Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học nhóm bài hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ cho học sinh trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề phúc yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY HỌC
NHÓM BÀI HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
CHO HỌC SINH TRUNG TÂM GIÁO DỤC
THƯỜNG XUYÊN VÀ DẠY NGHỀ PHÚC YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY HỌC NHÓM
BÀI HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ CHO
HỌC SINH TRUNG TÂM GIÁO DỤC
THƯỜNG XUYÊN VÀ DẠY NGHỀ PHÚC YÊN
Chuyên ngành: LL&PP dạy học bộ môn Văn - Tiếng Việt
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM KIỀU ANH


HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo- Tiến sĩ
Phạm Kiều Anh, người đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau Đại học,
ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn và Quý thầy cô Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2- những người đã nhiệt tình giảng dạy và truyền thụ kiến thức cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại Trường.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các cô giáo và
các em học sinh Trung tâm Giáo dục thường xuyên và dạy nghề Phúc YênPhúc Yên- Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến người thân, đồng nghiệp và bạn
bè- những người đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Vân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Vân



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt.
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn.................................................................................. 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................ 9
1.1. Cơ sở lý luận về SĐTD trong dạy học ....................................................... 9
1.1.1. Tư duy và đặc điểm tư duy của HS THPT nói chung và HS
TTGDTX&DN Phúc Yên nói riêng .................................................................. 9
1.1.2. Sơ đồ tư duy trong giáo dục ................................................................. 13
1.1.3. Ứng dụng của SĐTD trong giáo dục .................................................... 20
1.2. Cơ sở lý luận về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.............................. 24
1.2.1. Hoạt động giao tiếp của con người ....................................................... 24
1.2.2. Vai trò của ngôn ngữ với hoạt động giao tiếp của con người ............... 29
1.2.3. Các nhân tố hoạt động giao tiếp ............................................................ 31
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. ................................................. 35
1.3. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 38



1.3.1. Chương trình phân môn Tiếng Việt của THPT nói chung và của Trung
tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề Phúc Yên nói riêng ........................
38
1.3.2. Thực trạng dạy học nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ...... 41
1.3.3. Thực trạng học của HS TTGDTX &DN Phúc Yên .............................. 44
1.3.4. Cơ sở thực tiễn của việc ứng dụng SĐTD vào dạy học Tiếng Việt nói
chung và
nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ nói riêng tại TTGDTX&DN Phúc
Yên
......................................................................................................................... 46
CHƯƠNG 2. DẠY- HỌC NHÓM BÀI HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG
NGÔN NGỮ CHO HỌC SINH TRUNG TÂM GDTX & DN PHÚC YÊN
BẰNG SƠ ĐỒ TƯ DUY ................................................................................ 48
2.1. Mục tiêu của nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ cho HS
TTGDTX&DN Phúc Yên ............................................................................... 48
2.1.1. Vị trí của của nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong
chương trình Ngữ Văn TTGDTX&DN Phúc Yên (theo phân phối chương
trình Ngữ văn của hệ bổ túc văn hóa) ............................................................. 48
2.1.2. Nội dung của nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong
chương trình Ngữ Văn TTGDTX&DN Phúc Yên.......................................... 48
2.1.3 Mục đích của việc dạy học nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ................................................................................................................... 50
2.1.3.1. Kiến thức ............................................................................................ 50
2.1.3.2. Kĩ năng .............................................................................................. 51
2.1.3.3. Thái độ................................................................................................ 51
2.2.Hướng dẫn học sinh vẽ SĐTD bằng tay và sửdụng phần mềm hỗ trợ vẽ
SĐTD (Imindmap) .......................................................................................... 52
2.2.1. Hướng dẫn học sinh làm quen với SĐTD ............................................. 52
2.2.2 Hướng dẫn học sinh tập vẽ SĐTD bằng tay .......................................... 52
2.2.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng phần mềm vẽ SĐTD bằng phần mềm

Mindmap ......................................................................................................... 55


2.3. Sử dụng SĐTD vào dạy học nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ................................................................................................................... 62
2.3.1. Xác định những nội dung dạy - học nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ có thể sử dụng SĐTD...................................................................... 62
2.3.2. Xác định thời điểm sử dụng SĐTD....................................................... 72
2.3.3. Xác định các kĩ thuật, phương pháp dạy học khi kết hợp với SĐTD .. 74
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ........................................................ 82
3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm ........................................................... 82
3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm............................................................................. 82
3.3. Nội dung thực nghiệm.............................................................................. 83
3.4. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 83
3.5. Cách tiến hành thực nghiệm..................................................................... 84
3.5.1. Chuẩn bị thực nghiệm ........................................................................... 84
3.5.2. Tiến hành dạy thực nghiệm và dạy đối chứng ...................................... 85
3.5.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................ 85
3.6. Giáo án thực nghiệm ................................................................................ 85
3.7. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 95
3.7.1. Kết quả trước thực nghiệm.................................................................... 95
3.7.2. Kết quả sau thực nghiệm (chung của cả 3 khối 10, 11, 12) .................. 96
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 101
PHỤ LỤC


BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Chữ viết tắt


Chú giải

GV

Giáo viên

HĐGTBNN

Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

HS

Học sinh

KTDH

Kĩ thuật dạy học

MM

Mindmap

PPDH

Phương pháp dạy học

SĐTD

Sơ đồ tư duy


TTGDTX&DNPY Trung tâm Giáo dục thường xuyên và dạy nghề Phúc Yên
THPT

Trung học phổ thông

THCS

Trung học sơ cở


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, Friedman nhận xét: “Dường như
cả thế giới phải thức dậy sớm hơn và chạy nhanh hơn”. Tất cả phải chạy
nhanh hơn bởi sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt và dữ dội. Có thể nói bối
cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra rất nhanh, đang làm phẳng thế giới, tạo ra môi
trường học tập khác hẳn truyền thống và ảnh hưởng rất lớn đến phương pháp
học tập của thế hệ học sinh (HS) thời hiện đại. Friedman nhận xét: “Kĩ năng
đầu tiên và quan trọng nhất mà bạn cần có trong một thế giới phẳng là khả
năng “học phương pháp mới để làm những công việc cũ hay những phương
pháp mới để làm những công việc mới…”. Những biến động mạnh mẽ và
không ngừng nghỉ của mọi yếu tố cấu thành đời sống, nhất là khoa học kĩ
thuật và công nghệ, đang là thách thức lớn nhất đối với mọi xã hội. Theo xu
thế thế giới, nền giáo dục Việt Nam đang đối mặt với những cơ hội và thách
thức rất lớn. Tình hình đó đòi hỏi nền giáo dục của nước ta phải đổi mới một
cách toàn diện. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới giáo dục như trên chúng
ta không thể không nói đến phương pháp dạy học (PPDH) tích cực. Điều 5

của Luật giáo dục (2005) đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
người học khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Muốn
làm được điều này, giáo viên (GV) cần phải hướng dẫn cho HS biết cách vận
dụng kiến thức linh hoạt trong những tình huống cụ thể của cuộc sống. Theo
nhiều nhà khoa học, việc đổi mới hoạt động dạy học hiện nay vẫn còn gặp
nhiều khó khăn, các giờ học chưa thật sự tạo hứng thú học tập và chưa phát
huy được tính tích cực của HS trong việc tổ chức các hoạt động nhận thức.
Đây là hạn chế chung của nhiều môn học trong đó có môn Ngữ văn.


Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, trong đó có các bài dạy học
về tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị hành trang trí tuệ, tâm
hồn cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống tương lai. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy
phần tiếng Việt ở nhà trường Trung học phổ thông (THPT) nói chung và các
Trung tâm Giáo dục thường xuyên và dạy nghề (TTGDTX&DN) nói riêng
còn nhiều bất cập, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
HS. Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận lớn GV chưa xác định được
phương pháp giảng dạy phù hợp với các bài Tiếng Việt khiến HS không hứng
thú học tập, hiệu quả giờ học không cao. Từ thực tế dạy và học phần tiếng
Việt cho HS tại TTGDTX & DN Phúc Yên, chúng tôi nhận thấy: Hiện nay,
GV đã thực hiện đúng những nội dung phân phối chương trình của Bộ Giáo
dục trong việc dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung và tiếng Việt nói riêng,
chủ động, sáng tạo, cập nhật những phương pháp mới để có thể truyền đạt
kiến thức cho HS đạt hiệu quả cao nhất. Theo đó, có một bộ phận HS có tinh
thần tích cực, hăng hái trong những giờ học tiếng Việt. Tuy nhiên, những điều
kiện khách quan chưa phù hợp đã tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ tới giờ
học Ngữ văn. Cũng vì thế, HS chưa có hứng thú học, hay có học cũng chỉ là
gượng ép. Điều đó cho thấy, trong quá trình dạy học, GV cần có những cách
thức tổ chức hoạt động dạy học để có thể nâng cao chất lượng học tập cho HS.

1.2. Sơ đồ tư duy (Mindmap) (SĐTD) - một trong những công cụ dạy
học hiện đại đã góp phần to lớn giúp HS hệ thống hóa kiến thức, tăng cường
khả năng ghi nhớ, tư duy, phân tích và giải quyết vấn đề. Từ những thành tựu
nghiên cứu về SĐTD, chúng tôi nhận thấy phương tiện dạy học hiện đại này
có thể đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy, nhằm tích cực hóa hoạt động của
chủ thể học tập, đáp ứng mục tiêu dạy học “lấy HS làm trung tâm”. Bằng cách
ghi chép sử dụng kết hợp từ ngữ, màu sắc, hình ảnh, đường nét, SĐTD đã
kích thích sự sáng tạo, trí tò mò và hứng thú của HS khi học tập. Có thể nói,


SĐTD là một công cụ dạy học mang tính khả thi cao, có thể áp dụng vào bất
kì trường học nào mà không đòi hỏi quá nhiều về cơ sở vật chất mà vẫn đáp
ứng được yêu cầu phát huy tính tự giác, chủ động học tập của HS.
1.3. Nhóm bài“Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” là một trong
những nội dung kiến thức của phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn
hiện hành. Với hệ thống kiến thức về tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn
hiện hành, đây là nhóm bài học có kiến thức rộng, tổng quát, với những nội
dung kiến thức có mối liên hệ logic với nhiều tri thức khác ở THCS và ở
THPT trong các khối lớp 10, lớp 11 và lớp 12. Muốn người học nắm được hệ
thống kiến thức, GV phải có sự liên kết chúng bằng các sơ đồ tư duy (SĐTD)
để xâu chuỗi các kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi nhớ chúng
của HS. Theo đó, ứng dụng SĐTD để dạy học nhóm bài này ít nhiều sẽ đem
lại hiệu quả thiết thực nhất cho HS trong việc lĩnh hội và truyền thụ kiến thức
đặc biệt đối tượng là HS của TTGDTX&DN Phúc Yên. Nhận thức được tầm
quan trọng của các bài dạy về Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong
chương trình của khối TTGTX&DN cũng như hướng tới nhiệm vụ đổi mới
PPDH Tiếng Việt nói riêng, dạy học Ngữ văn nói chung, chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài:
“Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm bài Hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ cho học sinh ở Trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề

Phúc Yên”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về sơ đồ tư duy
Ở nước ngoài, vấn đề ứng dụng SĐTD (Mindmap – MM) trong cuộc
sống đã được Tony Buzan và Barry Buzan đề cập trong cuốn “Sơ đồ tư duy”
(1995). Trong cuốn sách này, hai anh em nhà Buzan đã đưa ra các ứng dụng
của MM. Bên cạnh các ứng dụng của MM đối với cá nhân, đối với gia đình,


trong lĩnh vực kinh doanh và các lĩnh vực chuyên môn thì các tác giả còn bàn
đến những ứng dụng của MM trong giáo dục cụ thể như dùng để soạn ghi chú
cho bài giảng, hoạch định cho năm, cho một học kỳ, cho ngày, bài học và
cách trình bày, thi cử, dự án. Từ những nghiên cứu ban đầu về SĐTD, đến
tháng 12/2006, Tony Buzan chính thức giới thiệu phần mềm MindMap dùng
để vẽ kiểu sơ đồ này trên máy vi tính. Cho đến nay, việc sử dụng SĐTD của
ông được dạy và ứng dụng ở trên 500 tập đoàn và công ty hàng đầu thế giới.
Trên thế giới hiện nay có hơn 250 triệu người đang sử dụng phần mềm này
của Tony Bazan bởi những lợi ích sau của nó:
- MM gợi hứng thú cho người học.
- MM làm cho bài học cũng như cách trình bày bài học ngẫu hứng,
sáng tạo và lý thú hơn với GV và HS.
- Nhờ MM, việc ghi chú bài giảng của GV trở nên linh hoạt. GV có thể
làm mới, bổ sung bài giảng một cách dễ dàng và nhanh chóng.
- MM giúp người học hiểu sâu hơn về chủ đề.
- Số lượng ghi chú cho bài giảng giảm đi rất nhiều.
- MM vô cùng hữu ích cho các em thiếu niên “có vấn đề về học tập”,
đặc biệt là những em mắc chứng “khó đọc”.
Ở Việt Nam, MM được nghiên cứu và đưa vào sử dụng chủ yếu trong
lĩnh vực kinh doanh vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Đến năm 2006, vấn
đề ứng dụng MM trong dạy học mới thực sự được chú ý khi dự án “Ứng dụng

công cụ phát triển tư duy – Sơ đồ tư duy” của nhóm Tư duy mới (New
Thinking Group – NTG), Đại học Quốc gia Hà Nội được triển khai thực hiện.
Tiếp theo đó là một loạt những công trình nghiên cứu khác như: công trình
nghiên cứu về: “Ứng dụng sơ đồ tư duy đa chiều trong học nhóm” của tác giả
Phan Minh Chánh (THPT Chơn Thành- Bình Phước); cuốn sách “Dạy tốthọc tốt các môn học bằng bản đồ tư duy” của TS. Đặng Đình Châu, TS. Đặng


Thị Thu Thủy. Tạp chí Giáo dục cũng có một số bài viết đề cập đến vai trò và
hiệu quả của việc sử dụng MM trong dạy học như các bài: “Bản đồ tư duy –
Công cụ hỗ trợ hiệu quả trong dạy học môn Toán” của Chu Cẩm Thơ, “Hệ
thống hóa bài tập Vật lí với Sơ đồ tư duy” của Lê Công Triêm, Lương Thị Lệ
Hằng...
2.2. Lịch sử nghiên cứu về việc dạy học hệ thống kiến thức bằng sơ
đồ tư duy trong trường THPT và các trường học nghề
Ứng dụng SĐTD vào trong giảng dạy đã được quan tâm trong tất cả
các môn học môn Ngữ văn khô khan. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này như: “Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn ở trường
trung học phổ thông” của Phan Minh Hằng (trường THPT Vinh Xuân); “Vận
dụng hệ thống sơ đồ tư duy trong dạy và học Ngữ văn” của Trịnh Văn Quỳnh
(Nam Định); Khóa luận: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài Hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ” (Ngữ văn 10) của Vũ Thị Huệ (Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2)…
Người đầu tiên đưa MM ứng dụng vào dạy học Văn là thầy Hoàng Đức
Huy - GV TTGDTX quận 4, Tp. HCM. Sáng kiến đổi mới dạy học này của
thầy được thể hiện trong nghiên cứu “Bản đồ tư duy đổi mới dạy học”. Tuy
nhiên, công trình này chỉ đề cập đến cách thức giảng dạy bằng SĐTD với
những tác phẩm thơ, văn tự sự và văn thuyết minh.
Hệ thống kiến thức Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong
những nội dung kiến thức của phần Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn
THPT hiện hành. Với hệ thống kiến thức bao quát cả ba khối 10,11,12, đây là

hệ thống có kiến thức rộng, tổng quát. GV nếu muốn HS nắm được hệ thống
kiến thức thì GV cần phải có những liên kết chúng bằng các SĐTD để dạy,
phương tiện này sẽ ít nhiều đem lại hiệu quả thiết thực cho HS trong việc lĩnh
hội kiến thức đặc biệt là đối với đối tượng là HS của TTGDTX&DN.


Từ những khảo cứu về các công trình nghiên cứu về SĐTD và sử dụng
SĐTD vào dạy học Ngữ văn hiện nay, chúng tôi nhận thấy cho đến nay, chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu nào về việc sử dụng SĐTD vào dạy
học hệ thống kiến thức nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ cho HS
tại các TTGDTX &DN. Cũng vì thế, có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài
này sẽ mở ra một hướng mới cho việc thiết kế và tổ chức dạy học phần Tiếng
Việt tại các TTGDTX &DN để hoạt động dạy học đạt hiệu quả.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng đến các mục đích
sau:
- Hệ thống những cơ sở khoa học khi dạy học một nội dung kiến thức
của Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT có sử dụng phương tiện dạy
học hiện đại nhằm tạo hứng thú học tập cho HS học tại các TTGDTX & DN.
- Xác định và đề xuất những hình thức sử dụng SĐTD cho khi học tập
những kiến thức về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Góp phần nhỏ bé vào việc tìm ra những cách tổ chức hoạt động dạy
học Tiếng Việt cho HS đang học tại trường nghề Phúc yên để hoạt động dạy
học đạt hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn tập trung vào
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng hợp những tri thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ, về SĐTD trong giáo dục nói chung, trong dạy học Ngữ văn nói riêng.

- Khảo sát cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Nêu ra cách thiết kế và sử dụng những SĐTD vào dạy các đơn vị kiến
thức thuộc mảng tri thức về hoạt động giao tiếp cho HS đang học tại trường
nghề Phúc Yên.


- Tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của những đề xuất
nêu ra.được
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Gắn với đề tài này, chúng tôi tập trung vào hai đối tượng sau:
- Luận văn tập trung tìm hiểu cách thiết kế, sử dụng và nêu ra một số
dạng SĐTD có thể sử dụng khi hướng dẫn HS học phần Tiếng Việt bậc
THPT.
- Một đối tượng không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu đề tài này
là chủ thể HS. Với nội dung đề tài, chủ thể HS được chúng tôi chọn nghiên
cứu là: HS đang học tại trường nghề Phúc Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Gắn với nội dung của đề tài, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu ở
các phương diện sau:
- Phạm vi nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu việc ứng dụng SĐTD
vào quá trình dạy học một số bài Tiếng Việt trong hệ thống kiến thức về hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ, bao gồm: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
(Ngữ Văn 10), Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ( Ngữ văn 10),
Ngữ cảnh (Ngữ văn 11), Ôn tập Tiếng Việt: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ (Ngữ văn 12). Những bài dạy này không theo đúng chương trình Ngữ văn
(bộ cơ bản) mà theo chương trình Ngữ văn được triển khai dạy học tại
TTGDTX & DN Phúc Yên.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hồi cứu và khảo sát tư liệu: được sử dụng khi thu

thập nguồn tư liệu nghiên cứu về SĐTD cũng như những bài viết liên quan.
5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát: Lấy ý kiến của GV đang trực
tiếp giảng dạy trong TTGDTX&DN Phúc Yên đặc biệt là các giáo viên có


trình độ, hiểu biết và sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy Tiếng Việt nói
chung và dạy nhóm bài “HĐTGBNN” nói riêng, phát phiếu điều tra, thăm dò
ý kiến của GV, HS; tham gia dự giờ trên lớp, lấy ý kiến của HS về việc ứng
dụng SĐTD trong quá trình dạy học nhóm bài “HĐGTBNN”
5.3. Phương pháp thống kê: Xử lý các số liệu thu nhập được trong
quá trình khảo sát, thực nghiệm để đưa ra được những kết quả chính xác,
khách quan.
5.4. Phương pháp thực nghiệm: phương pháp này được sử dụng để
đánh giá, điều chỉnh hoàn thiện và khẳng định tính khả dụng của việc ứng dụng
SĐTD vào dạy học nhóm bài HĐGTBNN cho HS TTGDTX&DN Phúc Yên.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thì nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Dạy học hệ thống kiến thức về Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ có ứng dụng sơ đồ tư duy
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
7. Đóng góp của luận văn
Những đề xuất được trình bày khi nghiên cứu đề tài “Ứng dụng sơ dồ
tư duy vào dạy học nhóm bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ cho học
sinh trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề Phúc Yên” sẽ góp phần
nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục như: tạo cho HS đặc biệt là HS trường
nghề ý thức học tập tích cực, chủ động sáng tạo, giao tiếp tốt, ứng xử tốt, tiếp
thu tối đa những kiến thức mà GV truyền đạt; góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học trong nhà trường THPT nói chung và TTGDTX&DN Phúc Yên
nói riêng, thay đổi những tiết học Tiếng Việt khô khan thành những giờ học

sôi nổi, hiệu quả.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận về SĐTD trong dạy học
1.1.1. Tư duy và đặc điểm tư duy của HS THPT
1.1.1.1. Khái niệm tư duy
Tư duy là gì? Đây là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều ngành
khoa học và nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy cùng một vấn đề nghiên cứu
song mỗi ngành khoa học lại tiếp cận và xem xét vấn đề này ở các phương
diện khác nhau. Triết học nghiên cứu tư duy dưới góc độ lý luận nhận thức.
Lôgíc học nghiên cứu tư duy ở các quy tắc tư duy đúng. Xã hội học nghiên
cứu tư duy ở sự phát triển của quá trình nhận thức trong các chế độ, các giai
đoạn lịch sử khác nhau. Sinh lý học nghiên cứu cơ chế hoạt động thần kinh
cao cấp với tư cách là nền tảng vật chất của các quá trình tư duy ở con người.
Điều khiển học nghiên cứu tư duy để có thể tạo ra "Trí tuệ nhân tạo". Tâm lý
học nghiên cứu diễn biến của quá trình tư duy, mối quan hệ qua lại cụ thể của
tư duy với các khía cạnh khác của nhận thức. Dù được nghiên cứu ở các lĩnh
vực khoa học khác nhau song các ngành khoa học đều có sự đồng nhất trong
sự đánh giá về tư duy con người ở chỗ: Tư duy của con người mang bản chất
xã hội - lịch sử, có tính sáng tạo, có khả năng khái quát và sử dụng ngôn ngữ
làm phương tiện. Tư duy con người được quy định bởi các nguyên nhân, các
yêu cầu của quá trình phát triển lịch sử - xã hội, chứ không đừng lại ở mức độ
tư duy bằng các thao tác chân tay hay bằng một chương trình đã được lập sẵn.
Có thể nói một cách khái quát: Tư duy là sản phẩm cao cấp của một dạng vật
chất hữu cơ có tổ chức cao, đó là bộ não của con người. Trong quá trình phản
ánh hiện thực khách quan bằng những khái niệm, phán đoán... tư duy bao giờ
cũng có mối liên hệ nhất định với một hình thức hoạt động của vật chất, với
sự hoạt động của não người. Trong khi xác định sự giống nhau giữa tâm lý



người và động vật, các nhà tâm lý học Mác - xít cũng chỉ ra sự khác nhau căn
bản giữa tư duy của con người và hoạt động tâm lý động vật. Một trong
những điểm khác nhau ấy là tư duy con người sử dụng khái niệm để ghi lại
những kết quả trừu tượng hoá, tư duy được ra đời do lao động và trên cơ sở
của sự phát triển xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, thế giới tự nhiên tác
động vào các giác quan tạo ra cảm giác, tri giác và biểu tượng là cơ sở ban
đầu của tư duy. Tư duy khái quát những thu nhận của cảm giác bằng những
khái niệm và những phạm trù khoa học, mang lại cho chúng ta những quan
điểm rộng hơn, sâu hơn những cảm giác trực tiếp. Nhờ trừu tượng hoá mà tư
duy đã chỉ ra được những mối liên hệ, quan hệ của rất nhiều sự vật, hiện
tượng, nêu ra được những khái niệm, những phạm trù, những quy luật phản
ánh các mối liên hệ, quan hệ của rất nhiều sự vật, hiện tượng, nêu ra được
những khái niệm, những phạm trù, những quy luật phản ánh các mối liên hệ,
quan hệ nội tại của các sự vật, hiện tượng đó. Và chỉ có khái quát về lý luận
mới cho phép tư duy của con người tìm ra bản chất của các sự vật, hiện tượng
và các quy luật phát triển của chúng. Cũng vì thế, Từ điển Tiếng Việt quan
niệm: Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào nhận thức
và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức, như biểu
tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý [30, tr.1011].
Để ghi lại những hiểu biết thu nhận được trong quá trình tư duy, con
người sử dụng ngôn ngữ. Cũng bởi vậy ngôn ngữ được đánh giá là công cụ để
tư duy, tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Thực tiễn cho thấy con
người nếu khả năng tư duy không phát triển thì việc sử dụng ngôn ngữ khi
biểu đạt các nội dung giao tiếp cũng không tốt. Vì thế, có thể khẳng định ngôn
ngữ và tư duy có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng tạo thành một khối
thống nhất biện chứng có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình vận động
và phát triển của con người. Quá trình hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức khoa



học Tiếng Việt ở trường phổ thông nhằm mục đích là giúp các em thông hiểu
về đặc điểm, cách kết hợp các đơn vị ngôn ngữ để tạo nên các đơn vị lớn hơn,
giúp chủ thể học tập hiểu rõ quy luật cấu trúc nội bộ của Tiếng Việt, quy luật
hoạt động của nó. Trên cơ sở đó hình thành kĩ năng, kỹ xảo ngôn ngữ cho các
em. Không chỉ có vậy, khi hướng dẫn HS học tiếng Việt, GV còn có thể thực
hiện nhiệm vụ hình thành và phát triển các thao tác, các phẩm chất tư duy cho
chủ thể học tập. Đây là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình dạy học
tiếng Việt, bởi nếu HS hiểu và nắm vững nội dung vấn đề cần trình bày, các
em sẽ nói và viết lưu loát còn chưa hiểu nội dung vấn đề, các em sẽ diễn đạt
lúng túng, mắc nhiều sai sót. Do đó rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện
tư duy là một trong những nguyên tắc đặc thù của việc dạy học tiếng Việt
trong nhà trường phổ thông nói chung, trong các TTGDTX & DN nói riêng.
1.1.1.2. Đặc điểm tư duy của HS THPT nói chung, HS THPT tại các
TTGDTX & DN nói riêng
Theo tâm lí học lứa tuổi, HS cấp THPT ở vào thời kỳ mà sự phát triển
thể chất của con người đang đi vào giai đoạn hoàn chỉnh. Bên cạnh sự phát
triển về thể lực, sự phát triển của hệ thần kinh cũng có những thay đổi quan
trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng não phát triển.
“Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những cấu trúc như trong cấu trúc
tế bào não của người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết
các phần khác nhau của vỏ đại não lại. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự
phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của vỏ bán cầu đại não trong
quá trình học tập” [11, tr.67]. HS ở tuổi này trưởng thành hơn, sở hữu nhiều
kinh nghiệm sống hơn, các em nhận ra được vị trí, vai trò của mình. Do vậy,
thái độ có ý thức của các em trong hoạt động học tập ngày càng được phát
triển. Đặc biệt ở lứa tuổi này, tính chủ động phát triển mạnh mẽ ở tất cả các
quá trình nhận thức. Quan sát của HS trở nên có mục đích, có hệ thống và



toàn diện hơn, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,
các em sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi nhớ, tóm tắt ý chính, so sánh,
đối chiếu… Đặc biệt, các em tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, biết
phân biệt tài liệu nào cần nhớ từng chữ, cái gì chỉ cần hiểu mà không cần nhớ.
Cũng do sự hình thành và phát triển trong tâm lý nhận thức, có thể nhận
thấy, ở độ tuổi từ 16 – 18 tuổi, khả năng nhận thức của HS THPT phát triển
mạnh về tư duy hình thức. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu
tượng một cách độc lập sáng tạo trước những đối tượng quen thuộc hoặc chưa
quen thuộc. Tuy nhiên, ở lứa tuổi “nổi loạn” nhiều em còn ham chơi chưa tích
cực tư duy, chưa tìm ra phương pháp học tập hiệu quả nên dẫn đến tình trạng
chán học, nhiều em chưa phát huy hết được năng lực độc lập suy nghĩ của bản
thân mà đã kết luận vội vàng theo cảm tính…Vì vậy, trong quá trình học tập
GV cần hướng dẫn giúp đỡ chủ thể học tập rèn luyện tư duy một cách tích cực
chủ động, độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối
cùng. Đồng thời GV phải tìm ra phương pháp, phương tiện dạy học tích cực
mang lại hiệu quả, giúp HS có những hứng thú học tập để các em đạt hiệu quả
cao trong học tập.
HS THPT đã có một vốn kiến thức về ngôn ngữ khá phong phú và đa
dạng. Do đó , các em đã có thể ý thức được hành vi ngôn ngữ và khả năng
sáng tạo của mình. Vì thế, trong quá trình giáo dục, nhà sư phạm luôn chú ý
đến việc khai thác trí sáng tạo của HS. Người GV cần nắm chắc những yếu tố
cơ bản tác động đến trí sáng tạo của chủ thể học tập để giúp cho quá trình sư
phạm đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Về mặt tư duy và nhận thức của HS TTGDTX&DN Phúc Yên so với
HS THPT chúng tôi nhận thấy không có nhiều điểm khác biệt. Về cơ bản đặc
điểm tư duy HS tại trường nghề cũng có những đặc điểm tư duy của HS
THPT nhưng cũng có những nét riêng: Ý thức của một bộ phận HS chưa tốt


do nhiều nguyên nhân: về hoàn cảnh, lứa tuổi khác nhau nên sự nhận thức

một số đối tượng HS cũng khác nhau, ý thức học tập chưa cao. Các em vừa
học văn hóa vừa học nghề với lượng kiến thức dày đặc, giờ học nhiều dẫn đến
tình trạng mệt mỏi và chán học. Nhưng cũng có những trường hợp các em có
ý thức cao trong học tập đặc biệt có năng khiếu khi học nghề, phát huy được
tính sáng tạo của mình: như vẽ, thiết kế đồ họa, thiết kế xây dựng, lắp đặt hệ
thống điện tử… Khi phát huy được sở trường của mình các em đã thực hiện
nghiêm túc và phát huy khả năng tư duy và khả năng sáng tạo của mình.
Trong quá trình dạy học Tiếng Việt theo phương pháp mới, lấy HS làm trung
tâm, chúng tôi đã giúp các em hoạt động chủ động, tích cực và có nhiều sáng
tạo mới mẻ đặc biệt trong những giờ có sử dụng SĐTD, HS TT GDTX&DN
Phúc Yên đã tỏ ra hào hứng, thích thú khiến giờ học thực sự có hiệu quả.
Như vậy, sự tổng hợp về năng lực tư duy và những đặc điểm tâm lý của
HS THPT nói chung và HS TTGDTX&DN Phúc Yên nói riêng chính là tiền
đề để chúng ta khẳng định việc hình thành năng lực tự học tập, tự nghiên cứu
cho HS với việc ứng dụng SĐTD trong dạy học các bài tiếng Việt nói chung
và nhóm bài HĐGTBNN là một việc làm hợp lý có cơ sở khoa học.
1.1.2. Sơ đồ tư duy trong giáo dục
1.2.1.1. Khái niệm SĐTD
Khi nghiên cứu bộ não con người, các nhà khoa học khẳng định: bán
cầu não trái điều khiển tư duy về trật tự, tuyến tính, logic và phân tích. Bán
cầu não phải điều khiển cách biểu lộ cảm xúc và tư duy tổng hợp. Việc tập
trung rèn luyện để phát huy sức mạnh của bán cầu não là rất quan trọng và
liên quan đến mục tiêu dạy học. Trong bài báo nổi tiếng “Một tư duy mới” sự
chuyển đổi từ thời đại thông tin sang thời đại khái niệm, Daniel Pink viết:
“Mãi gần đây, bán cầu não trái vẫn còn chi phối khả năng thành công trong
học tập, công việc hay kinh doanh. Ngày nay năng lực đó vẫn cần thiết, song


không còn đủ nữa. Trong một thế giới bị đảo lộn bởi việc cho thuê làm bên
ngoài, tràn ngập thông tin và đầy rẫy các sự lựa chọn, thì những khả năng

quan trọng nhất gần với đặc tính của bán cầu não phải hơn. Đó là khả năng
cảm thụ nghệ thuật, biết cảm thông, có tầm nhìn rộng và khát vọng lớn” [ 25,
tr. 266].
Từ những điều nói trên, có thể khẳng định trong sự phát triển nhận thức
của con người, não trái có vai trò quan trọng. Nó có những tác động lớn tới
quá trình chiếm lĩnh tri thức của con người. Dựa vào những nghiên cứu về tác
dụng của bộ não con người đối với sự phát triển nhận thức con người, SĐTD
đã ra đời nhằm phát huy được năng lực làm việc, sáng tạo và ghi nhớ của con
người. Vậy SĐTD là gì? Và đã có rất nhiều khái niệm để nói về SĐTD:
Trong cuốn “Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật
dạy học” thì: “SĐTD là công cụ tổ chức tư duy, là con đường dễ nhất để
chuyển thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Đồng thời là
một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của
nó. SĐTD là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh, để
mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng
được liên kết với nhau khiến SĐTD có thể bao quát được các ý tưởng trên một
phạm vi rộng. Tính hấp dẫn của hình ảnh, âm thanh… gây ra những kích
thích rất mạnh lên hệ thống rìa (hệ thống cổ áo) của não giúp cho việc ghi
nhớ được lâu bền và tạo ra những điều thuận lợi để vỏ não phân tích, xử lý,
rút ra kết luận hoặc xây dựng mô hình đối tượng cần nghiên cứu” [5. Tr.67].
Còn theo Tony Buzan người đã dành 30 năm để nghiên cứu về vấn đề
này, thì: “Bản đồ tư duy (Mindmap- Bản đồ tư duy, sơ đồ tư duy) là hình thức
ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh, để mở rộng và đào tạo các ý tưởng. Ở
giữa bản đồ là ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung


tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho những ý tưởng
chính và đều được nối với ý trung tâm” [11, tr19].
Từ các quan niệm trên có thể khẳng định SĐTD là phương tiện mạnh
để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của não bộ. SĐTD là hình thức ghi

chép tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội
dung, hệ thống hoá một chủ đề…bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh,
đường nét, màu sắc, chữ viết…

Về đặc trưng, có thể nhận thấy SĐTD là một sơ đồ mở, việc thiết kế
SĐTD theo mạch tư duy của mỗi người nên không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt
khe như bản đồ địa lý hay bản đồ lịch sử. Người sử dụng có thể thêm hoặc bớt
các nhánh tuỳ ý, mỗi người có thể vẽ một kiểu khác nhau, sử dụng hình ảnh
màu sắc, ngôn ngữ diễn đạt khác nhau. Có thể cùng một chủ đề, cùng một nội
dung nhưng mỗi người có thể “thể hiện” SĐTD theo cách riêng của mình, do
đó việc sử dụng SĐTD sẽ phát huy tối đa năng lực sáng tạo của mỗi người.
Cũng bởi thế, nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh đây chính là công cụ tổ chức
tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó như một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp
giữa từ ngữ, hình ảnh đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và
chức năng của não bộ giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
Một cách điển hình, SĐTD có cấu trúc như sau:


Cho đến nay, SĐTD được coi là sự lựa chọn cho trí óc hướng tới lối
suy nghĩ mạch lạc. Vì vậy, GV có thể vận dụng nó để hỗ trợ dạy học các dạng
bài nghiên cứu kiến thức mới, bài ôn tập, củng cố, hệ thống hoá kiến thức cho
người học sau mỗi bài/chương/phần/chuyên đề/học kì… và giúp cho cán bộ
quản lý lập kế hoạch công tác hiệu quả. Nếu phương pháp ghi chú kiểu truyền
thống không hiệu quả như chúng ta thường nghĩ, vậy một công cụ ghi chú
hiệu quả phải như thế nào? Câu trả lời là: một công cụ ghi chú hiệu quả phải
tận dụng được những từ khóa cũng như các nguyên tắc của Trí Nhớ Siêu
Đẳng. Với cách ghi chú như thế, cả não trái lẫn não phải, hay phần lớn công
suất của não bộ sẽ được huy động triệt để nhằm mang lại hiệu quả tối ưu nhất.
SĐTD chính là công cụ ghi chú tuyệt vời giúp bạn đạt được tất cả các yếu tố
trên. Đó chính là lý do tại sao SĐTD được gọi là phương tiện ghi nhớ tối ưu.

Bởi: Nguyên tắc Trí Nhớ Siêu Đẳng + Từ khóa + Não trái phải = SĐTD
1.2.1.2. Tác dụng của SĐTD
Theo cuốn sách “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế”- Trong phần chương 7- Sơ
đồ tư duy (Mindmap) các tác giả công trình này có nhắc đến tác dụng của
SĐTD:
“Hình vẽ minh họa bên dưới là một ví dụ của SĐTD về “Tác động thời
tiết”, một chương học trong sách giáo khoa địa lý (Singapore). SĐTD này thể
hiện khá rõ ưu điểm của việc ghi chú theo kiểu này.


Trước hết, SĐTD giúp bạn tiết kiệm được thời gian vì nó tận dụng
những từ khoá. Nếu bạn nhìn kỹ SĐTD về “Tác động thời tiết” phía trên, bạn
sẽ cảm thấy rất thú vị khi phát hiện ra nó bao hàm kiến thức từ 10 trang sách
giáo khoa. Nhờ vào việc tận dụng những từ khóa và hình ảnh sáng tạo, một
khối lượng kiến thức như thế được ghi chú hết sức cô đọng trong một trang
giấy, mà không bỏ lỡ bất kỳ một thông tin quan trọng nào. Tất cả những
thông tin cần thiết để đạt điểm cao trong kỳ thi vẫn được lưu giữ nguyên vẹn
từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Ví dụ, khi nhìn vào SĐTD về “Tác động thời tiết” ở phía trên, bạn có
thể thấy rằng: định nghĩa “Tác động cơ học” của thời tiết là việc những khối
đá lớn bị vỡ ra thành những khối đá nhỏ hơn khi chịu tác động từ một lực vật
lý. Định nghĩa dài này được giảm lại chỉ còn 1/3 trong SĐTD. Có thể nói,
việc học tập bằng SĐTD mang lại những lợi thế nhất định đối với những cách
học tập thông thường khác. Khi cần phải ôn lại bài trước ngày thi, người học
có thể ôn lại toàn bộ chương sách dài 20 trang chỉ bằng việc ôn lại 2-3 trang
SĐTD trong khi nếu học theo cách thông thường có thể phải mất một tiếng để
hoàn tất việc ôn lại cùng một chương sách mà vẫn có thể bỏ sót thông tin,



×