Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Vấn đề văn hóa dân tộc việt nam trên tạp chí tao đàn (1939)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VI THỊ PHƢƠNG

VẤN ĐỀ VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM TRÊN TẠP CHÍ
TAO ĐÀN (1939)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

VI THỊ PHƢƠNG

VẤN ĐỀ VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM TRÊN TẠP CHÍ
TAO ĐÀN (1939)
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN NGỌC THIỆN

Hà Nội - 2018


i



LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tư liệu và số liệu
trong luận văn là trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các kết
luận chưa được ai công bố.
Tác giả luận văn

Vi Thị Phương


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn, nhà báo, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện – người
đã luôn ủng hộ tôi trong quá trình hình thành, triển khai và hoàn chỉnh luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo nhiều thế hệ trong Khoa
Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã không ngừng dìu dắt và chia sẻ kiến thức, niềm say mê
nghiên cứu tới cho tôi, tạo điều kiện để tôi có được môi trường học tập và
nghiên cứu thuận lợi nhất.
Tôi xin cảm ơn thư viện Viện Khoa học xã hội, thư viện Đại học Quốc gia;
thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội; Trung tâm học liệu – Đại học Thái Nguyên; thư viện Trường Đại học Khoa
học Thái Nguyên; thư viện gia đình thầy Nguyễn Ngọc Thiện đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi tiếp cận với nguồn tư liệu trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn tạp chí Khoa học & Công nghệ - Đại học Thái Nguyên,
tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, Báo Người Hà Nội đã tạo điều kiện cho
tôi công bố những kết quả nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp những người đã luôn động viên, sát cánh bên tôi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
qua.
Xin chân thành cảm ơn tất cả!
Tác giả luận văn

Vi Thị Phương


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 9
5.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................... 9
5.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 10
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thực chứng ................................ 10
6.2. Phương pháp khảo sát, thống kê .................................................... 10
6.3. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp .................................... 10
6.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành ............................................. 11
7. Đóng góp mới của đề tài ......................................................................... 11
8. Bố cục của đề tài ..................................................................................... 11

CHƢƠNG 1: SỰ RA ĐỜI VÀ VAI TRÒ CỦA TẠP CHÍ TAO ĐÀN
(1939) ................................................................................................................................... 13
1.1. Giới thuyết một vài khái niệm liên quan ............................................. 13
1.1.1. Khái niệm “Tạp chí” ................................................................... 13
1.1.2. Khái niệm “Văn hóa” .................................................................. 15
1.1.3. Khái niệm “Bản sắc văn hóa dân tộc” ........................................ 21


iv

1.2. Bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa thời kỳ 1930 – 1945 ...................... 24
1.3. Báo chí văn hóa - văn nghệ 1930 -1945 và sự ra đời của tạp chí Tao Đàn 26
1.4. Bộ biên tập tạp chí Tao Đàn ................................................................ 31
* Tiểu kết..................................................................................................... 33
CHƢƠNG 2: TINH THẦN DÂN TỘC VÀ TÍNH NHÂN VĂN CỦA NỀN
VĂN HÓA VIỆT NAM TRÊN TẠP CHÍ TAO ĐÀN (1939) .......................... 34
2.1. Tuyên ngôn tạp chí Tao Đàn ................................................................ 34
2.2. Nghị luận và Khảo cứu ........................................................................ 36
2.3. Cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân
sinh?” trong giai đoạn cuối trên Tao Đàn ................................................... 41
2.4. Sáng tác ................................................................................................ 54
2.4.1. Thơ hiện đại ................................................................................ 54
2.4.2. Văn xuôi hiện đại ........................................................................ 59
2.4.3. Kịch nói ....................................................................................... 63
* Tiểu kết..................................................................................................... 65
CHƢƠNG 3: TẠP CHÍ

TAO ĐÀN (1939) PHÁT HUY TRUYỀN

THỐNG VĂN HỌC DÂN TỘC VÀ ĐẨY MẠNH GIAO LƢU TRONG

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM ................................ 66
3.1. Phát huy truyền thống văn học dân tộc ................................................ 66
3.1.1. Văn học dân gian ........................................................................ 66
3.1.2. Văn học cổ điển và cổ sử ............................................................ 67
3.1.3. Văn học hiện đại ......................................................................... 69
3.1.4. Thống nhất ngôn ngữ tiếng Việt và cải cách chữ quốc ngữ ....... 70
3.2. Đẩy mạnh giao lưu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam .. 74
3.2.1. Nghiên cứu và tiếp thu tư tưởng triết học Đông Tây.................. 74
3.2.2. Giới thiệu văn học nước ngoài .................................................... 77
3.3. Xây dựng đội ngũ văn nghệ các thế hệ ................................................ 81


v

3.3.1. Nâng đỡ các cây bút trẻ .............................................................. 81
3.3.2. Khẳng định các cây bút có đóng góp qua loại bài chân dung văn
nghệ sĩ......................................................................................................... 82
3.4. Liên hệ: Nhận xét về việc sử dụng báo chí vào công cuộc xây dựng
nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay ....................................................... 85
* Tiểu kết..................................................................................................... 90
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 92
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN ............................................................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 95
PHỤ LỤC......................................................................................................................... 104


vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Kết quả khảo sát về nội dung Nghị luận – Khảo cứu ..................... 37
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về Cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay
Nghệ thuật vị nhân sinh?” .............................................................................. 48
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về Thơ hiện đại .................................................. 55
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về Văn xuôi hiện đại .......................................... 59
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát về Kịch nói ......................................................... 63
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về Ngôn ngữ tiếng Việt ....................................... 70
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về Triết học ......................................................... 75
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát về Văn học nước ngoài ...................................... 78


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tao Đàn là một trong những tạp chí chuyên về văn hóa - văn học nghệ
thuật đầu tiên trong làng báo nước ta trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Năm 1998, trọn bộ tạp chí này được PGS.TS - Nhà báo Nguyễn Ngọc Thiện và
tác giả Lữ Huy Nguyên sưu tầm biên soạn từ phục nguyên bản gốc. Tuy nhiên,
đây không phải là một tạp chí dễ dàng tiếp cận và chiếm lĩnh. Trên thực tế, rất ít
nhà nghiên cứu dành tâm sức nghiên cứu tạp chí này ở nhiều góc độ khác nhau.
Vì vậy, đến nay vẫn còn nhiều khoảng trống cần được bổ khuyết. Do vậy, việc
nghiên cứu Tao Đàn dù ở khía cạnh nào cũng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa,
nhằm khám phá đầy đủ hơn giá trị nhiều mặt của tạp chí.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển và tôn
vinh những giá trị văn hóa dân tộc và hình ảnh Việt Nam trước bạn bè năm châu
là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, của mọi người, trên các lĩnh vực của
đời sống. Bởi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội. Ở đây,
không thể phủ nhận vai trò của văn học nghệ thuật rất quan trọng. Bởi dường như
mọi tác phẩm nghệ thuật giá trị sáng tạo ra có ý nghĩa văn hóa sâu đậm. Vấn đề

đặt ra là: Tạp chí Tao Đàn có mối liên hệ gì với văn hóa dân tộc? Phải chăng Tao
Đàn cũng có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và phát huy nền văn
hóa dân tộc Việt? Đó là những đóng góp gì và những đóng góp ấy có giá trị như
thế nào đối với việc xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam nói
chung?
Ngoài ra, hiện nay một số các báo và tạp chí chú trọng phát huy truyền
thống bản sắc đậm đà văn hóa dân tộc như: Tạp chí Văn hiến; Tạp chí Nhà văn và
Tác phẩm; Tạp chí Nghiên cứu văn học; Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam,
Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật,.... Nghiên cứu đề tài này một mặt cho phép ta nhận
thức lại lịch sử, mặt khác soi chiếu vào hiện tại để thấy được con đường vận động,


2

phát triển của văn hóa và báo chí. Nhận diện lại vai trò của tạp chí Tao Đàn là việc
làm hữu ích, cung cấp cơ sở dữ liệu cho các cơ quan quản lý báo chí hiểu sâu về
vai trò, vị trí, thực trạng hoạt động của loại tạp chí này trong hiện tại. Từ đó có
cách lãnh đạo, quản lý phù hợp và hiệu quả hơn. Đề tài cũng sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích cho các giảng viên, sinh viên khi học tập, nghiên cứu và bạn đọc
quan tâm tới lịch sử báo chí, văn chương, văn hóa nước ta trước Cách mạng.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Vấn đề văn hóa
dân tộc Việt Nam trên tạp chí Tao Đàn (1939)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nắm được lịch sử vấn đề nghiên cứu để tìm ra lối đi riêng là một việc
làm quan trọng không thể thiếu khi thực hiện đề tài “Vấn đề văn hóa dân tộc
Việt Nam trên tạp chí Tao Đàn (1939)”.
Tao Đàn ra đời năm 1939. Do tình hình xã hội thời gian này phức tạp
nên việc lưu giữ các sản phẩm báo chí ít được coi trọng. Sau khi Tao Đàn
xuất bản, lưu hành hiện diện trong nước nhưng hiếm người có được trọn bộ
tạp chí trong tay. Ngoại trừ những ai có điều kiện sở hữu Tao Đàn, còn lại ít

người được đọc. Năm 1998, công trình sưu tập trọn bộ tạp chí này ra đời do
hai nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện và Lữ Huy Nguyên dày công sưu
tầm, biên soạn. Từ đó, Tao Đàn mới có dịp tái xuất hiện đến với công chúng
hôm nay.
Tao Đàn từ khi ra đời được xem là nơi “tập trung tất cả mọi sự gắng
công để đi tới sự hợp nhất và tiến hóa của văn chương Việt Nam” [60, tr. 17].
Tạp chí đã thu hút sự quan tâm của bạn đọc và các học giả nổi tiếng. Chúng
tôi xin điểm qua một số bài viết, tài liệu ghi chép, công trình nghiên cứu về
tạp chí này ở Việt Nam như sau:
Năm 1973, Thanh Lãng trong cuốn Phê bình văn học thế hệ 1932 có
thể được coi là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên bàn luận về nội dung của


3

Tao Đàn [49, tr. 150 - 200]. Thông qua các bài nghiên cứu, bàn luận văn học
của các giả có bài đăng trên Tao Đàn, Thanh Lãng muốn nhấn mạnh tới quan
điểm của các phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”
tranh luận qua một chặng đường lịch sử.
Tương đối thống nhất với quan điểm đánh giá của Thanh Lãng là quan
điểm của Huỳnh Văn Tòng. Với công trình Báo chí Việt Nam từ khởi thủy
đến 1945, Huỳnh Văn Tòng là một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu
một cách bài bản và hệ thống về lịch sử báo chí Việt Nam. Tác giả phân chia
báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1945 thành bốn thời kỳ: 1865 - 1907,
1907 - 1918, 1918 - 1930, 1930 - 1945. Năm 1973, Huỳnh Văn Tòng công bố
đầu tiên ở Sài Gòn cuốn sách dựa vào luận án Tiến sĩ Báo chí học, bảo vệ
năm 1971, tại Pháp. Công trình này, năm 1973 có tên là Lịch sử báo chí Việt
Nam nhưng năm 2016, khi tái bản chỉnh sửa bổ sung, đã đổi tên thành Báo chí
Việt Nam từ khởi thủy đến 1945. Đặc biệt là khi nói đến việc phân kỳ báo chí
theo thứ tự, ông có đề cập 8 dòng về Tao Đàn: “Nhà xuất bản Tân dân còn

cho ra thêm tờ Tao Đàn ra hai lần mỗi tháng. Số đầu tiên ra ngày 1-3-1939
gồm nhiều cây bút nổi tiếng: Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Trọng Thuật, Phan
Khôi, Hoài Thanh, Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân. Hai
số đặc biệt viết về nhà thơ Tản Đà và nhà văn Vũ Trọng Phụng nhân ngày qua
đời của hai cây bút nổi danh Bắc Hà là tài liệu quý giá cho những ai muốn
nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của hai nhân vật này.” [55, tr. 279].
Cũng trong năm 1973, Vũ Hân trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ
XIX, tiền bán thế kỷ XX (1800 – 1945) có dành hơn một trang nói về Tao Đàn:
“Tạp chí Tao Đàn là tạp chí bán nguyệt san xuất bản vào ngày mùng 1 và 16
mỗi tháng. Số đầu ra mắt vào trung tuần tháng 2 năm 1939, nhân dịp Tết.
Tao Đàn đã có công trong sứ mạng làm phát huy nảy nở tinh thần Việt Nam
trong những công trình sáng tạo mãnh liệt và rõ ràng.” [33, tr. 144-145].


4

Trong trang giới thiệu này, Vũ Hân đã có một vài đánh giá sơ lược về sự sáng
lập, mục đích, ban biên tập, thành tích nội dung và hình thức của tạp chí Tao
Đàn. Tuy nhiên, quan điểm Vũ Hân trong công trình này vẫn mang tính chất
tìm hiểu sơ lược về Tao Đàn – tạp chí cùng thời với nhóm Tự lực văn đoàn.
Song, Vũ Hân có sự nhầm lẫn về ngày ra tạp chí. Số đầu tiên Tao Đàn ra mắt
ngày 01/3/1939 chứ không phải vào trung tuần tháng 2 năm 1939.
Năm 1984, Nguyễn Thành đã để lại nhiều dấu ấn trong công trình Báo
chí Cách mạng Việt Nam 1925 -1945 cả về phương diện tư liệu và phương
pháp nghiên cứu. Ông đã đề cập đến tạp chí Tao Đàn qua việc liệt kê “những
tờ báo trung gian thường tỏ thiện cảm với mặt trận dân chủ, có thể kể: Đàn
bà, Con ong, Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy, Tao Đàn, Ngày nay,
Việt báo, Ích hữu, Tiếng dân,…” [57, tr. 142]. Nói chung, những phát hiện
của Nguyễn Thành về Tao Đàn đã đóng góp thêm tiếng nói trong lịch sử
nghiên cứu vấn đề này. Qua công trình, nhà nghiên cứu đã khẳng định vị trí

đặc biệt của Tao Đàn trong tiến trình lịch sử báo chí. Tuy nhiên, những nhận
xét của Nguyễn Thành còn khá sơ lược khi nói về Tao Đàn.
Đỗ Quang Hƣng cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm đến
Tạp chí Tao Đàn. Trong công trình nghiên cứu Lịch sử báo chí Việt Nam 1865
– 1945, tác giả đã có những tìm tòi, nghiên cứu công phu về lịch sử báo chí
Việt Nam trong thời kỳ này. Có thể nói do phạm vi nghiên cứu rất rộng nên
tác giả đánh giá một cách tổng quan nhất cho từng giai đoạn và chọn một số
tờ báo tiêu biểu để bình luận. Tác giả cũng đề cập đến Tao Đàn: “Tờ Tao Đàn
hai tháng 1 kỳ, ngày số đầu 1-7-1939 đã có tới 134 trang, dành riêng nói về
nhà thơ, nhà báo nổi tiếng Tản Đà. Báo này xuất hiện ở Hà Nội” [40, tr. 183].
Tuy nhiên, tác giả viết chưa chính xác về ngày ra số báo đầu tiên (phải là
ngày 1-3-1939) và kỳ ra báo (phải là 2 lần/1 tháng) của tạp chí Tao Đàn. Phải


5

chăng, Đỗ Quang Hưng có đề cập đến tạp chí này nhưng qua những tài liệu
gián tiếp nên dẫn tới tình hình trên.
Tiếp tục tìm hiểu một số tác giả khác, chúng tôi nhận thấy Nguyễn
Ngọc Thiện cũng là một người dành nhiều tâm huyết với tạp chí Tao Đàn.
Năm 1996, lần đầu tiên, Nguyễn Ngọc Thiện đã đề cập đến tạp chí Tao Đàn
trong bài khảo luận “Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 – 1939” in ở
đầu cuốn Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-1939 [62, tr. 23 - 105].
(Về cuộc tranh luận nghệ thuật nói trên trong tạp chí Tao Đàn, chúng tôi sẽ
trình bày cụ thể trong một phần ở chương 2).
Tiếp đó, năm 1998, Nguyễn Ngọc Thiện lại viết trong lời giới thiệu
tạp chí Tao Đàn in trong Sưu tập trọn bộ Tạp chí Tao Đàn 1939 tập I [60, tr.
7 - 14].
Tới năm 1999, khi sưu tầm và cho xuất bản cuốn Văn chương và
hành động, Nguyễn Ngọc Thiện cũng nhắc đến Tao Đàn trong lời bạt ở

cuối sách: “Hành trình đến với bạn đọc của Văn chương và Hành động”
[56, tr. 101 -115].
Và năm 2006, tại Hội thảo khoa học “Lan Khai với văn học Việt Nam
hiện đại”, do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, Nguyễn Ngọc Thiện có bài
tham luận “Lan Khai và tạp chí Tao Đàn 1939”. Bài tham luận này đã được
đăng trong cuốn Lý luận, phê bình và đời sống văn chương của ông [65, tr.
137 - 145]. Nội dung bài tham luận nhấn mạnh đến đặc sắc của tạp chí này về
phương diện tư tưởng cũng như về phương diện nghệ thuật, là Tao Đàn đặc
biệt chú trọng vào những công trình sáng tác, vì chỉ ở đó mới phát huy được
một cách mạnh mẽ tinh thần dân tộc Việt Nam. Đồng thời cũng đề cập đến
vai trò của Lan Khai trong việc biên soạn nội dung bài vở tạp chí.


6

Nhìn chung, ở những công trình nói trên, các tác giả cũng chưa đặt ra
vấn đề nghiên cứu hệ thống tạp chí Tao Đàn từ góc độ văn hóa dân tộc một
cách có chủ định.
Từ sau năm 1998, khi tạp chí Tao Đàn được sưu tập, tái bản trọn bộ, đã
có một loạt bài viết về tạp chí này. Đó là: “Tao Đàn 1939, một bộ sưu tập
quý” của Vũ Phƣơng đăng trên Nhân Dân (cuối tuần) [Số 43/1998, tr. 10].
Bài viết này đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về đóng góp của Tao
Đàn: “So với các tờ báo ít nhiều chuyên tâm đến văn học nghệ thuật có “tuổi
đời” lớn hơn hồi trước 1945 như Đông Dương tạp chí (1913 – 1917), Nam
Phong tạp chí (1917 - 1934), An Nam tạp chí (1926 - 1927, 1930 - 1933),.. thì
quả thật, sự hiện diện của Tao Đàn về mặt thời gian quả là ngắn. Nhưng chính
Tao Đàn lại là tờ tạp chí văn học không những có vị trí đặc biệt mà còn có
những đóng góp to lớn, quan trọng về tư tưởng, lẫn học thuật.” [65, tr. 524].
Nhận định nói trên dù chưa dựa trên những thao tác phân tích văn bản cụ thể,
nhưng chúng là những gợi dẫn quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu phong cách

cũng như mục đích của tạp chí Tao Đàn.
Các tác giả khác cũng bày tỏ quan điểm của mình về trọn bộ sưu tập tạp
chí Tao Đàn 1939. Đó là Ngân Xuyên, Nguyễn Đăng Điệp và Đồng Thị
Mừng. “Về lại Tao Đàn” của Ngân Xuyên đăng trên Quê hương [Số 10/1998,
tr. 27] đã có đoạn ghi nhận: “Sự cảm kích và yên tâm tin tưởng khi cầm bộ
sách Tao Đàn 1939 – Sưu tập trọn bộ 2 tập.” [65, tr. 529].
Nguyễn Đăng Điệp với bài viết “Nhặt vàng từ thời gian” đăng trên Tác
phẩm mới [Số 10/1998, tr. 81 – 83] cho thấy sự nể trọng công sức và tâm
huyết của hai soạn giả Nguyễn Ngọc Thiện (Chủ biên) và Lữ Huy Nguyên
trong quá trình phục hiện trọn bộ Tao Đàn như nó đã từng hiện diện cách đây
gần 60 năm. Nguyễn Đăng Điệp cũng thể hiện sự trân quý bộ sưu tập tạp chí,


7

như gặp được người bạn cũ, từ số chữ của mỗi trang tạp chí đến hình thức
trình bày.
Bài “Đọc sưu tập trọn bộ tạp chí Tao Đàn 1939 – đôi điều cảm nhận”
của Đồng Thị Mừng viết năm 1999. Bài viết này khẳng định những đóng góp
có ý nghĩa mở đường của Tao Đàn: “Tao Đàn đã đánh dấu một thời kỳ phát
triển sôi động của báo chí Việt Nam, góp phần xây dựng và giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, chống lại âm mưu “xâm lăng văn hóa” của thực dân Pháp.”
[65, tr. 537]. Tuy nhiên, những kiến văn về văn hóa, lịch sử báo chí ở Việt
Nam thời kỳ 1930 - 1939 cũng chưa được Đồng Thị Mừng lưu ý vận dụng để
lý giải.
Trước đó, năm 2001, Đồng Thị Mừng cũng sớm chú ý đến công lao của
Tao Đàn trên lĩnh vực văn hóa qua luận văn tốt nghiệp đại học: “Vai trò của
tạp chí Tao Đàn trên phương diện văn hóa” tại Khoa Báo chí - Phân viện Báo
chí và Tuyên truyền. Điểm hấp dẫn nhất của công trình này là tác giả đã tiếp
cận, xem xét Tao Đàn trong lịch sử báo chí Việt Nam và cho thấy giá trị cơ

bản của tạp chí vào công cuộc canh tân nền văn hóa dân tộc.
Năm 2010, những bài viết này được tác giả Nguyễn Ngọc Thiện tập
hợp và đăng vào cuốn Lý luận phê bình và đời sống văn chương trong Phần
Phụ lục “Lời bạn tri âm”.
Như vậy, đã có một số công trình, bài viết về tạp chí Tao Đàn ở nhiều
góc độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu đi trước đã quan tâm, nghiên cứu Tao
Đàn trên một vài phương diện. Tuy nhiên, hầu hết những công trình nghiên
cứu nêu trên tuy đã góp phần phác họa về tạp chí Tao Đàn, nhưng mới chỉ là
những đánh giá thiên về đóng góp chung, khái quát, mà chưa đi sâu minh
chứng về các mặt cụ thể, cũng như chưa lý giải các vấn đề trên cơ sở những
đối chiếu, so sánh. Chẳng hạn như: Tao Đàn có đóng góp như thế nào với


8

việc xây dựng nền văn xuôi quốc ngữ? Vì sao Tao Đàn chỉ tồn tại trong một
năm nhưng đóng góp rất sáng giá cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam? Văn
hóa dân tộc trên Tao Đàn có gì giống và khác các tạp chí trước và sau nó?
Điều đáng nói, đại đa số các công trình nghiên cứu đã có về tạp chí Tao
Đàn chưa đặt vấn đề nghiên cứu tập trung, hệ thống tạp chí này từ góc nhìn
văn hóa dân tộc. Trường quan sát của những nhà nghiên cứu này không hoặc
ít bao hàm vấn đề văn hóa trên báo chí. Điều này khiến cho tạp chí Tao Đàn
đôi khi bị nhìn nhận thiên lệch về tạp chí văn học hiện diện trong quá khứ.
Vấn đề văn hóa dân tộc Việt Nam trên Tao Đàn chưa được coi là một đối
tượng nghiên độc lập, chưa được thể hiện thành một công trình hoàn chỉnh để
xem xét.
Chính vì thế, luận văn hy vọng xới lên hướng nghiên cứu về văn hóa
dân tộc trên tạp chí Tao Đàn. Đây sẽ là một vấn đề mới mẻ, góp phần cung
cấp thêm một góc nhìn để hiểu sâu hơn về giá trị nội dung tư tưởng, học thuật
của Tao Đàn - một “vườn ươm hạt giống anh tài chủng tộc” như lời nói đầu

của tạp chí.
3. Mục đích nghiên cứu
Những năm đầu thế kỷ XX được đánh giá là thời kỳ phát triển bột
phát của báo chí Việt Nam. Báo chí thời đó có những đặc trưng riêng, nhất
là dòng báo chí về văn hóa, văn học nghệ thuật. Vì vậy, mục đích nghiên
cứu của chúng tôi là đi ngược dòng lịch sử, làm rõ một số vấn đề lý thuyết
về lịch sử báo chí văn học ở nước ta giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.
Luận văn tập trung vào những loại bài vở trên tạp chí Tao Đàn về văn hóa –
văn học nghệ thuật, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động và đóng góp
của Tao Đàn về vấn đề văn hóa dân tộc Việt Nam.


9

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lí luận cụ thể như:
- Sự ra đời, vai trò và ý nghĩa xã hội của Tao Đàn 1939, những đặc
điểm của báo chí văn học nghệ thuật 1930 - 1945 và sự xuất hiện của tạp chí
Tao Đàn.
- Chứng minh những đóng góp của tạp chí Tao Đàn về vấn đề văn hóa
dân tộc Việt Nam trên các phương diện: tinh thần dân tộc, tính nhân văn:
(Tuyên ngôn tạp chí, những tranh luận, giao lưu văn hóa văn nghệ và loạt bài
viết thể hiện tính nhân văn của nền văn hóa.
- Những đặc điểm thể hiện tính truyền thống và hiện đại của Tao Đàn (giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt, cải cách chữ Quốc ngữ, đổi mới chữ viết, tiếp
thu tư tưởng phương Tây,...)
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Tạp chí Tao Đàn chỉ tồn tại trong vòng một năm nhưng đã đề cập đến
nhiều mặt trong đời sống văn hóa, văn nghệ – xã hội và ở các mặt đều có những

thành công. Do yêu cầu, mục đích và khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi
xem xét Tao Đàn như một công trình có ý nghĩa và đóng góp về văn hóa trên
góc độ một tờ tạp chí. Do đó, đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là: Vấn đề
văn hóa dân tộc Việt Nam trên tạp chí Tao Đàn 1939.
Tuy nhiên để những luận điểm rút ra có thêm cơ sở khoa học, chúng tôi
cũng có đối chiếu, so sánh với một số tờ báo, tạp chí cùng thời.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Cuối thế kỷ XX, tạp chí Tao Đàn được sưu tập trọn
bộ, tái bản phục vụ cho công tác nghiên cứu. Khi thực hiện đề tài này, chúng
tôi dùng bản: Tao Đàn 1939 Sưu tập trọn bộ, tập I, II do Nguyễn Ngọc Thiện


10

– Lữ Huy Nguyên sưu tập và phục nguyên từ bản gốc, nhà xuất bản Văn học
ấn hành tại Hà Nội năm 1998.
Để có cái nhìn đầy đủ, khách quan hơn, chúng tôi chọn nghiên cứu
thêm một số công trình nghiên cứu, tác phẩm báo chí, văn học và tư liệu lịch
sử, tư liệu văn hoá có liên quan.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chính là: Phương pháp nghiên cứu tài liệu thực chứng; phương pháp khảo
sát, thống kê; phương pháp so sánh, phân tích nội dung và phương pháp
nghiên cứu liên ngành.
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thực chứng
Dùng để xem xét phân tích thực chứng các loại bài viết đã hiện diện
trên Tao Đàn, trên cơ sở đó kế thừa những giá trị vốn có, sau đó rút ra những
dữ liệu để so sánh, đối chiếu, nhận định.
6.2. Phương pháp khảo sát, thống kê
Chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát thống kê để khảo sát số lượng

bài báo từng loại đã đăng trên Tao Đàn. Đồng thời, phương pháp thống kê
giúp chúng tôi xử lý thông tin từ các tư liệu lịch sử báo chí để chứng minh các
luận điểm đã nêu ra.
6.3. Phương pháp so sánh, phân tích nội dung
Phương pháp phân tích giúp chúng tôi tìm hiểu, khám phá những đóng
góp cụ thể của Tao Đàn về nhiều phương diện; để phân tích các văn bản, tác
phẩm báo chí đã đăng trên tạp chí này. Đây là một phương pháp không thể
thiếu để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra. Bên cạnh đó,
phương pháp tổng hợp, so sánh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi có một
cái nhìn khái quát, sâu sắc về các khía cạnh thuộc vấn đề nghiên cứu chủ yếu.


11

6.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Nghiên cứu một tờ báo, tạp chí không thể tách rời nó khỏi môi trường
báo chí. Tao Đàn là tạp chí ra đời ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám năm
1945. Do đó, cần phải xem xét nó trong lịch sử báo chí. Chúng tôi sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành Báo chí - Văn hóa – Văn học để kiến giải
hiểu sâu hơn về toàn cảnh báo chí văn nghệ giai đoạn 1930 – 1945, để giải mã
quan niệm lịch sử về văn hóa, về tiếng Việt trong thời điểm nước ta nước
Cách mạng tháng Tám. Tao Đàn sẽ được đặt trong sự so sánh, đối chiếu với
dòng chảy báo chí thời kỳ đó.
7. Đóng góp mới của đề tài
Tái hiện đầy đủ và trọn vẹn hoạt động biên tập, xuất bản, quảng bá tạp
chí Tao Đàn trong suốt năm 1939, từ số đầu tiên đến số cuối cùng (gồm 13 số
ra hàng tháng và hai số đặc biệt về Tản Đà và Vũ Trọng Phụng).
Khẳng định những đóng góp đặc sắc, có ý nghĩa của Tao Đàn trong
việc đăng tải các loại bài viết về văn học, văn nghệ, văn hóa.. góp phần đáng
kể vào việc xây dựng và phát huy nền văn hóa dân tộc Việt Nam trong giai

đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ghi nhận hai mô hình tạp chí về văn hóa – văn nghệ mà Tao Đàn thực
hiện như một sáng kiến: Tạp chí ra hàng tháng với các chuyên mục ổn định
tổng hợp về sáng tác và nghiên cứu, phê bình, dịch thuật và Tạp chí đặc biệt
chuyên đề kịp thời cập nhật về một tác giả ngay sau khi tác giả đó vừa qua đời
trong năm.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Nội dung
của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Sự ra đời và vai trò của tạp chí Tao Đàn (1939)


12

Chương 2: Tinh thần dân tộc và tính nhân văn của nền văn hóa Việt
Nam trên tạp chí Tao Đàn (1939)
Chương 3: Tạp chí Tao Đàn (1939) phát huy truyền thống văn học dân
tộc và đẩy mạnh giao lưu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam


13

Chƣơng 1
SỰ RA ĐỜI VÀ VAI TRÒ CỦA TẠP CHÍ TAO ĐÀN (1939)
Để nghiên cứu tạp chí Tao Đàn trong bối cảnh văn hoá, lịch sử trước
Cách mạng tháng Tám, luận văn triển khai một số vấn đề lý luận về tạp chí,
văn hóa, tính lịch sử của những quan điểm văn hóa dân tộc trong xã hội Việt
Nam, đồng thời phác thảo diện mạo báo chí văn hóa, văn nghệ giai đoạn
1930-1945. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn giúp chúng tôi có nền tảng
cơ bản để nghiên cứu đề tài.

1.1. Giới thuyết một vài khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm “Tạp chí”
“Tạp chí” là một thuật ngữ khoa học được sử dụng trong nhiều lĩnh
vực hoạt động báo chí. Những hướng tiếp cận không giống nhau với vấn đề
chuyên môn, chuyên ngành khác biệt đã cho ra đời số lượng định nghĩa khá
phong phú về thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tôi không đi sâu phân tích từng
định nghĩa mà chỉ hướng tới một quan niệm đáng tin cậy nhằm làm chỗ dựa
trong tiến trình nghiên cứu.
Phạm Thành Hƣng định nghĩa “Tạp chí” trong sự so sánh với báo
như sau: “Tạp chí (magazine) là loại ấn phẩm khổ nhỏ hơn báo, đóng thành
tập, có bìa, chuyển tải các loại thông tin có tính tổng hợp, chuyên sâu, xuất
bản định kỳ ở một địa điểm nhất định”. [39, tr. 20]
Nếu như định nghĩa của Phạm Thành Hưng nhấn mạnh “Tạp chí” như một
cách hiểu thông thường, thì định nghĩa sau đây lại chú ý đến sự chuyên biệt của
tạp chí. Trong cuốn Các loại hình báo chí truyền thông của tác giả Dƣơng
Xuân Sơn năm 2014, định nghĩa: “Tạp chí là diễn đàn lý luận, khoa học,
nghiệp vụ chuyên biệt. Trên thế giới và ở Việt Nam, tạp chí thường được
phân loại thành hai nhóm là “Nhóm tạp chí thông tin lý luận khoa học chuyên


14

ngành” và “Nhóm tạp chí thông tin giải trí và chỉ dẫn” [73, tr. 116 - 119].
Các tạp chí loại thông tin lý luận khoa học chuyên ngành thường do các cơ
quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội và các ngành khoa học tổ chức xuất
bản. Các tạp chí loại này chủ yếu đi sâu vào bàn bạc, trao đổi, phổ biến các
kiến thức lý luận và thực tiễn mang tính chất chuyên ngành. Độc giả của các
loại tạp chí này chủ yếu là những nhà hoạt động chính trị, nhà khoa học có
kiến thức chuyên môn, am hiểu các chuyên ngành, các lĩnh vực đặc thù. Đội
ngũ sáng tạo tác phẩm của các loại tạp chí này cũng rất đa dạng. Họ là những

chính trị gia, nhà chuyên môn, nhà khoa học có kiến thức lý luận và thực tiễn.
Do vậy, bài viết của họ thường có chiều sâu, đúng thuật ngữ, lý giải được các
vấn đề xã hội đang đặt ra. Các tác phẩm của họ thường được đánh giá ở góc
độ là sản phẩm khoa học. Các công trình khoa học khi được công bố trên các
tạp chí lý luận khoa học chuyên ngành đều có giá trị làm căn cứ để đánh giá
thành tích hoạt động khoa học của các nhà khoa học, chuyên môn.
Về nhóm Tạp chí thông tin giải trí và chỉ dẫn, chức năng chính của
nhóm tạp chí này là bàn luận, phổ biến kiến thức về các vấn đề giải trí và
thông tin tiêu dùng. Loại tạp chí này thường có nhiều độc giả. Các loại tạp
chí thuộc nhóm này thường được sử dụng nhiều hình ảnh để minh họa và
thường được đầu tư in ấn đẹp.
Từ thế kỷ XVII đã xuất hiện các tạp chí chuyên ngành với sự phát triển
của công nghệ ấn loát, thế kỷ XVIII tạp chí đã có minh họa. Sang thế kỷ XIX,
đã bắt đầu xuất hiện các tạp chí có tính đảng phái chính trị. Sự phát triển của
công nghệ mỗi thời đại đã đem lại những đặc trưng mới cho tạp chí, mở rộng
nội hàm khái niệm tạp chí: tạp chí in; tạp chí ảnh; tạp chí truyền thanh; tạp chí
truyền hình, nghe nhìn;....
Thông tin của tạp chí là thông tin có tính khái quát. Tạp chí còn khác
nhật báo ở hình thức trình bày và kỹ thuật đồ họa. Có thể phân loại tạp chí


15

theo độ tuổi độc giả (thiếu nhi, thanh niên, người cao tuổi,..), theo sở thích (ô
tô, mô tô, bóng đá, âm nhạc,...), theo giới tính (phụ nữ, đàn ông), theo chuyên
ngành khoa học cơ bản và kỹ thuật, công nghệ (toán học, hóa học, triết học,
cơ khí, thủy văn,..). Ngoài tạp chí in giấy, còn có tạp chí phát thanh – truyền
hình. Các tạp chí nghe, nhìn này thường thiết lập thông tin giao tiếp với một
số đại diện công chúng bằng điện thoại trực tiếp tới phòng quay, hoặc nhận
qua điện thoại các câu hỏi trực tiếp từ tất cả những ai đang theo dõi.

Luận văn của chúng tôi đề cập tới một loại tạp chí in ra đời ở Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Theo chúng tôi, loại tạp chí in
là một trong những ấn phẩm của báo chí in, có dung lượng từ vài chục trang
trở lên, định kỳ thường dài hơn báo, thông tin đa dạng trên nhiều chuyên mục
khác nhau. Có thể chia “tạp chí” làm 3 nhóm: Nhóm Tạp chí Chính trị xã hội
(Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Tuyên giáo,..); Nhóm học thuật chuyên môn
nghiệp vụ (thường đi sâu vào chuyên ngành sử học, văn học, toán học, vật lý,
triết học, người làm báo...); Nhóm giải trí, thông tin, chỉ dẫn (làm đẹp, ô tô,
sức khỏe). Và Tao Đàn là tạp chí in thuộc nhóm Tạp chí học thuật chuyên
môn nghiệp vụ, chuyên về văn hóa, văn học – nghệ thuật trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
1.1.2. Khái niệm “Văn hóa”
Văn hóa là một lĩnh vực liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội,
con người. Đến nay, có hơn 500 định nghĩa khác nhau về văn hóa, điều này
cho thấy văn hóa là một phạm trù rộng lớn, trừu tượng và không dễ nắm bắt.
Tuy nhiên, mỗi trường phái nghiên cứu, mỗi nhà nghiên cứu đều có quan
điểm khác nhau. Về cơ bản có hai loại chính: định nghĩa miêu tả, liệt kê và
định nghĩa nêu đặc trưng.
Định nghĩa miêu tả liệt kê các thành tố của văn hóa. Người đầu tiên
nêu định nghĩa thuộc loại này là Edward Burnett Tylor– nhà dân tộc học,


16

nhân chủng học người Anh. Năm 1871, trong tác phẩm Primitive Culture
(Văn hóa nguyên thủy), ông đã đưa ra định nghĩa : “văn hóa là phức thể bao
gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi
khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đạt
được”. [6, tr. 13]. Định nghĩa của nhà nhân học văn hóa người Anh này là
định nghĩa khoa học về văn hóa ra đời sớm nhất ở Châu Âu. Với định nghĩa

đưa ra, E.B.Tylor đã xác định khá đúng đắn về bản chất, đặc trưng và nguồn
gốc của văn hóa. Tuy nhiên, ông mới giới hạn văn hóa ở lĩnh vực tinh thần
hay là văn hoá phi vật thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định văn hóa là một mặt căn bản của xã
hội. Người chỉ rõ, công cuộc kiến thiết nhà nước có bốn vấn đề phải chú ý
đến và phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Văn hóa
là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người mới, xã hội mới.
Khái niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh viết năm 1943 trong phần cuối của
cuốn Nhật ký trong tù cũng thuộc dạng miêu tả liệt kê. Điểm khác là ở đây,
Hồ Chí Minh nói rõ hơn mục đích của sáng tạo văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.” [47, tr. 431].
Loại định nghĩa nêu đặc trưng coi văn hóa là những kết quả đạt được
gồm những giá trị, những truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết
chế xã hội, biểu tượng, kí hiệu, thông tin.. mà cộng đồng người kế thừa, sáng
tạo và tích lũy được. Trong dịp phát động Thập kỷ bảo tồn và phát triển văn


17

hóa, Federico Mayor (cựu Tổng Giám đốc UNESCO giai đoạn từ 1987 đến
1999) đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động
sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo
ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống, và các thị
hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.” [30, tr. 178].

Xuất phát từ vai trò lãnh đạo của một tổ chức lớn nhất toàn cầu liên quan đến
các vấn đề văn hóa, Mayor đã khái quát bản chất của văn hóa, khi mà văn
hóa cấu thành nên một hệ thống các giá trị mà dựa trên đó từng dân tộc đã tự
khẳng định bản sắc riêng của mình. Văn hóa là thuộc tính bản chất của con
người (xã hội). Định nghĩa về văn hóa của UNESCO trở thành cơ sở lý luận
rất quan trọng để chúng ta xác định vai trò quan trọng của văn hóa trong phát
triển nói chung.
Ở góc độ khác, tác giả Join đưa ra khái niệm về văn hóa từ quan điểm
nhà xã hội học. Văn hóa có thể định nghĩa là “niềm tin, giá trị, hành vi và đối
tượng vật chất được một dân tộc cụ thể chia sẻ.” [27, tr. 81]
Nói đến văn hóa là hàm chỉ toàn bộ nền văn hóa của một xã hội, bao
gồm một hệ thống các phong tục, tập quán, nghi lễ, tập tục, truyền thống,.. đã
được tạo dựng trong quá khứ và đang được bảo lưu truyền tải từ thế hệ này
đến thế hệ khác cho đến tận hôm nay.
Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam cho rằng “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [59, tr. 10]. Nhà nghiên
cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm nêu hai giá trị của văn hóa vật thể và phi vật
thể được hình thành và phát triển thông qua mối quan hệ nhân sinh quan, thế
giới quan của con người trong quá trình phát triển nhân loại. Văn hóa là hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích


×