm giao hàng thường tùy vào điều kiện cơ sở giao
hàng mà các bên lựa chọn. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo điều kiện
CIF, trách nhiệm giao hàng của bên bán được hoàn thành khi hàng hóa được giao lên tàu ở
cảng đi. Còn theo điều kiện DDU, bên bán phải chịu mọi rủi ro cho đến khi hàng hóa tới
cảng đến. Dựa vào đó, địa điểm giao hàng theo điều kiện CIF là ở cảng đi, theo điều kiện
DUU là cảng đến.
Thời hạn giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là thời hạn mà bên bán
phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua. Các bên có thể quy định thời hạn giao
hàng là một khoảng thời gian nhất định hoặc quy định thời hạn cuối cùng mà hàng phải giao
xong; giao hàng trong một lần hoặc nhiêu lần. Thời điểm người bán hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng mà các bên thỏa thuận. Người bán cũng
có thể giao hàng trước thời hạn, giao hàng từng phần khi có thỏa thuận trong hợp đồng hoặc
khi nhận được sự chấp thuận của người mua.
Ngoài những nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết tương tự
như trong hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, các bên có thể đưa thêm vào hợp đồng
những điều khoản mà họ cho là cần thiết. Mà trong đó việc thêm điều khoản về luật áp dụng
cho hợp đồng và điều khoản giải quyết tranh chấp là rất quan trọng đối với hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Bởi pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không
chỉ là luật quốc gia mà còn nhiều nguồn luật khác, điều này có thể gây ra tranh chấp cho các
bên khi chọn luật áp dụng.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải đáp ứng được cả yêu cầu về nội dung và
hình thức. Pháp luật của hầu hết các nước đều có quy định về điều kiện hình thức hợp đồng.
Căn cứ vào đó, hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý và được pháp luật thừa nhận sự tồn tại khi có
hình thức phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật các nước lại quy định về

hình thức của hợp đồng khác nhau. Điều này dẫn đến tình trạng cùng một hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế nhưng ở nước này được công nhận nhưng lại không được công nhận ở
nước khác do không đáp ứng được điều kiện về hình thức hợp đồng do pháp luật quốc gia đó
11[] GS. Đinh Xuân Trình – Chủ biên (2006), Giáo trình Thanh toán quốc tế, trường Đại học Ngoại thương

20


quy định. Vấn đề được đặt ra là cần lựa chọn hệ thống pháp luật nào có mối liện hệ mật thiết
nhất và có liên quan nhất để từ đó đối chiếu và lựa chọn hình thức phù hợp cho hợp đồng.
kết Đối với một số nước trong đó có Việt Nam, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế nhất thiết phải là văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Tuy nhiên, để tránh những hiểu lầm khi thực hiện hợp đồng, thông thường mọi thỏa thuận
đều được ghi lại thành văn bản, nhất là trong trường hợp mua bán hàng hóa quốc tế, khi các
bên thường không có cùng tiếng nói, không cùng một hệ thống pháp luật và có trụ sở thương
mại ở các quốc gia khác nhau. Ngoài văn bản viết, thực tiễn thương mại quốc tế thừa nhận
hợp đồng dưới dạng tồn tại sau đây của dữ liệu như là văn bản: Bản fax; điện tín, điện toán;
tài liệu mềm (tồn tại ở dạng tài liệu điện tử như email).
Thứ tư, về ngôn ngữ trong hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa quôc tế là sự thể hiện
ý chí của các bên khi tham gia xác lập các quan hệ giao dịch. Nó được xâu chuỗi bởi các
điều khoản liên kết bởi các câu từ. Do đó, một trong những yêu cầu đặt ra cho hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế là từng câu chữ, ngôn từ sử dụng trong hợp đồng phải đảm bảo sự
chính xác cụ thể, rõ ràng, đầy đủ ý nghĩa. Một trong những yếu tố đầu tiên để hợp đồng thể
hiện các ý chí của các bên được rõ ràng, chính xác là ngôn ngữ trong giao dịch. Hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết bằng ngôn ngữ mà các bên đều chấp thuận, ngôn ngữ
hợp đồng thường là tiếng nước ngoài với một hoặc cả hai bên, trong đó phần lớn được ký kết
bằng tiếng Anh.
Thứ năm, về trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Trình tự giao kết
hợp đồng là quá trình mà trong đó bên bán và bên mua bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao
đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận cùng nhau xác lập quyền và nghĩa vụ mỗi bên. Giống với

hợp đồng mua bán nói chung, trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng bao
gồm quá trình đề nghị giao kết (chào hàng) và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (chấp
nhận chào hàng). Trong đó, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng với bên đã được xác định cụ thể. Đề nghị hợp đồng mua bán hàng hóa có
thể do bên bán hoặc bên mua thực hiện. Đề nghị giao kết hợp đồng hay lời chào hàng phải
đảm bảo được những tiêu chuẩn pháp lý nhất định theo quy định của pháp luật như điều kiện
có hiệu lực, thời gian có hiệu lực, điều kiện hủy bỏ… với nội dung rõ ràng về tên hàng, số
lượng, phẩm chất, giá cả hàng hóa. Chấp nhận đề nghị giao kết là sự trả lời của bên được đề
nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị; hoặc bên được đề nghị có thể im lặng
nhưng vẫn được xem là chấp nhận đề nghị giao kết nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết.
21


1.2.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Không chỉ quy định các nội dung về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, để
đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng, mang lại
lợi ích cho các bên tham gia giao kết, đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp
luật cần bảo vệ; pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã đưa ra những quy định
mà các chủ thể phải tuân thủ trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực hiện hợp đồng là quá
trình các bên thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của mình, do đó pháp luật điều chỉnh việc thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu gồm các quy định đối với nghĩa vụ của
bên bán và bên mua trong hợp đồng.
Thứ nhất, về nghĩa vụ cơ bản của bên bán:
- Nghĩa vụ giao hàng: Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng
mua bán hàng hoá. Trước khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng, với hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, có những thủ tục là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực nên các bên phải hoàn thành
như: Xin giấy phép nhập khẩu hoặc hạn ngạch (với trường hợp giấy phép phải có hạn
ngạch), mở thư tín dụng (L/C) nếu hợp đồng có thỏa thuận phương thức thanh toán này…
Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên bán đều có liên quan và nhằm mục đích hoàn

thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua.
Cụ thể, bên bán phải giao hàng đúng đối tượng và chất lượng: Đối tượng và chất lượng
hàng hoá là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá. Bên bán phải thực hiện
giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa thuận và quy định của pháp luật. Trong
việc giao nhận hàng hoá, vấn đề xác định hàng hoá có phù hợp với hợp đồng về đối tượng và
chất lượng hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Về nguyên tắc, phải căn cứ vào nội dung cụ
thể của hợp đồng để xác định vấn đề này, nếu không thì phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật. Khi hàng hoá giao không phù hợp với hợp đồng, bên mua có quyền tự chối nhận
hàng. Trong nhiều trường hợp, việc giao hàng hoá còn bao gồm việc giao các chứng từ có
liên quan đến hàng hoá như chứng nhận chất lượng, chứng nhận nguồn gốc, xuất xứ, vận
đơn... Nếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì
bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn, tại
địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận.
Ngoài ra, bên bán phải giao hàng đúng thời hạn và đúng địa điểm đã thỏa thuận: Những
nội dung liên quan đến điều khoản giao hàng như thời gian, địa điểm, phương thức giao
hàng thường được các bên thỏa thuận phù hợp với đặc điểm của hàng hoá trong hợp đồng.

22


Trường hợp các bên không thỏa thuận những vấn đề này trong hợp đồng thì áp dụng quy
định của pháp luật hoặc tập quán.
- Kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng: Việc kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng là
yêu cầu cần thiết đối với giao dịch mua bán trong thương mại, ngăn ngừa những sai sót
trong việc giao hàng, tăng khả năng thực hiện hiệu quả việc mua bán. Bên bán cần tạo điều
kiện để bên mua kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng nếu các bên không có thoả thuận
khác.
- Đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá mua bán: Theo quy định của pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa thì quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời
điểm hàng hóa được chuyển giao. Bên bán phải đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá đã

giao cho bên mua. Nghĩa là, bên bán phải đảm bảo tính hợp pháp về quyền sở hữu và việc
chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hoá giao cho bên mua; đảm bảo quyền sở hữu của
bên mua đối với hàng hoá đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba. Trong trường hợp
hàng hoá bị người thứ ba tranh chấp thì bên bán phải đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền
lợi của bên mua; nếu người thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán
thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại.
- Chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua: Theo quy định của pháp luật
thương mại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận
khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hoá được
chuyển giao. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, quyền sở hữu hàng hoá có thể
được chuyển giao ở những thời điểm khác nhau, tùy thuộc tính chất của việc chuyển giao
hàng hoá và phương thức mua bán.
- Nghĩa vụ bảo hành hàng hoá: Bảo hành là việc bên bán, trong một thời gian nhất định
phải chịu trách nhiệm về hàng hoá sau khi đã giao hàng hoá cho bên mua. Việc bảo hành
được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo các quy định của pháp luật. Bên bán phải thực hiện
nghĩa vụ bảo hành trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Đồng thời bên
bán phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Thứ hai, nghĩa vụ cơ bản của bên mua: Nghĩa vụ cơ bản của bên mua bao gồm nhận
hàng và thanh toán.
- Nghĩa vụ nhận hàng: Nhận hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên mua tương ứng với nghĩa
vụ giao hàng của bên bán. Nhận hàng được hiểu là việc bên mua tiếp nhận hàng hoá từ bên
bán. Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi nhận hàng, bên

23


mua phải thực hiện các công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng, những công việc này có
thể khác nhau trong những trường hợp cụ thể.
- Nghĩa vụ thanh toán: Thanh toán là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan
hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa

thuận trong hợp đồng. Điều khoản thanh toán được các bên thỏa thuận thông thường bao
gồm những nội dung cụ thể về đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn, địa
điểm thanh toán, trình tự, thủ tục thanh toán... Bên mua phải thực hiện đúng những nội dung
này theo thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về những nội dung cụ thể liên
quan đến việc thanh toán thì áp dụng quy định của pháp luật.
Thứ ba, về vi phạm hợp đồng: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể có những vi
phạm xảy ra. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của
pháp luật. Căn cứ xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng gồm: Có hành vi vi phạm hợp
đồng; có thiệt hại thực tế xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
thực tế; có lỗi của bên vi phạm. Với vi phạm các thỏa thuận giữa các bên thì trách nhiệm
pháp lý căn cứ theo quy định pháp luật Việt Nam là các hình thức trách nhiệm gồm:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng: Khi một bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ quy định trọng hợp đồng thì bên có quyền lợi bị vi phạm
có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng các biện pháp khác để
hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí phát sinh. Chế tài này được áp dụng
trong các trường hợp: Giao hàng thiếu; giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không
đúng hợp đồng. Trong trường hợp giao hàng thiếu, chế tài này quy định rằng bên vi phạm
phải giao đủ hàng theo đúng như đã thỏa thuận trong hợp đồng, tức là phải giao đúng về số
lượng, chất lượng, chủng loại,... Đối với việc giao hàng kém chất lượng, cung cấp dịch vụ
không đúng hợp đồng, bên vi phạm phải tìm cách loại trừ các khuyết tật của hàng hóa, thiếu
sót của dịch vụ. Trong trường hợp này, bên vi phạm có thể giao hàng khác để thay thế hàng
kém chất lượng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng, tuy nhiên không được dùng tiền
hoặc hàng khác chủng loại, dịch vụ khác để thay thế, nếu không được sự chấp thuận của bên
có quyền lợi bị vi phạm.
- Phạt vi phạm: Đây là một chế tài rất hay được sử dụng trong việc giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hợp đồng kinh tế. Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng
có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Từ định nghĩa trên có thể thấy, phạt vi phạm chỉ được
24



áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng loại chế tài
này cho những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi phạm có thiệt hại hay
không.
Để có thể đòi được tiền phạt, các bên phải dựa trên căn cứ sau: Một bên đã không thực
hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Không thực hiện hợp đồng có thể là
không giao hàng, không nhận hàng, không thanh toán tiền hàng... Còn thực hiện không đúng
hợp đồng có thể là chậm giao hàng, giao hàng thiếu, giao hàng sai quy cách chủng loại, giao
hàng kém phẩm chất...
- Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng:
Trước hết, tạm ngừng thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hình thức chế tài
mà một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ. Khi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng đồng
thời chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên
kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
Với hình thức trách nhiệm hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, một bên chấm
dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao
kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể là hủy bỏ một phần hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ
một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại
trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bải bỏ hoàn toàn việc
thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời
điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp
đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết
tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có

nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã
hội: Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể
đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch hoặc hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
25


×