Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

NHỮNG điểm mới về hội ĐỒNG THẨM PHÁN tòa án NHÂN dân tối CAO THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.52 KB, 5 trang )

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI
CAO THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Ngày 24/11/2014, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân 2014. Theo đó, luật chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày
01/6/2015 và thay thế cho Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Với 11 chương, 98
điều, luật cơ bản thay đổi một số nội dung như quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và
các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân
dân,… Trong đó, những quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
có những điểm rất mới so với những quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2002.
Do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích những điểm mới về Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao theo pháp luật hiện hành” để làm bài tập học kỳ. Qua
đó, làm rõ hơn những điểm mới của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 về vấn đề
này.

NỘI DUNG
Theo quy định tại các Điều 22, Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 và
các Điều 21, Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có những điểm
mới
sau:
1. Về số lượng thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 thì số
lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13
người và không quá 17 người.


Trong khi đó, theo Khoản 3, Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 chỉ


quy định tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không
quá 17 người.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định số thành viên của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người,
gồm: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tạo nên tính chuyên môn
hóa nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.
2. Về thành phần Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Điểm a và Điểm b Khoản 2 Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 quy
định thành phần Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bao gồm: Chánh án,
các Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
Khoản 1, Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định thành phần
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bao gồm Chánh án, các Phó Chánh
án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
Như vậy, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao sẽ bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án và một số thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao. Có thể thấy rằng, ngoài Chánh án và các Phó Chánh án,
các thành viên còn lại của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ được Ủy
ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao. “Một số thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” này sẽ được chọn ra từ hơn 100
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, tạo nên sự phân biệt vị thế, năng lực,
chuyên môn giữa các thẩm phán.
Trong khi đó, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, thành phần Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ bao gồm Chánh án, các Phó Chánh án là
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và toàn bộ các thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao còn lại. Việc quy định toàn bộ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đều là thành
viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tạo nên sự tinh giản, tránh cồng

kềnh, gây lãng phí, tốn kém, đồng thời, nâng cao hơn nữa chất lượng, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ và vai trò của thẩm phán.
Ngoài ra, các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân 2014 sẽ do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao (Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp 2013). Việc Quốc hội phê chuẩn thể hiện
sự tín nhiệm, sự đòi hỏi của Quốc hội và Nhân dân đối với các thẩm phán. Đồng
thời, thể hiện sự trao quyền từ Quốc hội, từ Nhân dân đến các thẩm phán để bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ, lợi ích của Nhà


nước,
tổ
chức,

nhân.
3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
So với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2014 quy định mở rộng phạm vi quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
Theo đó, tại Khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định Giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ
và công bố án lệ để các tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử; Hội đồng có
quyền thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
về công tác của Tòa án nhân dân để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước; tham gia ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình
Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc
hội. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn có quyền được thảo luận,
cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản pháp luật giữa Tòa án nhân
dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy định của Luật ban hành văn bản
pháp luật.
Việc mở rộng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao đặc biệt là nhiệm vụ “lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố
án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (Điểm c, Khoản 2, Điều 22
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014) nhằm đáp ứng yêu cầu phải kịp thời giải
quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử giúp nâng cao hiệu quả
xét
xử,
tạo
niềm
tin
cho
nhân
dân.
4. Về hiệu lực pháp luật của quyết định do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đưa ra
Khoản 4 Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 khẳng định: “Quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là
quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định quyết định giám đốc thẩm,
tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất,
không bị kháng nghị chính là để cụ thể hóa quy định tại Khoản 1 Điều 104 của
Hiến pháp năm 2013 về việc “Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nguyên tắc hai
cấp xét xử), một vụ việc chỉ được giải quyết qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.

Việc quy định cơ chế xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân


dân tối cao vô hình chung đã thiết lập thêm một thủ tục đặc biệt nữa nhằm cho
phép Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thể xét lại chính quyết định
của mình. Mặc dù về căn bản thì thủ tục đặc biệt này vẫn dựa trên các căn cứ xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật giống như thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm. Hậu quả pháp lý của việc ra quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao là vụ án có thể sẽ tiếp tục bị đưa ra xem xét, giải quyết ở cấp
dưới, thậm chí xét xử lại ở cấp sơ thẩm. Điều này vi phạm nguyên tắc “toà án xét
xử theo 2 cấp”, khiến cho việc xét xử không có điểm dừng, quá trình xét xử lặp đi
lặp lại, khiến cho các bên trong quan hệ tố tụng mệt mỏi, gây tốn kém chi phí cho
cả Nhà nước và người dân, tạo sự quá tải của toà án và sự chậm trễ trong thực thi
công lý[1].
Thông thường các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhất là ở cấp
xét xử cao nhất được coi là biểu tượng công lý của các quốc gia. Người dân dù
muốn hay không đều phải tôn trọng và tuân thủ các bản án, quyết định này. Việc
cho phép xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao – cơ quan xét xử cao nhất của đất nước, sẽ khiến niềm tin vào công lý bị suy
giảm, sự tôn nghiêm của pháp luật, uy tín của hệ thống tòa án cũng bị ảnh hưởng.
Do
đó,
quy
định
này

hoàn
toàn
hợp
lý.

5. Về việc tổ chức xét xử của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Theo quy định của Khoản 1, Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội
đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phánTòa án nhân dân tối cao.
Trong khi đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 không có quy định cụ thể vấn đề
này.
Do số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ít, nên không tổ chức các
Tòa chuyên trách. Do đó, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân tối cao do Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đảm nhiệm, cụ thể: do 5 Thẩm phán thực
hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc theo sự phân công của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao theo nguyên tắc đa số. Đối với những vụ án quá phức
tạp, trong quá trình xét xử hội đồng xét xử chuyên trách chưa có sự nhất trí cao và
thống nhất đề nghị đưa vụ án ra Hội đồng toàn thể để xét xử; Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thực hiện giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án
đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền con người, lợi ích lớn của quốc gia và hàm
chứa những mối quan hệ phức tạp trong vụ án, hoặc những vụ án giám đốc thẩm,
tái thẩm của các Hội đồng xét xử chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao chưa
đạt được sự nhất trí[2].

KẾT LUẬN
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã được sửa đổi, bổ sung căn bản so
với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, trong đó, có việc sửa đổi, bổ sung


các quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc sửa đổi, bổ
sung này là cơ sở pháp lý quan trọng để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng
hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết 49 – NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;
3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002;
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2015.



×