Tải bản đầy đủ (.doc) (187 trang)

Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 187 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO XUÂN QUẢNG

PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG THƯ TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ :

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - NĂM 2007
1


MỤC LỤC.
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt.
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TOÁN BẰNG THƯ TÍN DỤNG TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I.1
I.1.1
I.1.2
I.1.3
I.1.4
I.2


I.3
I.3.1
I.3.2
I.4
I.4.1
II.4
II.5
II.6

Khái niệm về thư tín dụng và phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Nguồn gốc hình thành thư tín dụng
Khái niệm thư tín dụng
Vai trò của thư tín dụng
Bản chất pháp lý của thư tín dụng.
Các loại thư tín dụng.
Các nguyên tắc, đặc trưng của phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Các nguyên tắc cơ bản của phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Các đặc trưng của phương thức tín dụng chứng từ.
Các bên tham gia và quá trình thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng.
Các bên tham gia, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quá trình
thanh toán bằng thư tín dụng theo các quy định của UCP và các quy định
có liên quan.
Quan hệ giữa thư tín dụng và hợp đồng mua bán.
Quan hệ giữa người mua (người yêu cầu mở thư tín dụng) và ngân hàng
phát hành.
Quan hệ giữa ngân hàng phát hành, người thụ hưởng và ngân hàng trung
gian.

I.4.2 Quy trình thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng.
I.5

Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng trước yêu cầu của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
I.5.2 Pháp luật về thanh toán bằng L/C – cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các
quan hệ thanh toán bằng L/C.
I.5.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và những yêu cầu đặt ra
đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng
thư tín dụng ở Việt Nam.
Chương II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG THƯ TÍN DỤNG
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIÊN NAY.
II.1

Các quy định quốc tế điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng L/C.

2


II.1.1
II.1.2
II.2
II.3

Các UCP.
eUCP và ISBP – các phụ bản của UCP.
Các văn bản pháp lý điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng L/C ở Việt Nam.
Các dạng tranh chấp phổ biến phát sinh từ hoạt động thanh toán bằng L/C
và giải quyết tranh chấp.
II.3.1 Các tranh chấp liên quan đến chứng từ xuất trình.
II.3.2 Tranh chấp phát sinh do cách hiểu không đúng về điều kiện phi chứng từ.
II.3.3 Các tranh chấp liên quan tới trách nhiệm của các bên tham gia vào
phương thức tín dụng chứng từ.

II.4 Các vấn đề đặt ra từ việc áp dụng pháp luật về thanh toán bằng L/C ở Việt
Nam.
Chương III : HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG TÍN DỤNG THƯ.
III.1 Cơ sở cho việc định hướng hoàn thiện pháp luật về thư tín dụng.
III.2 Hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng.
III.2.1 Xử lý các vấn đề tồn tại.
III.2.2 Hoàn thiện các quy định hiện hành.
III.2.2 Đề xuất.
Kết luận.
CÁC PHỤ LỤC.

3


MỞ ĐẦU
I.

Tính cấp thiết của đề tài :

Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra rất sôi động và mạnh mẽ, Đảng
và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quan hệ giao
lưu, buôn bán với các nước. Tham gia sân chơi chung tức là chúng ta phải chấp
nhận những quy tắc, luật lệ chung trong đó có các quy tắc trong thanh toán
thương mại quốc tế bằng thư tín dụng (L/C).
Trên thực tế, thư tín dụng là một công cụ rất cổ điển trong thanh toán
thương mại quốc tế, nhưng hiểu và vận dụng cho đúng và hiệu quả lại là một vấn
đề không hề đơn giản.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, chúng ta chịu ảnh hưởng và chủ yếu quan
hệ với Liên Xô và các nước trong khối Đông Âu. Việc giao thương buôn bán cũng
tương đối trầm lắng, chủ yếu dùng phương thức nhờ thu với đồng tiền thanh

toán là đồng Rúp. Nhưng từ sau năm 1986, với chủ trương mới và đặc biệt sau
những năm đầu thập kỷ 90 đầy biến động của thế kỷ trước, chúng ta đã có những
thay đổi lớn về nhận thức và quan điểm quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại
quốc tế. Người ta vẫn nói, toàn cầu hoá là một cuộc chơi mà ở đó phần thắng luôn
thuộc về những người hiểu rõ luật chơi. Vì vậy, nắm được luật chơi chung là
yêu cầu rất bức thiết.
Hiện nay, chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, đã và
đang tích cực tham gia, gia nhập những tổ chức thương mại lớn (một trong
những thành quả lớn nhất và mới nhất là việc chúng ta vừa trở thành thành viên
thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO trong năm 2006). Vì vậy, việc nắm
rõ về phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, đặc biệt trong thương mại
quốc tế là rất cần thiết, tránh những thiệt hại, yếu thế không đáng có.
Đã hơn 20 năm bước vào thời kỳ đổi mới, 15 năm bước vào kinh tế thị
trường với rất nhiều cơ hội tham gia các quan hệ thương mại quốc tế nhưng
thực thế các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu
biết và vận dụng hiệu quả phương thức thanh toán bằng thư tín dụng – một
trong những phương thức thanh toán quan trọng của thương mại quốc tế.
Hiện nay, các quy định về thanh toán bằng L/C ở Việt Nam là rất thiếu và
yếu, cần được nghiên cứu, phân tích để tìm nguyên nhân và các giải pháp
hoàn thiện.
4


Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thanh toán bằng
thư tín dụng, thực tế đã có một số bài báo, báo cáo khoa học và một số nghiên
cứu, giáo trình, sách…như : Một số giáo trình của trường Đại học Ngoại
thương Hà
1
Nội , của các tác giả đã hoặc đang làm Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài
2

Quốc tế Việt Nam , ngoài ra còn một số bài báo, tài liệu của những người đang
làm các công tác liên quan tại các Ngân hàng…Dù vậy, chưa có nhiều công trình
đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ và hoàn chỉnh cả về cơ sở lý luận và thực tiễn
cho các quy định này.
Với những lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “ Pháp luật về
thanh toán bằng thư tín dụng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
II.

Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về thanh
toán bằng L/C, đồng thời xem xét đánh giá thực trạng các quy định hiện nay ở
Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định này, tôi mong muốn làm sáng tỏ cơ
sở lý luận, bản chất của các quy định về thanh toán bằng thư tín dụng, từ đó
đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định này.
III.

Nhiệm vụ của Luận văn

Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn cần có những nhiệm vụ cụ
thể sau :

1
2

-

Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thư tín dụng, vị trí
vai trò của nó trong hoạt động thanh toán của các doanh nghiệp

(đặc biệt trong thanh toán quốc tế)

-

Nghiên cứu bản chất của thư tín dụng, các bên tham gia và bản chất
mối quan hệ giữa các bên, các bộ phận cấu thành thư tín dụng...

-

Nghiên cứu thực trạng các quy định, các quy tắc đang được áp dụng
hiện nay ở Việt Nam điều chỉnh vấn đề thanh toán bằng thư tín dụng.
Từ đó đề ra các phương hướng hoàn thiện các quy định này.

Xem các sách, giáo trình của Đinh Xuân Trình, Nguyễn Thị Quy, Nguyễn Thị Mơ…
Xem các tác phẩm của Nguyễn Trọng Thùy
5


IV.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
-

Đối tượng nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy
định hiện hành đang được sử dụng để điều chỉnh các phương thức
thanh toán trong thương mại quốc tế ở Việt Nam, trong đó chủ yếu là
thư tín dụng. Đồng thời cũng nghiên cứu giá trị thực tiễn của các quy
định này.

-


Phạm vi nghiên cứu : Đề tài chỉ đi vào nghiên cứu các khía cạnh pháp lý
của vấn đề mà không đi sâu vào khía cạnh kinh tế hay các khía cạnh có
tính nghiệp vụ.

V.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nay, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp thống kê,
phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
VI.

Đóng góp của việc nghiên cứu đề tài
-

Làm sáng tỏ bản chất và quy trình thực hiện của thư tín dụng, giúp các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu rõ giá trị và quy trình thực hiện của
thư tín dụng.

-

Nghiên cứu một cách tổng thể các quy định hiện được áp dụng về
vấn đề thư tín dụng, tìm ra những mặt được và mặt chưa được, những
khía cạnh đã được quy định, những khía cạnh còn bỏ ngỏ hay còn yếu...

-


Đưa ra được những đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện những quy định
về thư tín dụng, giúp những nhà xuất khẩu thực sự có một công cụ
thanh toán hiệu quả trong thương mại quốc tế....

VII. Bố cục của Luận văn :
Ngoài các phần Lời cam đoan, Lời cảm ơn, mục lục, danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục, luận văn gồm 03 chương.

6


CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TOÁN BẰNG THƯ TÍN DỤNG
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
I.1

Khái niệm về Thư tín dụng và thanh toán bằng thư tín dụng.
I.1.1 Nguồn gốc hình thành thư tín dụng.

Trong giai đoạn đầu tiên hình thành lịch sử loài người, có một số mốc được
coi là rất quan trọng. Chẳng hạn, việc con người đứng thẳng lên đi bằng hai chân
là đánh dấu việc con người chuyển từ vượn sang người. Khi con người bắt đầu
biết sử dụng công cụ lao động là chính thức bước từ giai đoạn thụ động sử
dụng các sản phẩm thiên nhiên mà đã chính thức khai thác thiên nhiên một cách
chủ động. Có lửa, con người bước từ ăn sống nuốt tươi sang giai đoạn ăn chín...Và
khi sản phẩm dư thừa, nhu cầu trao đổi xuất hiện, dẫn đến sự ra đời của thương
mại. Có thể nói, việc xuất hiện hoạt động thương mại đánh dấu một bước phát
triển lớn trong tiến trình lịch sử loài người.
Thương mại quốc tế gần như là xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất
hiện và phát triển của “loài người” theo đúng nghĩa. Và như là một quá trình tất
yếu, trong sự phát triển của thương mại, con người dần dần đúc kết, xây

dựng những quy tắc, tập quán, tục lệ để hoạt động này ngày càng hoàn thiện
hơn, phục vụ tốt hơn nhu cầu của loài người.
Cùng với những thuận lợi có thể mang lại, các hoạt động thương mại quốc
tế cũng chứa đựng những rủi ro. Khả năng xảy ra rủi ro là có với cả người mua và
người bán, đặc biệt là trong những giai đoạn như vận chuyển, thanh toán...Thư tín
dụng ra đời chính từ nhu cầu hạn chế những rủi ro phát sinh trong thực tiễn .
Những rủi ro này thường xảy ra khi hai bên tham gia giao dịch ở cách xa nhau về
mặt địa lý, thiếu thông tin về đối tác, và hàng hoá phải vận chuyển qua những
phương tiện chuyên chở đường dài có nhiều rủi ro như tàu biển, máy bay hay tàu
hoả. Thực tế cho thấy, mặc dù đôi khi người bán không thể đánh giá hết khả
năng thanh toán của người mua qua các thông tin mình có, hay người mua có
thể phải thanh toán khi không có một đảm bảo nào với việc hàng được xuất đi,
cũng như có phù hợp với yêu cầu không, họ vẫn có nhu cầu tham gia giao
dịch. Như vậy, không thể vì những rủi ro có thể xảy ra mà không tiến hành các
hoạt động thương mại, vấn đề là phải nghĩ ra các công cụ, phương tiện, biện pháp
để hạn chế nó.
Mặt khác, một lý do dẫn đến sự ra đời của thư tín dụng là nhu cầu được
thanh toán nhanh chóng của người bán. Hầu hết các hoạt động thương mại quốc
tế đều được thực hiện với những khoảng cách rất xa, chính điều này mang lại
nhiều khó khăn cho vận chuyển và thanh toán. Chẳng hạn, một tầu hàng từ Việt
7


Nam sang đến Hoa Kỳ hay Braxin bằng đường biển có thể mất nhiều tháng và
phải qua

8


rất nhiều quốc gia, bến cảng... Trong trường hợp này phương thức thanh toán cổ

điển “giao hàng - trả tiền”: thường khiến cho cả người bán lẫn người mua không
chủ động được về mặt vốn cũng như điều hành kinh doanh. Để bán một tầu
hàng, có khi người bán phải chịu “đọng vốn” cả năm trời...Ngay cả người mua
cũng khó mà chủ động kế hoạch kinh doanh...
Thực tế đó phát sinh đòi hỏi phải có một phương thức thanh toán vừa
đảm bảo cho người bán được nhanh chóng nhận tiền sau khi xuất hàng đi, đồng
thời lại đảm bảo cho người mua nhận hàng đúng và đủ với yêu cầu. Phương
thức thanh toán đó phải giản tiện, linh hoạt và phải dựa trên những bằng
chứng thuyết phục về việc người bán đã thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong
những tài liệu giao dịch, có một loại tài liệu có thể chứng minh sự tồn tại của
hàng hoá, xác nhận hiện trạng hàng hoá cũng như việc chuyển giao hàng hoá
từ người bán sang người vận chuyển … trong mọi trường hợp đều cần phải có
trong việc giao hàng, đó là chứng từ. Chứng từ dưới dạng một hay nhiều văn
bản xác nhận việc chuyển giao hàng hoá, đóng một vai trò quan trọng làm đại
diện thay thế cho hàng hoá trong quá trình thanh toán.
Nhưng người bán và người mua không thể tự mình thực hiện mọi công việc
liên quan. Đến đây, xuất hiện nhu cầu của những người trung gian, đó là các ngân
hàng. Khi đó, dựa trên chứng từ, Ngân hàng của người mua sẽ tiến hành chi trả
khi chứng từ thoả mãn những điều kiện và tiêu chuẩn đã được quy định. Việc
tiến hành thanh toán thông qua ngân hàng dựa trên chứng từ được xuất trình trở
thành một giải pháp cho cả hai vấn đề nêu trên và là cơ sở hình thành hình thức
thanh toán bằng thư tín dụng trong quan hệ thương mại quốc tế.
I.1.2 Khái niệm thư tín dụng
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng còn được gọi là phương thức
tín dụng chứng từ. Đây là một trong nhiều phương thức thanh toán không sử
dụng tiền mặt trong thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế.
Về bản chất, tín dụng chứng từ được thực hiện dựa trên sự can thiệp của
ngân hàng vào một giao dịch thương mại theo yêu cầu của một bên tham gia giao
dịch, cho phép thanh toán cho người bán trên cơ sở xuất trình chứng từ viết.
Có nhiều cách để định nghĩa về thư tín dụng, nhưng định nghĩa được thừa

nhận rộng rãi và được coi là chuẩn mực nằm tại Điều 2 của bộ Các quy tắc và thực
hành thống nhất tín dụng chứng từ, xuất bản phẩm số 500 (UCP 500) (vấn đề các
UCP sẽ được trình bày chi tiết tại chương II). Theo đó, UCP 500 đã đưa ra một
định nghĩa như sau:
9


Những thuật ngữ “tín dụng chứng từ” và “thư tín dụng dự phòng” (dưới đây
gọi chung là Tín dụng) có nghĩa là bất cứ một một thoả thuận nào, dù cho được
gọi hoặc mô tả như thế nào, theo đó một Ngân hàng (Ngân hàng phát hành)
hành động theo yêu cầu và chỉ thị của một khách hàng (người yêu cầu phát
hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình:
- phải tiến hành việc trả tiền hoặc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba
(Người thụ hưởng lợi) hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do
người thụ hưởng lợi ký phát,
hoặc
- phải uỷ quyền cho một ngân hàng khác tiến hành thanh toán như thế
hoặc chấp nhận và trả tiền các hối phiếu như thế
hoặc
- uỷ quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu
khi (các) chứng từ quy định được xuất trình với điều kiện là các điều kiện của Tín
dụng được thực hiện đúng”
Theo quy định tại Điều 16 của Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26
tháng 03 năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban
hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
(“ quyết định 226” )thì :
“Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng
mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín
dụng), theo đó, Ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ
thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để :

- Trả tiền hoặc ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của
người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều
kiện
của thư tíndụng; hoặc
- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền theo
lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi
nhận
được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư
tín dụng”.
Như vậy, nếu theo quy định trên, về phạm vi, thư tín dụng được dùng để
thanh toán giữa người mua và người bán cả trong quan hệ thương mại trong
nước và nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tế ở Việt Nam, thư tín dụng chủ yếu
được dùng trong các quan hệ thương mại quốc tế mà hầu như không bao giờ
được sử dụng cho các quan hệ thương mại nội địa. Điều này do nhiều nguyên
nhân. Có thể là do trong các quan hệ thương mại nội địa, các thương nhân còn có
rất nhiều công cụ thanh toán khác hiệu quả. Và điều quan trọng hơn có lẽ và do
chưa có sự nhận thức về vai trò của thư tín dụng cũng như chưa có thói quen
sử dụng nó cho thương mại trong nước.
10


Ngoài quy định nêu trên về thư tín dụng nói chung, vai trò của thư tín dụng
trả chậm được đặc biệt quy định riêng tại Điều 1 Quy chế mở thư tín dụng nhập
hàng trả chậm ban hành kèm theo Quyết định số 711/2001/QĐ – NHNN ngày
25/5/2001, theo đó:
“Thanh toán bằng thư tín dụng trả chậm (sau đây gọi là “nghiệp vụ L/C
trả chậm”) là một phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có kỳ hạn do ngân
hàng thực hiện để phục vụ cho việc nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp”
Có thể nói thư tín dụng là một vấn đề không mới. Nó đã được thừa nhận
và sử dụng rộng rãi trên thế giới, đồng thời, những nguyên tắc, tập quán cũng

như những vấn đề liên quan đã được tổng hợp, đúc kết thành những văn bản,
tài liệu được thừa nhận rộng rãi.
Ở Việt Nam, dù các quy định pháp luật chưa đầy đủ và hoàn chỉnh, nhưng
thực tế các doanh nghiệp và đơn vị cơ quan Nhà nước ở Việt Nam trong quan hệ
thương mại quốc tế từ trước đến nay vẫn thừa nhận thư tín dụng cũng như các
vấn đề liên quan dựa trên các thông lệ và tập quán quốc tế, cụ thể nhất là Các
quy tắc và thực hành thống nhất tín về dụng chứng từ do Phòng Thương mại
quốc tế soạn thảo và ban hành.
Quy chế Mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành kèm theo Quyết
định số 711/2001/QĐ – NHNN ngày 25/5/2001, tại khoản 2 Điều 6 đã quy định
rằng ngoài trách nhiệm phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, việc mở thư tín dụng
trả chậm để nhập khẩu hàng hoá phải bảo đảm phù hợp với Quy tắc thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ của Phòng Thương mại Quốc tế (Theo phiên
bản mà Ngân hàng lựa chọn để thực hiện).
Điều 19, Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng quy định : “ ..việc mở,
phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán, quyền,
nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng thực hiện theo các
quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại quốc tế ICC ban hành,
do các bên tham gia thanh toán thỏa thuận áp dụng và theo quy định hiện hành
của pháp luật Việt Nam”.
Như vậy, bằng quy định này, Ngân hàng nhà nước đã thừa nhận một cách
chính thức định nghĩa cũng như các vấn đề liên quan khác theo như tập quán
thương mại quốc tế được thừa nhận rộng rãi (quy định trong các UCP).

11


Do đó, từ những phân tích nêu trên, trong luận văn này, thuật ngữ “thư tín

dụng” sẽ được hiểu đầy đủ và trọn vẹn theo định nghĩa về “thư tín dụng” được
quy định trong các UCP do Phòng Thương mại quốc tế (ICC) soạn thảo và ấn hành.
3

Các nội dung cơ bản của một Thư tín dụng bao gồm :
- Tên ngân hàng thông báo (Advising Bank)
- Hình thức tín dụng chứng từ, tức L/C (form of documentary credit) (Ví dụ :
không hủy ngang, chuyển nhượng, xác nhận…).
- Ngày phát hành (Date of issue) hay ngày mở (opening date).
- Ngày và nơi hết hiệu lực (Date and place of expiry).
- Người mở L/C (Applicant), tức người xuất khẩu
- Người thụ hưởng (Beneficiary), tức người xuất khẩu, người bán.
-

Số tiền L/C (L/C Amount): bằng số và chữ giống nhau, loại ngoại tệ được
thanh toán tại (Available with) : - NH thông báo (Advising Bank) – Bất kỳ
NH nào (Any Bank), bằng một trong ba cách : (i) Chiết khấu (Negotiation);
(ii) Chấp nhận hối phiếu (Acceptance); và (iii) Thanh toán (Payment).

-

Giao hàng từng phần (Partial shipment) : được phép (allowed) hay
không được phép (not allowed).

- Chuyển tải (Transhipment) : Được phép (allowed) hay không được phép
(not allowed).
-

Ngày gửi hàng chậm nhất (Latest date of shipment) hay ngày gửi hàng
phải được thực hiện không trễ hơn…(shipment must effected not later

than….)

-

Mô tả hàng hóa (Description of goods) : các chứng từ cần xuất trình
theo yêu cầu (Documents required);

-

Thời hạn xuất trình chứng từ (Period of Presentation) hay việc xuất
trình các chứng từ phải được thực hiện trong vòng…..ngày sau khi vận
đơn
(presentation of documents should be made within….days after B/L date).

Các nội dung nêu trên sẽ được làm rõ ở các phần sau của luận văn này.
12


3

Các nội dung cơ bản sẽ được phân tích cụ thể hơn ở các phần sau

13


I.1.3 Vai trò của thư tín dụng
Trong việc thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu, có nhiều phương thức
tồn tại, đó là :
- Phương thức ghi sổ (Open account).
- Phương thức chuyển ngân (Remittance); hoặc bằng điện TT (Telegraphic

Transfer)
-

Phương thức nhờ thu ngân chứng từ (Doccumentary collection :
Encaisement documentaire) gồm : phương thức “chứng từ đổi thanh
toán” D/P (Documents against payment); phương thức “ chứng từ đổi chấp
nhận” D/A (Documents against acceptance).

- Phương thức “ Trả tiền mặt đổi chứng từ” CAD (cash against documents).
- Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Trong đó, phương thức thanh toán bằng tín dụng thư là phương thức ít rủi
ro nhất và cũng hay được sử dụng nhất do các ưu thế của nó so với các
phương thức khác (sẽ được phân tích nhiều hơn ở các phần sau).
Như đã phân tích trong phần nguồn gốc và định nghĩa, trước hết, thư tín
dụng có vai trò là phương tiện thanh toán. Nó tạo điều kiện cho việc thanh toán
giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu được thực hiện nhanh chóng qua đó thúc
đẩy sự luân chuyển của đồng vốn cũng như thúc đẩy sự phát triển của
thương mại quốc tế.
Việc thanh toán được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau (thanh
toán ngay, chấp nhận và thanh toán hối phiếu, chiết khấu hối phiếu …). Quyết
định 226 quy định thư tín dụng là một thể lệ thanh toán qua ngân hàng bên cạnh
các thể lệ thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi - chuyển tiền, uỷ nhiệm thu,
ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán …
Thư tín dụng còn có vai trò bảo đảm. Đối với nhà xuất khẩu, bảo đảm này
xuất phát từ cam kết của ngân hàng. Tuy nhiên, khác với bảo lãnh, những bảo
đảm này là song phương. Dù cho cơ chế này phát sinh để bảo vệ quyền lợi của
người bán, thì người mua vẫn được đảm bảo rằng việc thanh toán chỉ xảy ra khi
có sự xuất trình các chứng từ phù hợp với yêu cầu của người mua và của ngân
hàng khi ngân hàng kiểm tra theo trách nhiệm của mình. Nghĩa là, thư tín dụng
không đơn

14


thuần bảo đảm quyền lợi cho người bán hoặc người mua, mà quan trọng hơn,
nó bảo đảm cho hoạt động thương mại diễn ra bình thường và an toàn.
Cũng phải nói rõ, phương thức thanh toán bằng L/C không những chỉ có thể
áp dụng đối với hoạt động thanh toán quốc tế trong xuất nhập khẩu hàng hóa
với nước ngoài mà còn có thể áp dụng ngay trong quá trình thanh toán của hoạt
động thương mại trong một quốc gia. Tuy nhiên, do trong hoạt động buôn bán
trong một quốc gia, có nhiều phương thức khác có thể sử dụng hiệu quả hơn
cho nên người ta không hay dùng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Vì
vậy, trong luận văn này, khi đề cập đến phương thức thanh toán bằng L/C, mặc
nhiên sẽ được hiểu là một phương thức dùng trong thanh toán quốc tế và mọi
trình bày trong luận văn cũng sẽ chỉ theo hướng này.
I.1.4 Bản chất pháp lý của Thư tín dụng
Cốt lõi của cơ chế thanh toán bằng Thư tín dụng là quyền được bảo đảm
thanh toán của người thụ hưởng tương ứng với cam kết thanh toán mang tính
chắc chắn, trực tiếp và độc lập của ngân hàng
Tính chất chắc chắn thể hiện ở chỗ ngân hàng phải thanh toán, chấp nhận
hoặc chiết khấu hối phiếu theo đúng thời hạn quy định phù hợp với các điều
khoản của Thư tín dụng (UCP 500, Điều 9a) Ngân hàng chỉ có thể tự mình hoặc
theo yêu cầu của người yêu cầu mở thư tín dụng sửa đổi hoặc huỷ bỏ cam kết
của mình trong trường hợp có ý chí chấp thuận của tất cả các bên, bao gồm cả
người thụ hưởng và ngân hàng xác nhận.
Tính chất trực tiếp thể hiện ở chỗ cam cam kết của ngân hàng là trực
tiếp đối với người thụ hưởng. Người thụ hưởng có quyền xuất trình chứng từ hợp
lệ để ngân hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho mình
Tính chất độc lập là tính chất quan trọng nhất của tín dụng chứng từ, thể
hiện ở nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phát hành, và trong nhiều trường
hợp của cả ngân hàng xác nhận. Cam kết của ngân hàng đối với người thụ

hưởng là độc lập với quan hệ giữa ngân hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng.
Việc người yêu cầu mở thư tín dụng chết, phá sản không cho phép ngân hàng
được giải phóng khỏi nghĩa vụ thanh toán. Mặt khác, ngân hàng cũng không
thể viện dẫn việc người yêu cầu mở thư tín dụng không có những biện pháp
bảo đảm để từ chối thanh toán. Tại Pháp, Toà Phá án đã phán quyết rằng ngân
hàng thậm chí vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán dù các quy định về hối
đoái không cho phép ngân hàng thực hiện việc chi trả.
Cam kết của ngân hàng cũng độc lập với quan hệ giữa người mua - người
yêu cầu mở thư tín dụng và người bán – người thụ hưởng (UCP, Điều 3a). Ngân
15


hàng không thể viện dẫn bất cứ một ngoại lệ nào liên quan đến việc không thực
hiện Hợp đồng mua bán nhằm không thực hiện Thư tín dụng. Người yêu cầu mở
thư tín dụng không thể yêu cầu ngân hàng từ chối thanh toán với lý do không
thực hiện Hợp đồng mua bán. Điều 3a UCP 500 quy định rằng “sự cam kết của
một ngân hàng để trả tiền, chấp nhận và trả tiền các hối phiếu hoặc chiết
khấu
và/hoặc thực hiện bất cứ một nghĩa vụ nào khác của mình quy định trọng Tín
dụng
không bị ràng buộc bởi các khiếu nại hoặc sự bảo vệ nào của người xin mở Tín
dụng phát sinh từ quan hệ của họ với ngân hàng phát hành hoặc với người thụ
hưởng lợi”
Vấn đề bản chất của Thư tín dụng đã được xem xét nghiên cứu dưới nhiều
góc độ, nhưng đều không đạt được câu trả lời đầy đủ toàn diện. Nếu giả định bản
chất của Thư tín dụng là quan hệ bảo lãnh, chúng ta sẽ bị mắc tại tính chất nghĩa
vụ phụ của bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo lãnh chỉ được thực hiện khi nghĩa vụ chính
không được thực hiện, nghĩa là thực hiện có điều kiện, phụ thuộc và việc thực
hiện nghĩa vụ trực tiếp theo Hợp đồng mua bán giữa các bên của người được bảo
lãnh. Trong khi đó, cam kết của ngân hàng trong cơ chế thư tín dụng là cam kết

thanh toán độc lập, vô điều kiện đối với người được thụ hưởng khi người thụ
hưởng xuất trình bộ chứng từ hợp lệ với yêu cầu của Thư tín dụng,
Giả định Thư tín dụng là một cơ chế uỷ quyền không hoàn toàn đã từng
được các nhà nghiên cứu đánh giá cao vì nó cho phép giải thích tính độc lập giữa
hai mối quan hệ: giữa ngân hàng (người được uỷ quyền) và người thụ hưởng, và
giữa người yêu cầu mở thư tín dụng (người uỷ quyền) và ngân hàng (người được
uỷ quyền) Tuy nhiên đến nay giả định này đã không còn phù hợp vì UCP 500 đã
cho phép ngân hàng thực hiện Thư tín dụng vì quyền lợi của chính mình.
Nhìn chung, thư tín dụng dựa trên các quan hệ phát sinh giữa ít nhất ba
chủ thể (hoặc có thể nhiều hơn) gồm người yêu cầu mở thư tín dụng, ngân
hàng và người thụ hưởng.
I.2

Các loại thư tín dụng.

Thanh toán theo hình thức Thư tín dụng có nhiều loại khác nhau và được
áp dụng tuỳ thuộc vào mối quan hệ, mức độ tín nhiệm giữa hai bên.
Theo thông lệ quốc tế, có nhiều cách phân loại thư tín dụng tùy thuộc vào
các tiêu chí khác nhau (chủ yếu căn cứ vào các quy định của các UCP do Phòng
Thương mại quốc tế ICC ban hành).
Phân loại căn cứ theo hiệu lực cam kết của ngân hàng, ta có:
16


- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C) là loại Thư tín dụng
sau khi đã được mở Ngân hàng phát hành không có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc
huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, ngoại trừ trường hợp được tất cả các
bên liên quan chấp thuận.
UCP 500 đã quy định rõ “Một tín dụng không ghi rõ thuộc loại nào, thì tín
dụng đó được coi là không thể huỷ ngang” . Một dạng cụ thể của Thư tín dụng

không thể huỷ ngang chính là Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận. Đây
là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác đảm bảo
trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng đó.Loại thư tín dụng này
bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho bên bán.Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là một sự cam
kết như vậy sẽ phải được thanh toán bằng tiền hoa hồng cho ngân hàng xác nhận
(thường thì chi phí hoa hồng này rất cao). Trên thực tế, nhu cầu xác nhận thư tín
dụng tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm và tình hình tài chính của ngân hàng mở
thư tín dụng.
Một dạng phổ biến của Thư tín dụng không thể huỷ ngang là Thư tín dụng
không thể huỷ ngang, miễn truy đòi.(Irrevocable without recourse L/C). Đây là
loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền
thì ngân hàng mở thư tín dụng không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ trường
hợp nào. Khi dùng loại thư tín dụng này, người xuất khẩu phải ghi lên hối phiếu
câu “miễn truy đòi người ký phát (without recourse to drawers) và trong thư tín
dụng cũng phải ghi như vậy.
Nói chung, Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại được áp dụng phổ
biến nhất trong thương mại quốc tế ngày nay.Theo quy định trong bản “ quy tắc
và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” được phòng thương mại quốc tế
(ICC) sửa đổi năm 1993, ấn phẩm số 500 (gọi tắt là UCP 500) thì : nếu không có
ghi chú gì đặc biệt khác thì loại thư tín dụng sẽ được hiểu là thư tín dụng không
thể huỷ ngang.
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C):
Điều 6 UCP 500 quy định về Thư tín dụng có thể hủy ngang hoặc không
thể hủy ngang. Đồng thời Điều 8 UCP 500 quy định :
A.
B.
i.

Thư tín dụng hủy ngang có thể được sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi ngân
hàng phát hành vào bất kỳ lúc nào mà không cần thông báo trước cho

Người hưởng.
Tuy nhiên ngân hàng phát hành phải
hoàn trả cho ngân hàng mà tại đó Thư tín dụng hủy ngang có giá trị
theo phương thức trả tiền ngay, chấp nhận hoặc chiết khấu – đối với
bất kỳ viêc trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu nào mà ngân hàng
đó đã
17


ii.

thực hiện – trước khi họ nhận được thông báo sửa đổi hoặc hủy bỏ,
đối với các chứng từ thể hiện trên bề mặt phù hợp với các điều khoản
và điều kiện của Thư tín dụng.
Hoàn trả cho ngân hàng khác mà tại đó Thư tín dụng hủy ngang có giá
trị theo phương thức trả tiền sau, nếu ngân hàng đó, trước khi
nhận được thông báo sửa đổi hoặc hủy bỏ, đã nhận được các chứng
từ thể
hiện trên bề mặt phù hợp với các điều khoản và điều kiện của Thư tín
dụng.”

Như vậy, theo Điều 8 UCP 500, Thư tín dụng huỷ ngang có thể được ngân
hàng phát hành tự mình hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu mở Thư tín
dụng sửa đổi hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần phải thông báo trước cho
người thụ hưởng. Trong trường hợp này địa vị của người thụ hưởng rất bấp bênh
và có nhiều rủi ro. Tuy nhiên để hạn chế rủi ro, người bán có thể thoả thuận với
người mua về những điều kiện sửa đổi và/hoặc huỷ bỏ Thư tín dụng trong Hợp
đồng mua bán. Trên thực tế, loại Thư tín dụng này hầu như không tồn tại vì nó
chứa đựng quá nhiều rủi ro.
Phân loại căn cứ theo thời hạn thực hiện, ta có:

- Thư tín dụng thanh toán ngay: Thư tín dụng trường hợp đơn giản nhất là
thanh toán ngay. Việc thanh toán cho người thụ hưởng được ngân hàng thực hiện
ngay trên cơ sở chứng từ được xuất trình và đã được kiểm tra
- Thư tín dụng thanh toán có thời hạn: Đối với Thư tín dụng loại này, ngân
hàng thanh toán cho người thụ hưởng khi hết một thời hạn nhất định, thường
là sau ngày vận chuyển. Cụ thể hơn, việc thanh toán chỉ xảy ra sau khi người yêu
cầu mở thư tín dụng nhận hàng hoá. Vì vậy, trên thực tế có những trường hợp
người yêu cầu mở thư tín dụng từ chối thanh toán vì hàng hoá được giao không
phù hợp với hợp đồng mua bán.
Phân loại căn cứ theo cách thức thực hiện đặc biệt, ta có:
- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng (Transferable Document Credit): là
loại thư tín dụng có thể được chuyển từ người thụ hưởng ban đầu sang một
hay nhiều người khác (người thụ hưởng thứ hai) trong thời gian hiệu lực của
thư tín dụng. Loại Thư tín dụng này chỉ được chuyển nhượng một lần (cho một hay
nhiều người khác) nghĩa là người thụ hưởng thứ hai không được quyền chuyển
nhượng tiếp. Khi người mua cho phép mở thư tín dụng có thể chuyển nhượng
là họ đã đồng ý cho người bán chỉ định người khác làm thay việc giao hàng và
xuất trình chứng từ. Việc chuyển nhượng chứng từ không có nghĩa là chuyển
nhượng hợp đồng mua bán, người thụ hưởng ban đầu vẫn chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của mình đối với người mua theo quy định của hợp đồng
18


- Thư tín dụng không thể chuyển nhượng: trong trường hợp Thư tín dụng
không nêu rõ là “có thể chuyển nhượng được” (transferable) thì Thư tín dụng luôn
được coi là không thể chuyển nhượng (Điều 48g UCP 500) Tính chất không được
chuyển nhượng của thư tín dụng đương nhiên không ảnh hưởng đến quyền
của người thụ hưởng được chuyển nhượng mọi khoản tiền mà mình nhận được
hay có thể nhận được theo thư tín dụng (Điều 49 UCP 500)
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại thư tín dụng không thể tất

toán ngay sau khi thực hiện xong hoặc đến hết thời hạn hiệu lực sẽ tự động có
giá trị hiệu lực như cũ, và cứ như vậy tuần hoàn đến khi tổng giá trị hợp đồng
được thực hiện. Thư tín dụng tuần hoàn cần ghi ngày hết hạn cuối cùng và ghi
số lần tuần hoàn, giá trị tối thiểu của mỗi lần đó. Thư tín dụng tuần hoàn được áp
dụng trong trường hợp khi hai bên có cung cấp hàng với số lượng lớn thường
xuyên, giao nhiều lần trong năm với số lượng đều đặn. Loại thư tín dụng này có
tính ưu đãi đối với người mua vì nó giúp cho quá trình sử dụng vốn của họ có
hiệu quả, đơn giản thủ tục mở thư tín dụng.
Có ba cách tuần hoàn: tuần hoàn tự động, tuần hoàn bán tự động và tuần
hoàn hạn chế. (i) Tuần hoàn tự động : tức là nó tự động có giá trị như cũ, không
cần có sự thông báo của Ngân hàng phát hành L/C cho người hưởng lợi; (ii)Tuần
hoàn hạn chế : tức là chỉ khi nào ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người
hưởng lợi thì L/C kế tiếp mới có giá trị hiệu lực. (iii)Tuần hoàn bán tự động : tức
là sau khi L/C trước sự dụng xong, nếu sau một vài ngày mà Ngân hàng phát hành
L/C không có ý kiến gì về L/C kế tiếp thì nó lại tự động có giá trị như cũ.
Khi tiến hành sửa L/C tuần hoàn, cần phải tuyên bố rõ ràng nội dung sửa có
giá trị tuần hoàn hay không hay chỉ có giá trị cho một lần sửa.Thư tín dụng tuần
hoàn thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, mua hàng thường xuyên,
định kỳ, khối lượng lớn và trong thời hạn dài và hàng hóa phải đồng nhất về chủng
loại, phẩm chất, cách đóng gói bao bì.
- Thư tín dụng thanh toán dần: là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang
trong đó ngân hàng phát hành thư tín dụng hay ngân hàng xác nhận thư tín dụng
cam kết với người thụ hưởng sẽ thanh toán dần toàn bộ số tiền của thư tín
dụng trong những thời hạn quy định rõ trong thư tín dụng. Loại thư tín dụng này
thường sử dụng hối phiếu có kỳ hạn, mỗi lần thanh toán ghi số tiền thanh toán
lên mặt sau của hối phiếu, áp dụng với những hợp đồng có giá trị lớn, giao nhiều
lần, người mua không có khả năng thanh toán một lần toàn bộ.
Đây là loại thư tín dụng thích ứng với các hợp đồng giao hàng nhiều lần
- Thư tín dụng giáp lưng: là loại thư tín dụng mà bên bán căn cứ vào thư tín
dụng do người mua mở cho mình, yêu cầu ngân hàng mở một thư tín dụng

19
khác


cho người khác hưởng.Trong phương thức mua bán trung gian, chuyển khẩu, loại
thư tín dụng này thường được áp dụng nhiều.
Về cơ bản, L/C gốc và L/C giáp lưng có nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên,
có những điểm sau cần phân biệt :
+ Hai L/C gốc và L/C giáp lưng là hoàn toàn độc lập với nhau.
+ Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn L/C gốc.
+ Kim ngạch L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, khoản chênh lệch này
do người trung gian hưởng dùng để chi trả phí mở L/C giáp lưng và phần hoa
hồng của họ.
+ Thời hạn giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc.
- Thư tín dụng đối ứng (reciprocal L/C) : Là loại thư tín dụng chỉ có giá trị hiệu
lực khi thư tín dụng của bên đối tác được mở ra. Trong hai thư tín dụng này sẽ có
một thư tín dụng mở trước, nó thường được ghi như sau : “ Tín dụng này chỉ có giá
trị khi người hưởng lợi đã mở lại một thư tín dụng đối ứng cho người mở thư tín
dụng này...”. Đồng thời, bên mở thư tín dụng đối ứng sẽ ghi : “ Tín dụng này đối
ứng với thư tín dụng số....mở ngày...tại ngân hàng...” và thông báo kịp thời cho
bên đối tác biết.
Thư tín dụng đối ứng thường dùng trong phương thức mua bán hàng
đổi hàng (barter), ngoài ra không loại trừ khả năng dùng trong phương thức gia
công xuất khẩu. Tuy nhiên, việc sử dụng trong gia công có nhiều phức tạp.
-

Thư tín dụng với Điều khoản Đỏ.

Từ “Red Clause” ngày nay được dùng bởi nhiều thuật ngữ khác nhau : “
Advance Clause” (Điều khoản ứng trước) hoặc “Special Clause” (Điều khoản đặc

biệt) hay Anticipatory L/C… Theo đó, Người mở Thư tín dụng cam kết tài trợ cho
nhà xuất khẩu ngay sau khi Thư tín dụng được mở. Hai bên đối tác phải có quan
hệ song phương truyền thống và uy tín. Phía nhập khẩu phải là công ty lớn và đủ
vốn, phía xuất khẩu có nguồn hàng hóa sản xuất nhưng thiếu vốn.
Gọi là L/C Điều khoản đỏ vì trước kia trong nội dung của L/C có một điều
khoản ứng trước tiền in bằng mực đỏ. Ngày nay, người ta thay điều khoản in bằng
mực đỏ bằng dòng chữ in nghiêng và đậm. Tuy nhiên, tên gọi cũ thì vẫn còn tồn
tại.

20


Với “ Điều khoản đỏ”, ngân hàng phát hành cam kết ứng một số tiền nhất
định (30 hoặc 50%) của giá trị Thư tín dụng khi nhận được các chứng từ, thông
thường là : (i) Hối phiếu của số tiền ứng trước; (ii) Hóa đơn; và (iii) cam kết trả nợ
hoặc cam kết giao hàng.
Rất nhiều trường hợp, Người mở chỉ ứng trước tiền hàng cho Người hưởng
dưới sự bảo lãnh của ngân hàng Người hưởng (Advance Guarantee). Như vậy,
Người hưởng sẽ thương lượng với ngân hàng mình để phát hành bảo lãnh
trước khi nhận được tiền theo Điều khoản Đỏ.
Một số người ngộ nhận rằng, với Thư tín dụng có Điều khoản Đỏ, Người
hưởng sẽ được ngân hàng thông báo cấp tín dụng ngay sau khi nhận được Thư tín
dụng. Điều cần hiểu là tiền ứng trước được lấy từ tài khoản của người mở, nghĩa là
Thư tín dụngơng mại, mà không phải khoản tín dụng của ngân hàng thông báo
hay ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo chỉ thực hiện các thủ tục theo
điều khoản của Thư tín dụng mà không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền
đó. Việc ứng tiền được ngân hàng phát hành ủy quyền cho ngân hàng thông báo
thực hiện. Sau đó (hoặc trước đó), ngân hàng phát hành sẽ (hoặc đã) trích tài
khoản của người mở chuyển (hoặc hoàn trả) cho ngân hàng thông báo.
I.3


Các nguyên tắc, đặc trưng của phương thức tín dụng chứng từ.
I.3.1 Các nguyên tắc cơ bản của phương thức tín dụng chứng từ.

Trong phương thức tín dụng chứng từ có hai nguyên tắc cơ bản là nguyên
tắc “độc lập của thư tín dụng” (Independence of the Credit) và nguyên tắc
“tuân thủ chặt chẽ của chứng từ” (Strict compliance of documents).
-

Nguyên tắc độc lập của thư tín dụng : Thư tín dụng được mở trên cơ sở hợp
đồng mua bán giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu dể thanh toán
tiền hàng cho số hàng người xuất khẩu đã giao cho người nhập khẩu theo
hợp đồng thương mại đã ký kết. Nhưng khi ra đời, thư tín dụng lại hoàn
toàn độc lập với hợp động thương mại hay bất kỳ một hợp đồng nào khác
làm cơ sở cho thư tín dụng, thậm chí ngay cả khi thư tín dụng có dẫn chiếu
đến các hợp đồng đó.

Nghĩa vụ của ngân hàng phát hành thư tín dụng đối với người thụ
hưởng không phụ thuộc vào việc người hưởng lợi có thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình đối với người nhập khẩu theo đúng hợp đồng mua bán hay không. Thay
vào đó, nó phụ thuộc vào khả năng xuất trình các chứng từ phù hợp với thư tín
dụng của người xuất khẩu. Ngân hàng mở thư tín dụng không thể từ chối thực
hiện nghĩa vụ thanh toán theo thư tín dụng với lý do người xuất khẩu đã giao
hàng kém chất lượng, hay vì một lý do tương tự. Các tranh chấp giữa người xuất
21
khẩu và người


nhập khẩu phát sinh từ hợp đồng mua bán cơ sở sẽ phải được giải quyết một
cách độc lập với giao dịch thư tín dụng. Ngân hàng sẽ thanh toán tiền cho người

hưởng lợi miễn là người này xuất trình được các chứng từ phù hợp với yêu cầu
của L/C.
Tuy nhiên, trong thực tế, vấn đề này có thể được nhìn nhận linh hoạt hơn.
Thư tín dụng suy cho cùng chỉ là một khâu quan trọng cuối cùng trong hàng loạt
giao dịch của hai phía trong buôn bán quốc tế. Logic của mối quan hệ nhân quả
biện chứng là : hợp đồng/thỏa thuận dược ký kết mới có Thư tín dụng, ngược lại,
Thư tín dụng được phát hành nhằm thực hiện hợp đồng thương mại. Nói cách
khác, Thư tín dụng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của các giao dịch thương
mại. Đối với người mua và người bán, Thư tín dụng phải là những giao dịch liên
quan chặt chẽ với các giao dịch của hợp đồng thương mại, mặc dù trong quan hệ
với ngân hàng họ phải thừa nhận hai giao dịch là tách biệt. Do vậy, tính độc lập
cảu Thư tín dụng, xét về tổng thể, cũng mang tính tương đối.
-

Nguyên tắc tuân thủ chặt chẽ của chứng từ : Khi kiểm tra các chứng từ
xuất trình, các ngân hàng chỉ thanh toán cho người hưởng lợi khi các
chứng từ này tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu của thư tín dụng. Có quan
điểm cho rằng, ngân hàng không nên quá chặt chẽ khi có sự khác biệt
thông thường, không nghiêm trọng và nguyên tắc tuân thủ chặt chẽ không
có nghĩa là phải tìm ra sự khác biệt do in ấn, do kỹ thuật trong tạo lập
chứng từ. Tuy nhiên, cách an toàn nhất cho các ngân hàng vẫn là tiến
hành tuyệt đối nguyên tắc tuân thủ chặt chẽ của chứng từ. Bất kỳ sự đi
chệch khỏi nguyên tắc này, cho dù là được phép đi nữa, đều có thể mang
lại rủi ro cho ngân hàng và có thể dẫn đến các vụ kiện tốn nhiều thời gian
và tiền bạc.
I.3.2 Các đặc trưng của phương thức tín dụng chứng từ.
a)
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ liên quan đến hai
quan hệ hợp đồng độc lập.


Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có liên quan đến hai quan hệ
hợp đồng độc lập là quan hệ hợp đồng giữa người mở thư tín dụng (người nhập
khẩu) với ngân hàng phát hành và quan hệ hợp đồng giữa người nhập khẩu
với người xuất khẩu.
Thỏa thuận xin mở thư tín dụng giữa người mở thư tín dụng (người nhập
khẩu) và ngân hàng phát hành là một hợp đồng. Người nhập khẩu phải làm
đơn yêu cầu mở thư tín dụng, trả một khoản phí mở thư tín dụng và ký quỹ một
khoản tiền nhất định tùy theo quy định của ngân hàng. Trong đơn xin mở thư
tín dụng phải ghi rõ nội dung cụ thể về hàng hóa, điều kiện xuất trình chứng từ.
22
Ngân hàng căn cứ vào đó mở thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng và chịu


trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người nhập khẩu xuất trình. Nếu chứng từ
hoàn toàn phù

23


hợp với nội dung, điều kiện của thư tín dụng thì ngân hàng sẽ nhận chứng từ và
thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu, sau đó ngân hàng thu lại tiền của
người nhập khẩu và giao chứng từ cho người nhập khẩu đi lấy hàng.
Bản thân thư tín dụng là một cam kết trả tiền có điều kiện của ngân
hàng phát hành đối với người hưởng lợi nếu người này thực hiện đúng những
quy định đề ra trong thư tín dụng. Người xuất khẩu phải lập đầy đủ các chứng
từ phù hợp với yêu cầu cầu của thư tín dụng và xuất trình cho ngân hàng trong
thời hạn quy định. Sau khi kiểm tra, nếu thấy chứng từ hoàn toàn phù hợp với
các quy định của L/C, ngân hàng phải thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu
b)
Trong phương thức tín dụng chứng từ, các bên giao dịch chỉ căn cứ

vào chứng từ chứ không căn cứ vào hàng hóa.
Các chứng từ xuất trình là căn cứ duy nhất để ngân hàng quyết định trả
tiền hay từ chối thanh toán cho người hưởng lợi thư tín dụng, đồng thời, cũng là
căn cứ duy nhất để người nhập khẩu hoàn trả hay từ chối trả tiền cho ngân hàng.
Nếu người xuất khẩu trình được các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng
là phù hợp với các quy định của Thư tín dụng thì sẽ được ngân hàng trả tiền.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về các vấn đề khác liên quan đến hàng hóa
mà bất cứ chứng từ nào đại diện. Như vậy trong phương thức tín dụng chứng
từ, các chứng từ có tầm quan trọng to lớn, nó là minh chứng cho giá trị hàng
hóa mà người bán đã giao và là căn cứ cho người xuất khẩu đòi ngân hàng
chấp nhận hay từ chối thanh toán cho người xuất khẩu.
Các đặc trưng trên đã đem lại cho phương thức tín dụng chứng từ những
ưu điểm riêng biệt mà các phương thức thanh toán khác không thể nào có
được và cũng là lý do để giải thích tại sao trong thanh toán quốc tế hiện nay,
phương thức tín dụng chứng từ vẫn được các doanh nghiệp lựa chọn và chiếm
tỷ lệ cao trong các phương thức thanh toán.
c)
Phương thức tín dụng chứng từ bảo đảm một cách tương đối
quyền lợi của người bán và người mua trong hoạt động thương mại.
Trong quan hệ mua bán, người mua luôn muốn nhận được hàng hóa rồi
mới trả tiền, còn người bán lại muốn giao hàng xong là được thanh toán ngay.
Trong ngoại thương, việc giải quyết mối quan hệ này gặp nhiều khó khăn hơn so
với mua bán nội địa do khoảng cách về không gian giữa người mua và người bán.
Để giải quyết vướng mắc nói trên, người bán và người mua buộc phải chọn
một phương thức thanh toán nào đó sao cho có thể đảm bảo quyền lợi cho cả đôi
bên. Chứng từ trong phương thức thanh toán bằng L/C chính là bằng chứng có
thể tin cậy nhất : khi người bán lập được bộ chứng từ xem như đã hoàn thành
nghĩa vụ
24



giao hàng, còn người mua nhận được chứng từ có thể yên tâm là hàng hóa đã
được giao. Đồng thời các ngân hàng với khả năng tài chính dồi dào, uy tín cao
được yêu cầu tham dự với tư cách bên thứ ba trung gian cho cả bên mua và bên
bán cam kết sẽ trả tiền khi người bán xuất trình chứng từ phù hợp với các quy
định mà hai bên mua bán đã thỏa thuận và ghi trong L/C. Với việc sử dụng chứng
từ làm căn cứ trả tiền và theo yêu cầu của người mua, ngân hàng là người cam kết
trả tiền cho người bán, phương thức này đảm bảo một cách hợp lý quyền lợi
chính đáng của cả hai bên. Đồng thời, đó cũng là lý do làm cho phương thức
thanh toán này được sử dụng với phạm vi rộng, nó giúp cho các doanh nghiệp
bất kỳ ở nước nào, dù chưa hiểu biết nhiều về nhau nhưng vẫn có thể tham gia
giao dịch, trao đổi mua bán hàng hóa.
Ở đây nói rằng phương thức này bảo đảm một cách “tương đối” quyền lợi
của người mua và người bán vì phương thức này sẽ chỉ thực sự phát huy hiệu quả
khi hai bên tiến hành các giao dịch một cách trung thực và thiện chí. (Về vấn
đề này sẽ được đề cập nhiều hơn ở chương II).
I.4

Các bên tham gia và quy trình thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng.
I.4.1 Các bên tham gia, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quá
trình thanh toán bằng thư tín dụng.

Tham gia vào phương thức thanh toán thanh toán tín dụng chứng từ, có
các
chủ thể chủ yếu sau đây :
- Người yêu cầu mở thư tín dụng (applicant) : là người nhập khẩu, người
mua;
-

Người hưởng lợi (beneficiary) : là người xuất khẩu, người bán hay người

được hưởng lợi chỉ định;

-

Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing Bank) : là ngân hàng đại diện cho
người nhập khẩu;

- Ngân hàng thông báo (Advising Bank) : là ngân hàng ở nước ngoài hưởng
lợi;
- Ngoài ra, còn có thể có ngân hàng xác nhận và ngân hàng trả tiền.
Ta sẽ xem xét kỹ hơn về các chủ thể tham gia :
- Đầu tiên là người nhập khẩu, người mua :

25


×