Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện yên sơn, tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 137 trang )

ĐẠI HỌC THÁ I NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

PHẠM ĐỨC HIẾU

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Ở HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

ĐẠI HỌC THÁ I NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

PHẠM ĐỨC HIẾU

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Ở HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60 62 01 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Xuân Dũng

THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Tuyên Quang, tháng 08 năm 2013
Tác giả

Phạm Đức Hiếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các cơ quan, các cấp lãnh đạo và cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn và kính
trọng tới tất cả tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Xuân

Dũng người đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng QLĐT Sau đại học,
Khoa Kinh tế, các đơn vị liên quan của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị
kinh doanh - ĐHTN. Tôi xin trân trọng cảm ơn các giáo sư, tiến sĩ của
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - những người đã trang bị cho
tôi những kiến thức quý báu để giúp tôi hoàn thành công trình này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, UBND tỉnh Tuyên Quang, UBND huyện Yên Sơn, Phòng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn, Chi cục Thống kê
huyện Yên Sơn, các xã và các hộ nông dân huyện Yên Sơn đã giúp tôi trong
quá trình điều tra số liệu.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên
chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành
luận văn.
Tuyên Quang, tháng năm 2014
Tác giả

Phạm Đức Hiếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
SXNN

Sản xuất nông nghiệp


HTX

Hợp tác xã

VN

Việt Nam

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

CN

Công nghiệp

KHKT

Khoa học kỹ thuật

LĐXH

Lao động xã hội

UBND


Ủy ban nhân dân

NTM

Nông thôn mới

NQ-CP

Nghị quyết chính phủ

SXHH

Sản xuất hàng hóa

DVNN

Dịch vụ nông nghiệp

DN

Doanh nghiệp

TBKT

Thiết bị kỹ thuật

HTXNN

Hợp tác xã nông nghiệp


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Tình hình sử dụng quỹ đất của huyện Yên Sơn năm 2012 ............ 41
Bảng 3.2: Tình hình nhân khẩu của huyện Yên Sơn 3 năm (2010 - 2012) .... 44
Bảng 3.3: Kết quả sản xuất các ngành kinh tế huyện Yên Sơn giai đoạn
2010 - 2012 ................................................................................... 48
Bảng 3.4: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp huyện Yên Sơn
2010 - 2012 ................................................................................... 53
Bảng 3.5: Diện tích gieo trồng cây hàng năm của huyện Yên Sơn 2010 -2012
..... 54
Bảng 3.6: Diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực có hạt của
huyện Yên Sơn 2010 - 2012 ........................................................ 55
Bảng 3.7: Diện tích, năng suất, sản lượng cây chất bột lấy củ của huyện
Yên Sơn năm 2010 - 2012 ............................................................ 56
Bảng 3.8: Diện tích, năng suất, sản lượng cây thực phẩm của huyện Yên
Sơn 2010 - 2012 ........................................................................... 58
Bảng 3.9: Diện tích, năng suất, sản lượng cây công nghiệp hàng năm của
huyện Yên Sơn 2010 - 2012 ........................................................ 59
Bảng 3.10: Diện tích gieo trồng cây lâu năm của huyện Yên Sơn 2010 2012............................................................................................... 60
Bảng 3.11: Kết quả ngành chăn nuôi huyện Yên Sơn giai đoạn 2010 - 2012 ......
63
Bảng 3.12: Sản lượng - giá trị - tỷ suất nông sản hàng hóa của ngành
trồng trọt năm 2010 - 2012 ........................................................... 66
Bảng 3.13: Hiệu quả sản xuất ngành trồng trọt ở các hộ điều tra năm 2012 ........

68
Bảng 3.14: Sản lượng - giá trị - tỷ suất nông sản hàng hóa của ngành
chăn nuôi năm 2010 - 2012........................................................... 70
Bảng 3.16: Cơ cấu hộ nông dân theo quy mô hàng hóa ................................. 72
Bảng 3.17: Quy mô và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hóa bình quân ở hộ
nông dân điều tra năm 2012.......................................................... 74
Bảng 3.18: Mức thu nhập bình quân theo lao động và nhân khẩu của hộ
nông dân điều tra năm 2012.......................................................... 76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

5

Bảng 3.19: Một số chỉ tiêu của trang trại huyện Yên Sơn năm 2012 ............. 77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu
Ở nước ta hiện nay, kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế phổ biến,
có vai trò rất lớn và là bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế, là chủ thể quan trọng
trong phát triển nông nghiệp và đổi mới nông thôn. Cùng với sự phát triển của
kinh tế xã hội nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng thì kinh tế hộ nông
dân không ngừng phát triển cả về quy mô và tính chất. Trong tình hình đó,
một bộ phận hộ nông dân chuyển từ quy mô nhỏ thành quy mô lớn, từ sản

xuất tự cấp tự túc thành sản xuất hàng hoá, trao đổi sản phẩm trên thị trường.
Nhiều hộ đã khẳng định được vị trí vai trò sản xuất hàng hoá của mình trong
nông nghiệp, nông thôn. Họ sử dụng có hiệu quả đất đai, tiền vốn, lao động và
đã vươn lên làm giầu. Mặc dù có nhiều hộ đã thành công trong phát triển kinh
tế hàng hoá nhưng nhìn chung, kinh tế hộ chưa chuyển hẳn sang kinh tế hàng
hoá. Do có sự khác nhau về điều kiện, khả năng kinh nghiệm sản xuất cho nên
có sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các hộ. Bên cạnh những hộ
nông dân vươn lên mạnh mẽ, vẫn tồn tại một bộ phận khá lớn hộ nông dân
gặp nhiều khó khăn trong sản xuất hàng hoá. Mặt khác, bình quân diện tích
canh tác đầu người thấp và phân bố không đồng đều, thiếu vốn, thiếu tư liệu
sản xuất, năng suất lao động thấp. Vấn đề nêu trên đặt ra bức bách không
những đối với nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng mà cả vùng trung du,
miền núi, hải đảo. Để giải quyết được điều đó, trước hết cần phải có những
giải pháp thiết thực và hữu hiệu nhằm phát triển mạnh kinh tế hộ nông dân
theo hướng sản xuất hàng hoá trên cả nước, cũng như tại mỗi vùng, mỗi địa
phương, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thực trạng kinh tế hộ nông dân.
Trong những năm gần đây vùng miền núi đã được chú trọng đầu tư
phát triển kinh tế xã hội. Nhiều chương trình dự án như: Phủ xanh đất trống
đồi núi trọc, (dự án 661, dự án 327), mở rộng giao thông miền núi, xây dựng
các cơ sở hạ tầng (dự án 135) được dành riêng ưu tiên cho miền núi, đời sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

vật chất tinh thần của nhân dân dần dần được cải thiện. Tuy nhiên, những thay
đổi đó mới chỉ là bước đầu, về cơ bản miền núi vẫn là vùng kinh tế chậm phát
triển đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn yếu và thiếu.
Do đó để đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội, đưa miền núi hoà nhập
với miền xuôi, ngoài việc tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chúng ta

còn phải tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông dân miền núi nói riêng
trong tổng thể phát triển kinh tế hộ nông dân cả nước nói chung, lấy kinh tế hộ
làm khởi điểm cho việc thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi.
Huyện Yên Sơn là một huyện trung du miền núi nằm ở phía Nam của
tỉnh Tuyên Quang, Huyện có diện tích và dân số lớn nhất tỉnh Tuyên Quang,
với diện tích là 1.132 km² và dân số 167.000 người. Cả hai con sông Lô
và sông Gâm đều chảy vào và gặp nhau tại huyện này. Là huyện có nhiều
tiềm năng nông lâm nghiệp chưa được khai thác, cơ sở hạ tầng và kinh tế hộ
nông dân vẫn còn nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân quan trọng
là kinh tế hộ nông dân còn gặp nhiều trở ngại, chưa thực sự đi vào sản xuất
hàng hoá. Chính vì vậy nghiên cứu phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng
sản xuất hàng hoá là hết sức cần thiết đối với huyện Yên Sơn. Chính vì vậy,
tác giả chọn đề tài: “Giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng
sản xuất hàng hóa ở huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang” làm luận văn của
mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sản
xuất hàng hóa nông nghiệp của hộ nông dân ở huyện Yên Sơn (tỉnh Tuyên
Quang) để tìm ra những yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới phát
triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, từ đó đề xuất giải
pháp phát triển kinh tế hàng hóa nhằm nâng cao mức sống của nông dân
huyện Yên Sơn.


2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa nhằm nâng cao thu
nhập cho hộ nông dân.
- Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hóa ở huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát triển kinh
tế hàng hóa hộ nông dân theo hướng bền vững cho hộ nông dân huyện Yên
Sơn - tỉnh Tuyên Quang.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn liên quan đến sản xuất nông
nghiệp gắn với phát triển kinh tế; vai trò tác động của quản lý nhà nước trong
tổ chức sản xuất, cơ chế chính sách và quản lý điều hành, vận dụng các cơ chế
chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp ở huyện Yên
Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Các vấn đề về sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang và kết quả, tình hình sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân,
các trang trại.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của hộ nông dân, những yếu tố ảnh
hưởng tới phát triển kinh tế hàng hóa. Qua đó đề xuất các giải pháp phát triển
kinh tế hàng hóa.
- Về không gian: Việc nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi 3 xã:

Quý Quân, Lực Hành, Kiến Thiết thuộc huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang.
- Về thời gian: Tìm hiểu thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa nhằm
nâng cao thu nhập của hộ nông dân huyện Yên Sơn trong những năm từ 2010
đến nay.


5. Những đóng góp mới của Luận văn
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn huyện
Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang. Đánh giá những kết quả đạt được và những
điểm còn hạn chế trong việc phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa

trên địa bàn huyện.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng
sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế hộ nông dân
theo hướng sản xuất hàng hóa.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản
xuất hàng hóa ở huyện Yên Sơn - Tỉnh Tuyên Quang
Chương 4: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông
dân theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Yên Sơn - Tỉnh Tuyên Quang


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
NÔNG DÂN THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân
Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, thu nhập chính từ các hoạt
động trong nông hộ và ngoài nông hộ. Thu từ sản xuất trong nông hộ bao gồm
các ngành sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, thu từ ngoài nông hộ bao
gồm: tiền đi làm thuê, trợ cấp, tiền gửi về, tiền lương hưu, quà biếu…
Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất
vừa là một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị
kinh tế độc lập tuyệt đối toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ thống
kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức cao
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị trường xã hội càng mở rộng và đi vào
chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ thống
kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước. Điều này càng

có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình hình hiện nay.
Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của xã hội, trong
đó các nguồn lực của đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi
là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà,
ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tuỳ thuộc
vào chủ hộ, được Nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển.
Có ý kiến khác lại cho rằng, kinh tế nông hộ bao gồm toàn bộ các khâu
của quá trình tái sản xuất mở rộng: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Kinh tế hộ thể hiện được các loại hộ hoạt động kinh tế trong nông thôn như hộ
nông nghiệp, hộ nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,
thương nghiệp, ngư nghiệp.


Theo quan niệm của Frank Ellis (1988): "Kinh tế hộ nông dân là kinh tế
của những hộ gia đình có quyền sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ
yếu sức lao động gia đình. Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản
xuất lớn hơn và tham gia ở mức độ không hoàn hảo vào hoạt động của thị
trường".
Nhìn chung kinh tế hộ nông dân có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Kinh tế hộ nông dân là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các
thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế cũng như huyết thống.
Về mức độ phát triển có thể trải qua các hình thức: kinh tế hộ sinh tồn, kinh tế
hộ tự cấp tự túc và kinh tế hộ sản xuất hàng hoá.
+ Đất đai là yếu tố quan trọng nhất trong các tư liệu sản xuất của hộ
nông dân. Cuộc sống của họ gắn liền với ruộng đất. Giải quyết mối quan hệ
giữa nông dân và đất đai là giải quyết vấn đề cơ bản về kinh tế nông hộ. Ở
nước ta, từ năm 1988 khi Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
các hộ nông dân, sản xuất nông nghiệp - mà đặc biệt là sản xuất lúa, đã có
mức tăng chưa từng có về năng suất và số lượng. Người nông dân phấn khởi
trong sản xuất. Một vấn đề rất quan trọng ở đây là việc xác nhận họ được

quyền kiếm sống gắn bó với mảnh đất của họ.
+ Kinh tế hộ chủ yếu sử dụng lao động gia đình, việc thuê mướn lao
động mang tính chất thời vụ không thường xuyên hoặc thuê mướn để đáp ứng
nhu cầu khác của gia đình. Một thực tế là hiệu quả sử dụng lao động trong
nông nghiệp rất cao, khác với các ngành kinh tế khác.
+ Sản xuất của hộ nông dân là tập hợp các mục đích kinh tế của các
thành viên trong gia đình, thường nằm trong một hệ thống sản xuất lớn hơn
của cộng đồng. Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế của sản xuất nông
nghiệp, tất yếu có quan hệ với thị trường song mức độ quan hệ còn thấp, chưa
gắn chặt với thị trường. Nếu tách họ ra khỏi thị trường họ vẫn tồn tại.


Trước thực tiễn phong phú của sản xuất hiện nay, kinh tế hộ nông dân
đang được nghiên cứu để định hướng phát triển. Vấn đề này sẽ còn gây nhiều
tranh luận về mặt lý luận và thực tiễn ở nước ta trong nhiều năm tới.


1.1.2. Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa
Theo từ điển Larousse: phát triển là một quá trình, là "tổng hoà các
hiện tượng được quan niệm như một chuỗi nhân quả kế tiếp nhau diễn tiến".
Có thể hiểu phát triển kinh tế là quá trình biến đổi về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản
lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Cho nên phát triển kinh tế là
khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến của nền kinh tế, từ trạng thái
thấp lên một trạng thái cao hơn.
Căn cứ vào mục tiêu cơ chế hoạt động của hộ nông dân, có thể phân
biệt các kiểu hộ nông dân như sau: Kiểu hộ hoàn toàn tự cấp không phản ứng
với thị trường. Kiểu hộ chủ yếu tự c ấp có bán một số lượng sản phẩm để đổi
lấy hàng tiêu dùng, có phản ứng ít nhiều với giá cả. Kiểu hộ bán phần lớn sản
lượng, phản ứng nhiều với giá thị trường. Kiểu hộ hoàn toàn sản xuất hàng

hoá có mục tiêu kiếm lợi nhuận như là một xí nghiệp.
1.1.3. Sản xuất hàng hoá và vai trò của nó trong nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp có vị trí quan trọng, là ngành duy nhất tạo ra
lương thực, thực phẩm nuôi sống toàn xã hội. Trong một thời gian dài, nông
nghiệp tự cung tự cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, thu nhập và đời sống
của nông dân thấp kém. Chỉ từ khi chuyển sang kinh tế hàng hoá, sản xuất
hàng hoá trở thành động lực để thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Sản xuất
hàng hoá còn là quá trình phát huy tốt nhất các lợi thế, các tiềm năng kinh tế xã hội của các vùng sản xuất. Vì vậy nó có vai trò điều tiết sản xuất, điều tiết
giữa các vùng, giữa người tiêu dùng và người sản xuất. Ở các nước kinh tế
phát triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, toàn bộ các trang trại gia đình đều tham gia
sản xuất hàng hoá. Ở các nước này, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp rất thấp, quy
mô nông trại lớn. Trái lại, ở các nước kinh tế kém phát triển, phần lớn dân số
là nông dân. Nước ta có gần 80% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông
nghiệp còn mang nặng tính tự cung tự cấp, số hộ nông dân tham gia sản xuất
hàng hoá còn ít.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

1.1.3.1. Sản xuất hàng hoá là xu thế phát triển của kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại đã xuất hiện và tồn tại từ lâu.
Nông hộ là tế bào kinh tế - xã hội, là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông
nghiệp và nông thôn. Kinh tế hộ là hình thức kinh tế trong quy mô gia đình,
gắn với gia đình. Kinh tế hộ, theo Traianốp (nhà kinh tế lớn của Nga), là hộ
gia đình độc lập, có hình thức kinh tế phức tạp. Xét từ góc độ các quan hệ
kinh tế - tổ chức, là sự kết hợp những ngành, những công việc khác nhau
trong quy mô hộ gia đình nông dân. Trong hơn 30 năm hợp tác hoá ở nước ta,
kinh tế hộ gia đình bị hoà tan trong kinh tế hợp tác xã, chỉ còn lại một bộ phận
nhỏ dưới hình thức kinh tế phụ gia đình. Từ sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ thì khái niệm mô hình

phát triển về kinh tế hộ mới được chú ý nghiên cứu.
Kinh tế trang trại là hình thức kinh tế theo quy mô gia đình hoặc theo
quy mô liên gia đình, đạt trình độ phát triển sản xuất hàng hoá cao, có khối
lượng hàng hoá lớn và tỷ suất hàng hoá cao. Trang trại là mô hình kinh tế
hướng tới của kinh tế hộ nông dân.
Kinh tế hộ nông dân hình thành và phát triển trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường sẽ xuất hiện ngày càng nhiều các hộ sản xuất hàng hoá. Cho
dù các cơ hội và điều kiện sản xuất ban đầu có khó khăn nhưng sau khi được
giao quyền sử dụng đất lâu dài, sức sản xuất được giải phóng, trong quá trình
phát triển sản xuất, kinh tế nông hộ sẽ có sự phân hoá. Một bộ phận nông dân
do điều kiện sản xuất gặp khó khăn, ít kinh nghiệm sản xuất, thiếu vốn, sản
xuất không có hiệu quả, mức sống rất thấp, họ có thể thoát ly sản xuất nông
nghiệp và chuyển sang làm dịch vụ, làm thuê hoặc sản xuất tiểu thủ công
nghiệp tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của họ, thậm chí có thể rời khỏ i nơi
sinh sống cũ để ra thành thị hoặc lập nghiệp ở một nơi mới. Thu nhập từ
nguồn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cộng với các thu nhập khác có thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

giúp họ có cuộc sống tốt hơn so với làm nông nghiệp. Như vậy ruộng đất sẽ
từng bước được tích tụ trong tay những hộ làm ăn giỏi. Khi đã đạt tới một quy
mô nhất định, các sản phẩm nông nghiệp hàng hoá sẽ xuất hiện trên thị
trường, hình thành các hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Đó là xu hướng vận
động, phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Với xu thế này, các hộ sản
xuất hàng hoá sẽ không ngừng tăng lên về số lượng cũng như về quy mô nông
hộ. Chính những hộ sản xuất hàng hoá này đã góp phần to lớn vào việc phát
triển nhanh sản xuất nông nghiệp. Ở nước ta, từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị (tháng 4 năm 1988) giao quyền sử dụng đất ổn định cho hộ nông

dân, đã tạo ra những điều kiện và môi trường cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Có thể nói, lịch sử phát triển nông nghiệp là lịch sử vận động và phát
triển của kinh tế hộ nông dân và các trang trại gia đình. Sự vận động này tuân
theo quá trình từ thấp đến cao, từ sản xuất tự cấp, tự túc đến sản xuất hàng
hoá. Kinh tế hộ nông dân đã trải qua các hình thái sau:
- Nhóm kinh tế hộ sinh tồn: Là dạng phát triển rất thấp của kinh tế hộ.
Họ sản xuất một vài nông sản chủ yếu để duy trì sự sống của gia đình, họ có ít
vốn, công cụ sản xuất thô sơ, phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất lao động thấp.
Hiện nay còn tồn tại ở một số dân tộc ít người thuộc các vùng xa xôi hẻo lánh,
các vùng núi cao biệt lập với xã hội. Thiếu lương thực, thực phẩm là nỗi lo
lắng thường xuyên của họ.
- Nhóm hộ kinh tế tự cấp tự túc với nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc
hậu, phân tán. Đặc điểm của nhóm hộ này là sản xuất chủ yếu để cung cấp
lương thực, thực phẩm và một số loại nông sản cần thiết khác đáp ứng yêu
cầu tiêu dùng cho gia đình, ít tiếp xúc với thị trường. Trong quá trình phát
triển, nhóm hộ kinh tế tự cấp tự túc là bước phát triển cao hơn so với nhóm hộ
kinh tế sinh tồn. Hiện nay ở Đồng bằng sông Hồng, phần lớn hộ nông dân sản
xuất là để tự cấp tự túc. Kinh tế tự cấp tự túc thường dẫn đến sự bảo thủ,
chậm phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

- Nhóm hộ sản xuất hàng hoá nhỏ: Trong quá trình sản xuất, hộ nông
dân luôn muốn sản xuất hướng ra ngoài, một bộ phận hộ nông dân làm ăn khá
giả, ngoài phần tiêu dùng cho gia đình, còn dư ra một ít sản phẩm, họ đã đưa
ra thị trường. Khi cung đã vượt cầu, họ đem những sản phẩm thừa trao đổi
trên thị trường và trở thành những hộ sản xuất hàng hoá nhỏ. Nếu các yếu tố
khách quan và chủ quan thuận lợi như ruộng đất nhiều, giá nông sản cao, thời
tiết thuận lợi, vốn nhiều, những hộ này có cơ hội để phát triển thành các hộ

sản xuất hàng hoá lớn. Ngược lại, nếu gặp rủi ro trong sản xuất thì họ có thể
trở thành nhóm hộ tự cấp tự túc.
- Nhóm hộ sản xuất hàng hoá lớn: Gặp điều kiện thuận lợi, một bộ phận
của nhóm hộ sản xuất hàng hoá lớn, thành các trang trại gia đình. Kinh tế
trang trại lấy sản xuất nông sản hàng hoá là chính, xuất p hát từ yêu cầu của
thị trường mà lựa chọn loại nông sản hàng hoá để sản xuất. Nhưng dù có phát
triển sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp thì các trang trại gia đình vẫn
tỏ ra có hiệu quả nhất so với các loại trang trại khác. Kinh tế mỗi hộ vẫn độc
lập, sử dụng chủ yếu là lao động gia đình, thuê mướn nhân công ít hoặc chỉ
thuê lao động thời vụ.
Như vậy sự vận động của kinh tế hộ nông dân đã trải qua các giai đoạn
từ sản xuất để sinh tồn đến sản xuất tự cung tự cấp rồi lên sản xuất hàng hoá.
Tiến lên sản xuất hàng hoá là xu thế tất yếu của phát triển kinh tế hộ mà động
lực của sự phát triển là tối ưu hoá lợi nhuận, hướng sản xuất tới trao đổi sản
phẩm trên thị trường.
1.1.3.2. Sản xuất hàng hoá là động lực thúc đẩy từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn trong nông nghiệp
Kinh tế hộ gia đình đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay, thể hiện rất rõ vai
trò tích cực trong quá trình phát triển nông nghiệp. Trang trại gia đình ở các
nước phát triển, hộ nông dân ở các nước đang phát triển là lực lượng chủ yếu
sản xuất ra sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp. Ở Mỹ với 2,2 triệu trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

trại đã sản xuất ra 50% đậu tương của toàn thế giới, hàng năm xuất khẩu 40 50 triệu tấn ngô, hàng triệu tấn thịt các loại v.v...
- Các trang trại gia đình đã hình thành cách đây hàng trăm năm. Lúc
đầu quy mô trang trại nhỏ, sản phẩm hàng hoá ít. Càng về sau quy mô các
trang trại càng lớn, năng suất lao động càng cao. Hiện nay nhờ áp dụng
những thành tựu kỹ thuật tiên tiến như hoá học hoá, cơ giới hoá và cách mạng

sinh học, tin học,... đã giúp các trang trại hiện đại hoá sản xuất. nhiều khu vực
trên thế giới như Tây Âu và Bắc Mỹ, sản phẩm hàng hoá nông nghiệp đã dư
thừa, 1 lao động nông nghiệp nuôi được 35 - 100 người. Động lực dùng trong
nông nghiệp có tới 82% là sức máy móc cơ điện. Bằng việc hiện đại hoá các
trang trại gia đình, các nước phát triển đã đạt được nền sản xuất hàng hoá lớn
trong nông nghiệp.
- Ở các nước đang phát triển, hàng hoá nông sản chủ yếu được sản xuất
tại các trang trại hoặc các hộ gia đình có quy mô nhỏ từ 1 - 5 ha. Trong một
số ngành, đặc biệt là trồng cây ăn quả, cây công nghiệp... tuy quy mô trang
trại nhỏ song vẫn tạo ra khố i lượng nông sản hàng hoá lớn với tỷ suất hàng
hoá cao là nhờ tính năng động của mạng lưới tổ chức tốt về dịch vụ và lưu
thông hàng hoá. Các trang trại ở Malaixia năm 1992 sản xuất được 6,4 triệu
tấn dầu cọ, chiếm 53% sản lượng dầu cọ trên thế giới.
- Ở nước ta, một thời gian dài kinh tế tập thể giữ vai trò chủ yếu, kinh
tế gia đình bị coi là kinh tế phụ. Cơ chế điều hành bằng mệnh lệnh hành chính
của hợp tác xã đã kìm hãm sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, sản xuất mất
động lực nên kinh tế bị trì trệ trong một thời gian dài, đặc biệt là ở các tỉnh
Đồng bằng Sông Hồng. Năng suất cây trồng không tăng, năm 1970 ngân sách
lúa đạt 20,1 tạ/ha thì năm 1980 đạt 21,79 tạ/ha. Trong 10 năm năng suất tăng
3,4%. Từ năm 1988 khi hộ nông dân được giao quyền sử dụng đất lâu dài,
nền kinh tế bắt đầu mở cửa tiếp xúc với cơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá
của hộ nông dân bắt đầu phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

- Một số nông sản xuất khẩu quan trọng như gạo, cao su, cà phê, chè,
v.v... đang hoà nhập và có vị trí đáng kể trên thị trường thế giới.
Như vậy sản xuất hàng hoá đã và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
các hộ gia đình từng bước chuyển từ sản xuất hàng hoá nhỏ lên sản xuất hàng

hoá lớn.
Sự ra đời của sản xuất hàng hoá gắn liền với sự phát triển của phân công
lao động xã hội và trao đổi. Một khi sản xuất sản phẩm không phải để bản
thân tiêu dùng mà để bán thì sản xuất hàng hoá đó gọi là sản xuất hàng hóa.
Trong sản xuất nông nghiệp, sản phẩm hàng hoá là những sản phẩm sản
xuất được bán ra ngoài tỉnh (nếu phạm vi là tỉnh), ngoại huyện (nếu phạm vi
là huyện), ngoài xã (nếu phạm vi là xã), hoặc theo phạm vi hộ là những sản
phẩm hộ nông dân bán ra. Hộ nông dân là cơ sở của sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp. Chính vì vậy nghiên cứu hộ nông dân phát triển sản xuất hàng
hoá để có thể rút ra những kết luận, đưa ra những giải pháp biện pháp, biện
pháp tác động đến sản xuất hàng hoá nói chung.
Sản xuất hàng hoá để tạo điều kiện phát huy tính năng động sáng tạo
trong việc khai thác và tận dụng những tiềm năng kinh tế xã hội cũng như lợi
thế so sánh của từng vùng kinh tế. Nó có vai trò quan trọng trong việc điều
tiết sản xuất, phân công lao động xã hội, điều tiết thị trường.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa
Phát triển nông nghiệp hàng hóa phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất, nhóm nhân tố về thể chế chính trị, chủ trương, chính sách của
Đảng. Việc nghiên cứu để thực thi một hệ thống thể chế pháp lý và chính sách
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Vì có phát huy được lợi thế so sánh nhằm
làm tăng các loại sản phẩm, giá trị hàng hóa sản xuất nông nghiệp, thỏa mãn
ngày càng cao về nhu cầu nông sản cho sản xuất, đời sống và xuất khẩu, góp
phần thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

+ Chính sách kinh tế nhiều thành phần: Trong nông nghiệp, nông thôn

hiện nay nhiều thành phần kinh tế có thể tham gia như: Kinh tế quốc doanh,
kinh tế hợp tác, kinh tế nông dân, kinh tế trang trại, kinh tế tư nhân... Việc
quy định vị trí vai trò của các nền thành phần kinh tế trong nền kinh tế là quan
trọng nhằm đảm bảo tính ổn định của sản xuất.
+ Chính sách đầu tư và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào nông nghiệp.
Đầu tư trước hết vào việc xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng như hệ thống
điện, đường giao thông và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực
hiện việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hóa.
+ Chính sách giá cả, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp: Khi cần thiết Nhà
nước có những chính sách tác động đến giá cả, đảm bảo quyền lợi của các chủ
thể và hỗ trợ cho các chủ thể một phần khi gặp khó khăn trong sản xuất.
+ Chính sách kinh tế vĩ mô có ý nghĩa tạo ra môi trường kinh doanh để
hình thành nông nghiệp hàng hóa. Vì thế, nếu chính sách đúng đắn, thích hợp
nó sẽ phát huy được tính năng động của các chủ thể sản xuất kinh doanh, khia
thác tốt nhất mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đấy phát triển nông
nghiệp hàng hóa và ngược lại.
+ Phát triển khoa học công nghệ, cung cấp dịch vụ thông tin, đầu tư xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (hệ thống đường giao thông, điện, thủy lợi, hệ
thống thông tin liên lac...), cung cấp vốn, tín dụng... những vấn đề này thể
hiện sự can thiệp và trợ giúp của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và là
nhân tố không thể thiếu được trong phát triển nông nghiệp hàng hóa .
Thứ hai, bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường càng mở cửa tạo
ra cơ hội và thách thức cho phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa. Đây
là một tất yếu và phải đảm bảo thõa mãn các yêu cầu trong hội nhập WTO.
Thứ ba, nhu cầu về thị trường và hệ thống thị trường. Điều kiện cơ bản
để các chủ thể kinh thế trong nông nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>


mình là phải xác định được thị trường đầu ra, tìm kiếm được khách hàng và
lựa chọn được phương thức tiêu thụ sản phẩm, xây dựng được hệ thống thị
trường nhằm mục đích lâu dài và ổn định.
Thứ tư, trình độ nền sản xuất, mức độ công nghiệp hóa của nền kinh tế
nói chung. Nền sản xuất và mức độ công nghiệp hóa nền kinh tế nói chung
càng cao thì sản xuất theo hướng hàng hóa càng phát triển. Quy mô sản xuất
nông nghiệp càng lớn cũng thể hiện việc chuyên môn hóa và tập trung hóa
trong sản xuất theo hướng hàng hóa càng lớn và được chú trọng.
Thứ năm, trình độ nhận thức và năng lực tư duy của người dân và cán
bộ thực hiện sản xuất hàng hóa. Người dân không có kiến thức, tư duy về sản
xuất hàng hóa sẽ khó thực hiện tốt vai trò của mình. Các nhà khoa học không
hiểu biết về các chủ trương, chinh sách về SXNN theo hướng, không có năng
lực chuyên môn sẽ không đảm nhiệm được vai trò cầu nối khoa học kỹ thuật
tới người dân. Bản thân các doanh nghiệp không biết về tầm quan trọng của
mình trong khâu tiêu thụ, không biết về các chính sách ưu đãi sẽ không tích
cực tham gia. Trình độ và tư duy về SXNN theo hướng hàng hóa tốt sẽ nâng
cao hiệu quả SXNN.
Thứ sáu, nhóm nhân tố thuộc về thị trường đầu vào, bao gốm đất, lao
động, đặc tính của sinh vật, trình độ và áp dụng khoa học công nghệ, vốn sản
xuất.
Thứ bảy, nhân tố về tổ chức sản xuất. Việc tổ chức sản xuất như thế
nào và quy định quy trình sản xuất có vai trò quyết định sự thành công hay
thất bại trong cả quá trình cho ra sản phẩm. Đây là yếu tố kết hợp tổng hợp
các điều kiện thuận lợi về nhiều mặt để giúp sản phẩm hàng hóa có chỗ đứng
trên thị trường và đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật.
Thứ tám, nhóm nhân tố thuộc về thị trường marketing và đầu ra.
Marketing bao gồm các hoạt động chủ yếu sau: thu gom, chế biến, phân phối,
đóng gói, vận chuyển, bảo quản, ngừa rủi ro, bán hàng và các kênh tiêu thụ.
Các hoạt động này hoạt động có hiệu quả đảm bảo hàng hóa nông sản có giá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

trị. Thị trường đầu ra tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp rất đa dạng và
phong phú, đó có thể là doanh nghiệp công nghiệp, các doanh nghiệp thương
mại, và những người tiêu dùng, nông lâm sản thông qua các chợ nông thôn
các đại lý tiêu thụ, các cơ sở chế biến công nghiệp tiêu thụ ở nước ngoài
thông qua các nhà xuất khẩu, các hợp đồng kinh tế, khả năng khai thác và mở
rộng thị trường của các cơ sở kinh doanh nông nghiệp là nhân tố hết sức quan
trọng quyết định quy mô và trình độ phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Tóm lại, các nhân tố nêu trên có mối quan hệ cùng thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển bền vững, trong mỗi nhóm nhân tố đều có mặt tích cực
riêng song nếu không giải quyết đồng bộ thì sản xuất hàng hóa hoặc không
phát triển hoặc phát triển không bên vững.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
cho hộ nông dân ở một số nước trên thế giới
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và bền vững
là bước đi thích hợp của nhiều nước trên thế giới trong chiến lược phát triển
kinh tế. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, không có một
công thức phát triển chung cho quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
đối với tất cả các nước. Mỗi nước có cách đi riêng, tùy theo những đặc điểm,
điều kiện cụ thể của mình, dưới đây là kinh nghiệm phát triển nông nghiệp
của một số nước ở Châu Á:
1.2.1.1. Phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Trung Quốc
Trung Quốc là nước có nền nông nghiệp lớn và lâu đời nhất thế giới,
đồng thời là một trong những chiếc nôi của nền nông nghiệp thế giới. Do đó,
nền nông nghiệp Trung Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm thâm canh cổ
truyền với một hệ thống công cụ sản xuất thủ công phong phú, đa dạng, tận

dụng nguồn lao động dồi dào ở nông thôn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp tự
túc, tự cấp có hiệu quả cao. Kể từ khi tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

đến nay, nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát triển theo
hướng hiện đại hóa và bền vững. Kinh tế nông nghiệp Trung Quốc đã có sự
chuyển dịch cơ cấu tích cực nhằm tạo ra năng suất cây trồng, vật nuôi cũng
như hiệu quả lao động cao, sản xuất nhiều nông sản hàng hóa. Nông nghiệp,
nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi to lớn và đạt được những
thành tựu đáng kể, đời sống nông dân được cải thiện từng bước, một bộ phận
dân cư đã có đời sống khá giả.
Là nước có diện tích đất canh tác khan hiếm và eo hẹp, tỷ lệ lao động
trong nông nghiệp cao, Trung Quốc chủ trương nâng cao hiệu quả sử dụng đất
và cải tạo đất trồng, giải quyết vấn đề dôi dư lao động. Vì vậy, quốc gia này
đã thực hiện thu hẹp kiểu kinh doanh cần nhiều lao động, mở rộng việc kinh
doanh tập trung vốn và kỹ thuật. Đó là điều có lợi cho nông dân, cho công
cuộc cải cách nông thôn và việc phân bổ tối ưu các nguồn lực trong sản xuất
nông nghiệp. Thực tế cho thấy, phương thức kinh doanh trên những mảnh
ruộng manh mún cổ truyền trước đây không còn phù hợp với việc thâm canh
bằng tập trung vốn và kỹ thuật. Chỉ có phương thức kinh doanh với quy mô
lớn mới tạo tiền đề cho việc đầu tư nhiều vốn và kỹ thuật nhằm đạt tới một
nền sản xuất hiện đại và bền vững.
Hiện nay, nông nghiệp vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng và đóng
góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Tổng kết kinh
nghiệm 20 năm cải cách và phát triển kinh tế nông thôn, Đảng Cộng sản
Trung Quốc chỉ rõ: "Không có sự ổn định của nông thôn sẽ không có sự ổn
định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân sẽ không có sự sung túc
của nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông nghiệp sẽ không có hiện

đại hóa của toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng
định rằng, hiện nay và trong một thời gian dài nữa, nông nghiệp Trung Quốc
vẫn giữ vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế; hiện đại hóa nông
nghiệp là một bộ phận trọng yếu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

hóa đất nước. Quan điểm trên xuất phát từ thực tế là ở Trung Quốc, nông
nghiệp có vai trò mà không một ngành kinh tế nào có thể thay thế được. Tuy
nhiên, trên thực tế, nông nghiệp Trung Quốc vẫn chưa đạt tới trình độ hiện đại
hóa và bảo đảm sự phát triển bền vững. Vì vậy, hiện đại hóa nông nghiệp
nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển trở thành đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ
hết. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một loạt chính sách
có lợi cho việc giải quyết vấn đề "tam nông" như: thực hiện xóa bỏ thuế nông
nghiệp và phụ thu thuế nông nghiệp; trợ cấp cho nông dân sản xuất lương
thực; thực hiện chế độ khám chữa bệnh loại hình mới trong cả nước, trong đó
có việc giải quyết khám chữa bệnh cho nông dân...
Qua hơn 20 năm cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo
hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững, Trung Quốc đã thu được những
bài học kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn. Đó là: Bảo đảm đầy đủ quyền
tự chủ, phát huy tính tích cực của nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu
kinh tế, trong đó công hữu là chủ thể, thực hiện sở hữu tập thể đối với ruộng
đất kinh doanh khoán gia đình, tách quyền sử dụng với quyền sở hữu; cải
cách theo hướng thị trường, tạo ra sức sống mới cho kinh tế nông thôn; xây
dựng địa vị chủ thể của trang trại trong kinh doanh tự chủ của các nông hộ,
khuyến khích nông dân phát triển sản xuất hàng hóa hướng về thị trường; tôn
trọng tinh thần sáng tạo của nông dân, thúc đẩy sự nghiệp cải cách, khoán chế
độ trách nhiệm đến hộ gia đình và phát triển các xí nghiệp hương trấn; kiên trì
đường lối căn bản “từ quần chúng mà ra, đi vào quần chúng"; coi trọng cao độ

nông nghiệp, kết hợp cải cách nông thôn và cải cách thành thị...
1.2.1.2. Thái Lan với chiến lược xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao,
sức cạnh tranh mạnh
Thái Lan là nước có nền nông nghiệp chiếm địa vị chi phối, dân số
nông thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong
hàng thập kỷ qua đã chứng tỏ vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

×