Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Văn hóa đảm bảo đời sống của người nùng cháo (trường hợp thôn nà lầu, xã tân thanh, huyện văn lãng, tỉnh lạng sơn)” tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.67 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI
NÙNG CHÁO (TRƯỜNG HỢP THÔN NÀ LẦU, XÃ
TÂN THANH, HUYỆN VĂN LÃNG,
TỈNH LẠNG SƠN)

Ngành: Văn hóa học
Mã số: 9 22 90 40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2019


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. HOÀNG CẦM
2. TS. ĐỖ LAN PHƯƠNG

Phản biện 1: PGS.TS. Trần Đức Ngôn
Phản biện 2: PGS.TS. Bùi Quang Thanh
Phản biện 3: TS. Vi Văn An

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại: Học viện khoa học xã hội
Vào hồi…..giờ….., ngày………tháng……….năm………


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Học viện khoa học xã hội
Thư viện Quốc gia Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những chuyến khảo sát thực tế để tìm đề tài cho luận án của
mình về văn hóa ở vùng biên Lạng Sơn sau Đổi mới (1986), một chủ đề đã
từng được phản ánh trong một số công trình gần đây về những thay đổi văn
hóa - xã hội và kinh tế nơi này trong sự thay đổi chung của Việt Nam. Một
số người cho rằng, những thay đổi kinh tế và văn hóa nơi đây theo chiến
lược phát triển vùng biên của nhà nước đã đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn
cho người dân. Thực tế diễn ra quá trình này đã thu hút tôi tới thôn Nà Lầu
(Tân Thanh, Văn Lãng, Lạng Sơn)-nơi vừa trải qua những năm tháng quy
hoạch mở rộng vùng thương mại cửa khẩu phía Bắc Việt Nam. Tôi gặp gỡ
và trò chuyện với những người Nùng Cháo ở đây, quan sát cuộc sống của
họ trong những dãy nhà tại các con phố ở khu buôn bán hay dọc theo tuyến
đường giao thương ở Tân Thanh. Rất khó có thể nhận ra họ đã từng là
những người “chân lấm, tay bùn, một nắng hai sương” trên những thửa
ruộng hay mảnh nương sườn đồi, nay đã thành những “thị dân”. Có lẽ, quá
trình thay đổi này đã không đơn giản khi tôi được nghe tâm sự của bà Xéo,
người phụ nữ hơn 60 tuổi có cửa hàng buôn bán ở khu chợ Tân Thanh,
rằng: “Bây giờ thì đỡ hơn nhiều rồi nhưng cũng không phải như mọi người
nghĩ là ngày ngày chỉ cần mở cửa ra là đã có tiền, không còn lo làm ruộng
không đủ ăn,... bán hàng lo lỗ vốn, đi vác hàng bị mệt, bị bắt...”. Bà kể,
trước kia kinh tế của gia đình chủ yếu là từ làm ruộng, làm vườn, thu hoạch
chỉ đủ ăn, không có dư thừa. Sau khi chuyển đổi, bà và các con đã làm rất
nhiều nghề: từ làm ruộng, buôn bán nhỏ cho đến làm “cửu vạn” (vác hàng).
Trong quá trình mưu sinh đó, nhà bà luôn có sự tương trợ giúp đỡ của họ

1


hàng, xóm giềng, song bản thân bà và gia đình cũng có những toan tính để
có một cuộc sống ổn định như hiện nay. Không chỉ có nhà bà mà hầu hết
những người Nùng Cháo sống tại thôn Nà Lầu sau khi đất nông nghiệp của
họ bị chuyển đổi đều phải trải qua những giai đoạn tìm kiếm các cách thức
mưu sinh không dễ dàng như vậy.
Là một thôn nằm giáp với biên giới Việt - Trung của tỉnh Lạng Sơn
và nằm trong khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh, sinh kế cổ truyền của người
Nùng Cháo ở Nà Lầu, về cơ bản là nền “kinh tế trọng tình” (moral
economy), sống dựa trên sự tương trợ, giúp đỡ nhau, tính cố kết cộng đồng
cao, lối sống thiên về yếu tố tình cảm. Trước những năm 1990, nền kinh tế
của họ chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, làm nương rẫy kết hợp với
chăn nuôi và buôn bán nhỏ tại các chợ Na Sầm (huyện Văn Lãng), Đồng
Đăng (huyện Cao Lộc), bên cạnh đó còn thực hiện buôn bán, trao đổi hàng
hóa với người dân ở thôn Pò Chài (Trung Quốc). Khi quan hệ hai nước Việt
- Trung trở nên căng thẳng do cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, hoạt
động buôn bán giữa người dân Nà Lầu (Việt Nam) với người dân Pò Chài
(Trung Quốc) bị nghiêm cấm. Từ năm 1991 trở đi, quan hệ song phương
Việt - Trung chuyển sang thời kỳ mới, chấm dứt cơ bản những căng thẳng,
tạo ra sự bình ổn cho cuộc sống người dân. Năm 1992, khu Kinh tế cửa
khẩu Tân Thanh được xây dựng trên địa bàn thôn Nà Lầu thì nơi đây đã trở
thành nơi giao lưu, trao đổi và mua bán hàng hóa giữa hai nước Việt Nam
và Trung Quốc, nhiều hoạt động thương mại diễn ra rất sôi động. Tác động
của việc xây mới và mở rộng vùng cửa khẩu đã dẫn đến việc toàn bộ người
Nùng Cháo ở Nà Lầu mất đất canh tác nông nghiệp vốn là nguồn tài nguyên
chính đã gắn bó với kinh tế nông nghiệp lâu đời của họ. Hiện nay, các hoạt
động sinh kế truyền thống này đã có nhiều thay đổi so với trước kia, đó là
2



sự đa dạng các phương thức mưu sinh. Kinh tế của người dân Nà Lầu
không còn được xem là “thuần nông” trong tổng thể những thay đổi về văn
hóa bảo đảm đời sống ở đây. Nếu như, trong quá khứ họ phải tương trợ lẫn
nhau để sống, và văn hóa sinh kế của họ vận dụng theo các nguyên lý của
một nền kinh tế duy tình, thì trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế của đất nước
tuy tạo ra cho họ những cơ hội mới nhưng cũng nhiều gian nan, thử thách.
Họ đã xoay sở để tìm kiếm những phương thức mưu sinh phù hợp, có
những ứng xử để có thể đảm bảo được cuộc sống, song cũng không mất đi
những cơ sở đạo lý mà trong quá khứ họ đã tạo dựng được, đồng thời phải
thích ứng với hoạt động sinh kế trong bối cảnh mới. Vậy, họ đã làm như thế
nào để có thể kết hợp giữa các cơ sở của nền kinh tế trọng tình trước đây
với các tính toán kinh tế mang tính duy lý trong cơ chế thị trường hiện nay?
Để nghiên cứu sâu hơn vấn đề này, tôi chọn đề tài “Văn hóa đảm bảo đời
sống của người Nùng Cháo (trường hợp thôn Nà Lầu, xã Tân Thanh,
huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)” làm đề tài luận án Tiến sỹ Văn hóa học
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
- Thông qua nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống, trong đó tập
trung chính vào các khía cạnh liên quan đến văn hóa sinh kế, luận án hướng
tới cung cấp một nghiên cứu trường hợp về sự thay đổi trong mô hình sinh
kế và những ứng xử văn hóa đi cùng của người nông dân Việt Nam trong xã
hội đương đại, một chủ đề đã và đang nhận được sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học xã hội ở Việt Nam và trên thế giới.
Nhiệm vụ nghiên cứu

3



- Khái quát tình hình nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống nói
chung và văn hóa của tộc người Nùng Cháo ở xã Tân Thanh, huyện Văn
Lãng, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
- Làm rõ các hoạt động sinh kế của người Nùng Cháo trong quá
khứ để nhận thấy vai trò cơ bản của canh tác nông nghiệp trên nền tảng
trọng tình của cư dân nơi đây trong suốt chiều dài lịch sử.
- Làm rõ các hoạt động sinh kế của người Nùng Cháo hiện nay để
nhìn ra sự đa dạng, phong phú, các chiều cạnh chuyển đổi và lựa chọn sinh
kế trên cơ sở duy lý có sự đan xen với trọng tình của người dân trong bối
cảnh phát triển kinh tế và dịch vụ tại khu vực cửa khẩu.
- Thảo luận về sự kết hợp trọng tình – duy lý trong tư duy và thực
hành của người dân về sinh kế trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay.
Những vấn đề liên quan đến biến đổi văn hóa – xã hội, nguồn lực lao động,
việc làm, và những thách thức trong thực hành sinh kế của người Nùng
Cháo
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu:
Trọng tâm nghiên cứu của luận án là hoạt động sinh kế của người
Nùng Cháo ở thôn Nà Lầu (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)
trong quá khứ và trong bối cảnh chuyển đổi hiện nay ở vùng biên giới Lạng
Sơn.
Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa đảm bảo đời sống là khái niệm có nội hàm rộng, bao gồm
ăn, mặc, ở, đi lại và hoạt động mưu sinh. Trong khuân khổ của luận án này,
chúng tôi chỉ lựa chọn nghiên cứu và phân tích một trong các thành tố quan
trọng nhất của văn hóa đảm bảo đời sống là hoạt động sinh kế của người
4



Nùng Cháo cùng các ứng xử văn hóa đi kèm tại thôn Nà Lầu (Tân Thanh,
Văn Lãng, Lạng Sơn) từ trước năm 1986, và sau thời kỳ đổi mới được tính
từ năm 1986 trở lại đây.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính để thu thập thông tin, các dữ liệu, cứ liệu
phục vụ đề tài. Phương pháp nghiên cứu này cung cấp thông tin về các tiến
trình, động thái, các hành vi kinh tế và các mối quan hệ văn hóa - xã hội của
người Nùng Cháo ở Nà Lầu. Nguồn tư liệu chính của luận án là kết quả thu
thập thông tin từ quá trình khảo sát điền dã được Nghiên cứu sinh thực hiện
tại thôn Nà Lầu (Tân Thanh, Văn Lãng, Lạng Sơn). Cụ thể, từ tháng 1 năm
2016 đến tháng 9 năm 2017 tác giả đã tiến hành nhiều chuyến đi điền dã tại
địa bàn nghiên cứu, thực hiện được gần 30 cuộc phỏng vấn sâu, tiến hành
thảo luận nhóm với người dân và một số cán bộ lãnh đạo địa phương. Chủ
đề của các phỏng vấn, thảo luận nhóm tập trung xoay quanh các vấn đề về
chuyển đổi sinh kế và sự thích ứng trong các loại sinh kế mới, các chính
sách liên quan đến môi trường sinh kế của người dân, mạng lưới xã hội, tập
quán và các sinh hoạt văn hóa, quan hệ cộng đồng.
Các cuộc phỏng vấn được thực hiện chủ yếu bằng tiếng phổ thông,
được ghi âm, ghi chép lại với sự đồng ý của những người cung cấp tin.
Toàn bộ tư liệu từ phỏng vấn, ghi chép đều được phục vụ để phân tích, tên
của thông tín viên được mã hóa để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.
Bên cạnh phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, nghiên cứu sinh cũng
tham gia vào các hoạt động văn hóa của người dân, các đám tiệc, nghi lễ gia
đình và cộng đồng, tham dự các cuộc hội họp tại địa phương để tìm hiểu
thêm các bối cảnh, khơi gợi các vấn đề cho những cuộc phỏng vấn sâu.
5


Kết hợp với nguồn tư liệu thực địa là tư liệu thứ cấp được tập hợp

và hệ thống từ các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước đã công bố có liên quan tới đề tài. Nghiên cứu sinh cũng tiến hành thu
thập và phân tích các bài báo, tạp chí và các tài liệu có liên quan để có
những thông tin cơ bản về đặc điểm kinh tế, xã hội và bức tranh toàn cảnh
về các loại hình sinh kế mới ở Nà Lầu nói riêng và những thay đổi sinh kế
vùng cửa khẩu Lạng Sơn nói chung. Kèm theo đó là các văn bản, tài liệu,
báo cáo, số liệu thống kê của chính quyền và các ban ngành ở địa phương.
Những ý kiến trao đổi với các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Là luận án đầu tiên nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống của
một tộc người cụ thể, ở một địa bàn mang tính đặc thù là vùng giáp biên
giới Việt – Trung trước những biến đổi về kinh tế - xã hội của giai đoạn
hiện nay, nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn, đây là một hướng nghiên
cứu mới trong ngành văn hóa.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp một nghiên cứu trường
hợp cho bức tranh nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống của người nông
dân trong xã hội đương đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về ý nghĩa lý luận: Luận án góp thêm một nghiên cứu trường hợp
về văn hóa đảm bảo đời sống qua chiến lược sinh kế của người nông dân
trong bối cảnh chuyển đổi, so sánh với các ý kiến đã được thảo luận trong
các các công trình nghiên cứu đi trước ở Việt Nam và Đông Nam Á; cung
cấp dữ liệu cụ thể ở cấp vi mô nhằm bổ sung vào những lý thuyết về sự
thích nghi, sự chủ động về sinh kế của người nông dân ở vùng biên giới.

6


Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là nguồn tư
liệu quan trọng, cơ sở thực tiễn để các nhà hoạch định chính sách tham

khảo, vận dụng vào thiết kế, xây dựng các chương trình và chính sách phát
triển sinh kế bền vững ở vùng các tộc người thiểu số Lạng Sơn nói riêng và
ở miền núi Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các công trình của tác giả, phụ lục, luận án bao gồm 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và
địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo ở
Nà Lầu trong xã hội cổ truyền
Chương 3: Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo ở
Nà Lầu trong bối cảnh chuyển đổi hiện nay
Chương 4: Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo ở
Nà Lầu:Thay đổi và thích ứng

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Khái quát những nghiên cứu về người Nùng
1.1.2. Nghiên cứu về sinh kế của người nông dân trong các bối cảnh
chuyển đổi
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số khái niệm liên quan
1.2.2. Cơ sở lý luận
Trong các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề liên quan đến
văn hóa đảm bảo đời sống, các chiến lược thích ứng với sự đa dạng sinh kế

của người nông dân ở những vùng nông thôn trong các bối cảnh khác nhau
đã cho thấy, ở trong mỗi một hoàn cảnh người dân luôn tìm cách để đảm
bảo an ninh sinh tồn, thích ứng để phù hợp với hoàn cảnh mới. Có hai xu
hướng nghiên cứu chính nổi lên:
Hướng thứ nhất cho rằng: người nông dân luôn sống dựa trên
những cơ sở của nền kinh tế trọng tình. Một trong những học giả có ảnh
hưởng đến lĩnh vực nghiên cứu này là nhà nhân học, chính trị học Jame
Scott. Trong công trình nghiên cứu được coi là kinh điển “The moral
economy of the Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia”
(Kinh tế trọng tình của nông dân: nổi loạn và tự cấp tự túc ở Đông Nam Á)
đã chỉ ra đặc trưng của nền kinh tế cổ truyền của người nông dân Đông
Nam Á: sinh kế truyền thống của họ, dù ở đồng bằng hay miền núi, canh tác
nương rẫy hay ruộng nước, đều chia sẻ một nền kinh tế trọng tình và bị chi
8


phối bởi cái mà Jame Scott gọi là “đạo lý tự cấp tự túc” (subsistant ethic)
theo nguyên tắc “an toàn là trên hết”.
Hướng nghiên cứu thứ hai cho rằng: người nông dân luôn duy lý trong
sinh kế, với nghiên cứu Samuel Popkin (1979) có quan điểm đối lập với
Jame Scott (1976) được trình bày ở trên. Trong công trình nghiên cứu “The
Rational Peasant” (Người nông dân duy lý), với cách tiếp cận “political
economy” (kinh tế chính trị), người nông dân Việt Nam được xem là những
người luôn sẵn sàng nắm bắt cơ hội, chấp nhận rủi ro để gia tăng mức sinh
tồn.
Ngoài những nghiên cứu về người nông dân theo hướng trọng tình,
duy lý thì cũng có những nghiên cứu chỉ ra không chỉ đơn thuần xem xét về
người nông dân trên hai yếu tố này, mà còn có một khía cạnh khác, đó là sự
kết hợp đan xen của cả yếu tố trọng tình và duy lý, như nghiên cứu của
Keyes (1983) về người nông dân Đông Bắc Thái Lan, hay nghiên cứu của

Ngô Thị Phương Lan (2014) về người nông dân nuôi tôm ở đồng bằng sông
Cửu Long đã được trình bày phía trên,...
Do vậy, cơ sở lý luận để nghiên cứu cho mỗi một trường hợp có
những nét tương đồng song cũng có những sự khác biệt. Với trường hợp
nghiên cứu về “Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo (trường
hợp thôn Nà Lầu, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)” ở
phạm vi một luận án Tiến sỹ, chúng tôi xác định cơ sở lý luận dựa trên
nghiên cứu và phân tích các luận điểm, các cách tiếp cận khác nhau về sinh
kế đã được thảo luận xung quanh quan điểm về kinh tế của người nông dân
dựa trên nền tảng của nền kinh tế trọng tình, đồng thời chứng minh có sự
kết hợp đan xen với nền kinh tế duy lý. Theo đó, nội dung luận án là những
phân tích và bàn luận về sinh kế của người Nùng Cháo ở Nà Lầu trong bối
9


cảnh chuyển đổi, sự chủ động, thích ứng của họ trong các phương thức mưu
sinh mới.
1.3. Thôn Nà Lầu (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)
1.3.1. Quá trình hình thành và vài nét về dân cư, kinh tế- xã hội
Thôn Nà Lầu tiếp giáp với thôn Nà Han ở phía Bắc, và thôn Bản
Thẩu ở phía Nam, cách trung tâm xã Tân Thanh 0,5km, cách trung tâm
huyện Văn Lãng 15km và cách trung tâm thành phố Lạng Sơn 30km. Đây
là thôn thuộc khu vực vùng biên, có đường tiếp giáp với biên giới Trung
Quốc gần 4km. Vị trí của thôn nằm dựa ngay chân núi, phía trước là các bãi
nương, ruộng để trồng trọt.
1.3.2. Một số đặc điểm văn hóa
Tiểu kết
Thông qua tổng quan các công trình nghiên cứu đi trước về người
Nùng và sinh kế của người nông dân, có thể thấy các nghiên cứu về người
Nùng trước đây đều chỉ dừng lại ở việc mô tả các hoạt động sinh kế truyền

thống hoặc sự thay đổi sinh kế nhưng chưa đi sâu phân tích cơ sở văn hóaxã hội bên trong hoạt động đó. Thực tế cho thấy, với nhiều nguyên nhân
khác nhau dẫn đến việc người nông dân phải chuyển đổi sinh kế, họ đã luôn
có những sự thích ứng với bối cảnh mới.

10


Chương 2
VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG CHÁO
Ở NÀ LẦU TRONG XÃ HỘI CỔ TRUYỀN
Để đảm bảo sinh kế trong xã hội cổ truyền, người Nùng Cháo ở Nà
Lầu cũng như những dân tộc thiểu số khác sinh sống chủ yếu nhờ vào nông
nghiệp, canh tác lúa nước và nương rẫy, họ đều xây dựng cho mình một cơ
chế tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, điều này đã được Jame Scott (1976) chứng
minh: sinh kế truyền thống của người nông dân vùng Đông Nam Á, cho dù
là cư dân đồng bằng hay miền núi, bất luận của cư dân canh tác nương rẫy
hay ruộng nước, đều chia sẻ một nền kinh tế trọng tình (moral economy), bị
chi phối bởi “đạo lý tự cấp tự túc” (subsistant ethic), với các dàn xếp văn
hóa- xã hội và kỹ thuật đi kèm. Theo Jame Scott, các dàn xếp văn hóa- xã
hội là các mô hình tương hỗ, vần công-đổi công, hệ thống bảo trợ, sở hữu
cộng đồng, hệ thống tôn giáo tín ngưỡng. Các dàn xếp kỹ thuật bao gồm:
cách thức quản lý sự đa dạng về giống truyền thống của người địa phương,
các kỹ thuật canh tác... Nội dung chương này sẽ không đi sâu vào những
mô tả chi tiết về các hoạt động kinh tế truyền thống của người Nùng, một
vấn đề đã được các nhà nghiên cứu đi trước nói đến trong công trình của họ.
Thay vào đó là việc tập trung phân tích các dàn xếp văn hóa-xã hội, kỹ
thuật truyền thống được người Nùng Cháo ở Nà Lầu xây dựng và thực hành
trong suốt quá trình lịch sử định cư, đồng thời xem xét vai trò, chức năng
của chúng đối với sự phát triển bền vững của người Nùng tại Nà Lầu.
2.1. Tập tục cộng đồng trong sở hữu và sử dụng tài nguyên

2.1.1. Sở hữu tài nguyên chung
2.1.2. Sở hữu ruộng nương
11


2.2. Sản xuất nông nghiệp với các dàn xếp văn hóa – xã hội và kỹ thuật
2.2.1. Tương trợ và chia sẻ (Tò chòi, Tò păm)
2.2.2. Canh tác lúa nước (Nà nặm)
2.2.3. Canh tác nương rẫy (Hắt slầy)
2.2.4. Các thực hành tín ngưỡng cho sản xuất nông nghiệp
2.3. Các hoạt động buôn bán, trao đổi
2.3.1. Tại chợ phiên vùng biên nội địa
2.3.2. Buôn bán xuyên biên giới
Hoạt động buôn bán, trao đổi của những người phụ nữ trong thôn
Nà Lầu không chỉ được diễn ra tại các phiên chợ của các chợ Na Sầm
(huyện Văn Lãng, chợ Đồng Đăng (thuộc huyện Cao Lộc ngày nay) mà còn
được diễn ra ở bên kia biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Khi giải
thích về lịch sử tộc người, các kết quả nghiên cứu đi trước cho biết, người
Nùng cháo ở đây là đến từ Long Châu (Sùng Tả, Trung Quốc) nên tiếng nói
và tập quán văn hóa của họ không có nhiều khác biệt với người Choang bên
Trung Quốc. Do vậy, người Nùng Cháo ở Nà Lầu cũng dễ dàng trong giao
tiếp, có thể thực hiện việc buôn bán với những cư dân bên kia bên giới và
đường đến chợ lại gần hơn so với chợ trong nội địa nên họ thường xuyên đi
chợ Ái Hẩu- một chợ của Bằng Tường (Trung Quốc) cách Nà Lầu 5 km.
Ngoài ra, các nghiên cứu về sinh kế của người dân vùng biên ở những nơi
khác nhau đều đi đến một nhận định: chính sự ít khác biệt về ngôn ngữ, văn
hóa của những người dân sống ở vùng giáp gianh giữa các nước có chung
đường biên giới là một trong những điều kiện để người dân hai bên tiến
hành những cuộc trao đổi và buôn bán nhỏ, lẻ. Họ có thể dễ dàng thực hiện
việc bán, tiêu thụ các nông sản, hoặc cung cấp những dịch vụ nhỏ, đảm bảo


12


cho các nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Điều này cũng được diễn ra đối với
những người dân tại Nà Lầu.
Tiểu kết
Do lịch sử định cư muộn, khi di cư vào Việt Nam đã không còn
những vùng đất thuận lợi, màu mỡ để cho người Nùng ở Nà Lầu canh tác
nông nghiệp nên họ đã phải luôn tìm cách để thích ứng với môi trường tự
nhiên ở nơi định cư mới, tìm mọi phương thức mưu sinh phù hợp nhằm
đảm bảo cuộc sống không bị thiếu đói, từ đó xây dựng nên các “dàn xếp”
văn hóa - xã hội, trở thành những tập quán văn hóa tồn tại hàng trăm năm
nay.
Trong sinh kế cổ truyền của người Nùng ở Nà Lầu, canh tác lúa
nước là ngành kinh tế chính, bên cạnh đó việc gieo trồng trên nương rẫy
cũng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của họ. Để hoạt động sinh
kế đạt hiệu quả, họ đã tìm ra các kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện đất
đai và khí hậu, sử dụng đa dạng các loại giống lúa, thực hiện kỹ thuật đa
canh, xen canh để tận dụng tối đa đất trồng. Cùng với hệ thống kinh nghiệm
và tri thức được tích lũy thông qua quá trình tương tác lâu dài với hệ sinh
thái tự nhiên, những công cụ lao động phù hợp đã được sáng tạo ra để phục
vụ cho nhu cầu sản xuất. Song song với sự sáng tạo trong canh tác nông
nghiệp, họ còn tiến hành các hoạt động tương trợ, giúp đỡ nhau trong sản
xuất qua hình thức vần công- đổi công, tập quán cùng nhau chia sẻ nguồn
lương thực để cùng tồn tại. Những điều này được thực hiện một cách tình
nguyện trên cơ sở có đi có lại. Bên cạnh đó, các hình thức tín ngưỡng liên
quan đến nông nghiệp diễn ra quanh năm như một phần của việc đảm bảo
đời sống. Trong các hoạt động này, những người Nà Lầu luôn chú trọng yếu
tố tình cảm hơn giá trị vật chất. Chính những điều này đã khiến cho họ có

13


thể đảm bảo được cuộc sống dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, tăng sự gắn
kết giữa các thành viên trong cùng cộng đồng.
Chương 3
VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG
CỦA NGƯỜI NÙNG CHÁO Ở NÀ LẦU HIỆN NAY
3.1. Bối cảnh chuyển đổi
3.1.1. Định hướng của nhà nước về phát triển kinh tế vùng biên
Sau khi tiến hành bình thường hóa quan hệ, biên mậu Việt - Trung
được phục hồi, phát triển, các cửa khẩu đóng vai trò quan trọng trong các
chiến lược phát triển kinh tế, đối ngoại, nhân dân hai nước có thể buôn bán,
trao đổi với nhau. Do vậy, việc mở cửa biên giới là một nguyên nhân đặc
biệt quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế của đất nước cũng như
sinh kế của người dân thôn Nà Lầu.
3.1.2. Xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh
3.1.3. Thu hẹp đất nông nghiệp
3.2. Quá trình chuyển đổi kinh tế nông- thương nghiệp
3.2.1. Cơ cấu nông nghiệp bị phá vỡ và chiến lược sinh kế mới
Trong những năm 1996 - 2002 ở Nà Lầu, quá trình xây dựng khu
kinh tế cửa khẩu đã làm chuyển đổi mạnh mẽ sinh kế của các hộ gia đình
nông dân. Trong xã hội truyền thống, các gia đình trong thôn luôn tương
trợ, giúp đỡ nhau bằng các hình thức vần công, đổi công để đảm bảo cho
mùa màng được thu hoạch đúng lúc, cùng chia sẻ với nhau các công việc
trong đời sống hàng ngày. Sau khi bị thu hồi quyền sử dụng đất nông
nghiệp, hầu hết người dân Nà Lầu còn lại rất ít đất gieo trồng. Để tiếp tục
canh tác nông nghiệp, họ đã đi mua ruộng ở các thôn lân cận để tiến hành
trồng lúa, xong họ làm chỉ vừa đủ ăn chứ không có dư thừa để bán. Đất
14



canh tác lúa bị thu hẹp cũng làm cho trâu cày ở các gia đình thiếu nguồn
thức ăn vì không còn các bãi chăn thả. Sinh kế truyền thống bị khủng
hoảng, họ đối phó bằng cách tìm vốn để chuyển hướng làm ăn, “con trâu là
đầu cơ nghiệp” của sinh kế nông nghiệp dường như cũng được xem là
nguồn vốn bước đầu của sinh kế mới vào lúc này. Các gia đình lần lượt bán
trâu đi như một nhu cầu cấp thiết, đến năm 2001 số trâu trong thôn đã bán
hết. Để có thể cày, bừa số ruộng ít ỏi còn lại, các gia đình đã mượn trâu của
họ hàng ở các thôn lân cận. Đến năm 2003, số hộ gia đình làm ruộng trong
thôn còn lại rất ít, đa phần đã chuyển sang làm các công việc khác. Từ một
năm gieo trồng hai vụ giờ chỉ còn vụ đông - xuân. Đất canh tác bị thu hẹp,
việc gieo trồng không được đầu tư nhiều công sức tất yếu kéo theo việc đa
canh, xen canh cũng không được thực hiện, cơ cấu nông nghiệp đã thực sự
bị phá vỡ.
3.2.2. Kinh doanh tại chợ vùng biên và tác động của những yếu tố chính
trị, văn hóa- xã hội
3.3. Phương thức mưu sinh mới với cơ sở của nền kinh tế trọng tình
3.3.1. Đa dạng hình thức làm thuê
“Làm cửu vạn”
Sau khi tiến hành kinh doanh tại các chợ cửa khẩu không đem lại
hiệu quả kinh tế như mong muốn, người dân Nà Lầu lại tiếp tục tìm cho
mình những công việc khác phù hợp hơn với hoàn cảnh của họ, trong đó có
các hình thức lao động làm thuê. Đây là hiện tượng phổ biến diễn ra ở khắp
nơi khi có sự chuyển đổi môi trường sinh kế. Có thể thấy, người dân Nà
Lầu đã khai thác triệt để nguồn nhân lực cho các hoạt động sinh kế khi điều
kiện sống thay đổi và sự an sinh chưa được bảo đảm. Việc xây dựng, mở
rộng cửa khẩu trên đất của thôn Nà Lầu nhằm có những thay đổi để nâng
15



cao đời sống vật chất người dân nhưng vị trí vùng biên của khu vực thương
mại Tân Thanh đã ảnh hưởng tới việc tìm sinh kế mới của người dân ở Nà
Lầu, “cửu vạn” hay mang vác hàng qua các lối mòn, đường rừng đã thành
nghề đem lại nguồn thu nhập chính cho họ.
Bán hàng thuê và những việc làm thuê khác
Khi các khu chợ, bãi xe được xây dựng nhiều lên thì trong thôn Nà
Lầu cũng xuất hiện thêm các nghề khác như: thanh niên nam giới thì đi làm
bảo vệ tại các chợ, bãi xe... Đối với những gia đình không có người làm cửu
vạn nữa, họ xoay sang cách làm ăn khác: bán hàng tạp hóa, bán quán nước,
cho thuê nhà, thuê phòng trọ, hoặc kiếm tiền từ nguồn thu phí nương, góp
phần đa dạng sinh kế của người dân trong thôn. Bên cạnh đó, còn có một bộ
phận nhỏ người dân trong thôn đi bán hàng thuê.
Cho thuê nhà
Trong thời gian từ năm 2002 đến 2005, các hộ gia đình ở trong thôn
Nà Lầu đều lần lượt chuyển ra làm nhà ở tại các khu phố dọc theo các
đường trục chính gần khu vực cửa khẩu Tân Thanh, để thuận lợi cho việc
làm ăn trong bối cảnh mới với sự phát triển của hoạt động thương mại. Đối
với những gia đình có đất được phân ở mặt đường chính, họ xây nhà hai
tầng, tầng trên để ở, tầng dưới cho thuê, tiền thuê mỗi tháng từ 2-4 triệu
đồng/tháng, tùy thuộc vào diện tích. Những gia đình còn nhiều đất do chưa
bị thu hồi hết và ở gần với các trục đường chính, họ đã xây nhà trọ để cho
những người dân từ các nơi đổ về Tân Thanh thuê sinh sống. Bên cạnh đó,
những ngôi nhà cũ trong làng còn giữ lại được của một số gia đình khi
chuyển ra phố, họ cho dân cửu vạn là người nơi khác đến thuê ở, giá từ 500
nghìn đồng/ tháng trở lên.
3.3.2. Chia sẻ và liên kết trong lao động
16



Mặc dù có những thay đổi trong sinh kế, chịu ảnh hưởng của cơ chế
thị trường, nhưng truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau vẫn còn tồn tại giữa
những người dân trong thôn Nà Lầu.
Trong xã hội cổ truyền ở Nà Lầu người Nùng luôn sống chan hòa
và tương trợ nhau trong nhiều hoạt động sản xuất cũng như sinh hoạt hàng
ngày và quan niệm “đói cùng đói, no cùng no” chi phối suy nghĩ khiến họ
luôn đoàn kết và giúp đỡ nhau. Hiện nay, để mưu sinh trong bối cảnh
chuyển đổi, những người Nà Lầu vẫn duy trì lối sống đoàn kết, tương trợ
nhau.
3.3.3. Tận dụng lợi thế của dân bản địa để gia tăng nhân tố tình cảm
trong thực hành nghề mới
Tiểu kết
Khi môi trường sinh kế truyền thống bị thay đổi bởi những biến
động của quá trình đổi mới phát triển đất nước, tác động của việc mở của
biên giới thông thương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, việc xây
dựng khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh, đất canh tác bị thu hồi đã dẫn đến
những chuyển đổi trong phương thức mưu sinh của những người dân Nà
Lầu. Cơ cấu nghề nông ở Nà Lầu bị phá vỡ: thay đổi trong sản xuất mùa vụ,
phương thức canh tác. Trong quá trình chuyển đổi sinh kế đó đã xuất hiện
yếu tố duy lý trong kinh tế, họ nhận thấy có những cơ hội để thay đổi cuộc
sống nên đã tính toán để phù hợp với bối cảnh sống. Một trong những hoạt
động đầu tiên khi chuyển đổi sinh kế là tiến hành kinh doanh, buôn bán nhỏ
tại chợ cửa khẩu Tân Thanh. Song, nguồn gốc nông dân thiếu kinh nghiệm
trong cạnh tranh theo kinh doanh thị trường, hoạt động kinh doanh tại chợ
của khẩu chưa đem lại hiệu quả như họ mong muốn lúc ban đầu khiến họ
lại phải tiếp tục toan tính để tìm cách thích ứng với hoàn cảnh mới. Họ đã
17


thực hiện đa dạng sinh kế bằng nhiều cách: làm cửu vạn, làm thuê, kết hợp

cho thuê nhà khi chuyển đổi nơi sống để thích ứng với hoàn cảnh mới. Ở
trong quá trình đó những triết lý của các dàn xếp xã hội: sự tương hỗ, tương
trợ được duy trì và bổ sung thêm bằng quan điểm “dựa vào nhau mà sống”,
“cùng nhau làm, cùng nhau ăn”, đoàn kết chặt chẽ với nhau. Họ đã biết tận
dụng ưu thế của những người dân vùng giáp biên, với “xin” và trông chờ
vào lòng thương của những lực lượng chức năng để mưu sinh, tận dụng bản
sắc văn hóa tộc người để gia tăng nhân tố tình cảm trong giao tiếp sinh kế,
có thể hàng từ Trung Quốc vào Việt Nam và ngược lại. Nguồn sinh kế bổ
sung còn là các hoạt động dịch vụ như mở các quán nước, các cửa hàng tạp
hóa, tiền thu phí đường đi lại trên nương, bán hàng thuê.. Bằng sự chủ động
của mình, người Nùng Cháo ở Nà Lầu đã làm tất cả những gì có thể làm để
bảo toàn cuộc sống. Hiện nay khi điều kiện kinh tế- xã hội ở Nà Lầu có
chuyển biến mới, đời sống tuy được đảm bảo hơn nhưng thiếu ổn định,
những người dân Nà Lầu tiếp tục định ra cho mình những hướng đi mới để
phù hợp với hoàn cảnh.
Chương 4
VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG CHÁO
Ở NÀ LẦU: THAY ĐỔI VÀ THÍCH ỨNG
4.1. Yếu tố trọng tình trong thực hành sinh kế của người dân Nà Lầu
4.2. Yếu tố duy lý trong thực hành sinh kế của người dân Nà Lầu
4.2.1. Các tính toán trong việc làm ăn
Tiếp tục dựa trên những nền tảng của nền kinh tế trọng tình song
trong sinh kế của người Nùng Cháo ở Nà Lầu đã có yếu tố duy lý xuất hiện,

18


được họ thực hành bằng sự chủ động, tính toán trong làm ăn để có thể thích
nghi với bối cảnh chuyển đổi mới.
Tính duy lý được thể hiện bằng sự chủ động trong việc chuyển đổi

các hình thức mưu sinh cho phù hợp với bối cảnh mới: dịch chuyển nơi sinh
sống ra các khu phố dọc đường chính, tận dụng lợi thế là những người dân
bản địa để mưu sinh. Quá trình đó được diễn ra đan xen với việc duy trì các
dàn xếp văn hóa- xã hội từ truyền thống đã có.

4.2.2. Sự suy xét trong các mối quan hệ
Mặc dù có những chuyển đổi về kinh tế, song họ vẫn luôn củng cố
các mối quan hệ xã hội vốn có với những người họ hàng, láng giềng, đồng
thời mở rộng quan hệ với những người dân từ nơi khác đến đây làm ăn. Tuy
nhiên, nếu chỉ trọng tình thôi thì chưa đủ, buộc những người dân Nà Lầu
phải có những tính toán mang tính duy lý để đảm bảo được đời sống. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu về các mối quan hệ xã hội của người dân ở đây thực
sự là điều cần thiết để xem xét chức năng của các quan hệ này ra sao, có lợi
như thế nào đối với việc làm ăn của mỗi cá nhân và hộ gia đình.
4.3. Văn hóa đảm bảo đời sống- những vấn đề liên quan trong bối cảnh
hiện nay
4.3.1. Từ thay đổi sinh kế dẫn đến những biến đổi về văn hóa
Bối cảnh chuyển đổi về kinh tế được nêu ra trong nghiên cứu đã
mang lại những cơ hội đan xen cả những thách thức đối với sinh kế của các
hộ gia đình người Nùng Cháo ở Nà Lầu và cuộc sống của họ. Một trong
những cơ hội được nhìn nhận có tác dụng tích cực đối với sinh kế và cuộc
sống của người dân là sự gia tăng về nguồn vốn tài chính của các hộ gia
đình. Quá trình xây dựng và mở rộng khu kinh tế cửa khẩu ở Tân Thanh
làm cho nhiều hộ gia đình bị mất đất canh tác nông nghiệp, tiền nhận được
19


từ việc đền bù đất không lớn, không đủ để trang trải cho cuộc sống nhưng
nó cũng đồng thời mở ra những cơ hội sinh kế mới để cải thiện đời sống
của họ, đem đến nhiều sự biến đổi: biến đổi về lối sống, mức sống, biến đổi

về không gian, cảnh quan trong thôn, một số phong tục tập quán
4.3.2. Vấn đề việc làm - rủi ro và bấp bênh
Đối với những người dân ở Nà Lầu bối cảnh chuyển đổi đã tạo ra
cho họ nhiều cơ hội để cải thiện cuộc sống, gia tăng nguồn thu nhập, sự tích
lũy vật chất, song họ vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại mà họ phải đổi mặt. đõ là
sự ổn định về việc làm và thu nhập. Một vấn đề khác đó là sự bấp bênh của
các nguồn sinh kế mới như: cho thuê nhà trọ, cho thuê cửa hàng, làm cửu
vạn, buôn bán nhỏ, bán hàng thuê, hay làm các nghề dịch vụ… Về lâu dài,
nguồn sinh kế này liệu có ổn định? đây là nỗi băn khoăn lớn của những
người dân ở đây. Do vậy, đây là một quá trình liên tục tìm tòi những thích
ứng để có thể tồn tại được lâu dài hơn, để từ đó mới có cơ sở đảm bảo được
cuộc sống. Điều này, minh chứng cho chúng ta thấy rõ một sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các yếu tố bên trong nội hàm của khái niệm văn hóa đảm
bảo đời sống.
Tiểu kết
Nghiên cứu về sinh kế trong trường hợp người Nùng Cháo ở Nà
Lầu cho thấy sự khác biệt của những người dân ở đây so với các nghiên cứu
của James Scott (1976). Tuy nhiên, với nghiên cứu này, tôi cho rằng, người
dân Nà Lầu mặc dù có lo lắng, có sợ rủi ro về sự thất bại, nhưng họ không
đi theo những gì đã định mà có những sự ứng biến để đối phó với hoàn
cảnh một cách phù hợp nhất. Thông qua đó tôi khẳng định, sinh kế với các
cơ sở của nền kinh tế trọng tình luôn chiếm một vị trí nhất định trong bối
cảnh có những tác động buộc người nông dân Nà Lầu phải chuyển đổi sinh
20


kế, song có sự kết hợp với các yếu tố của nền kinh tế duy lý. Điều đó chứng
tỏ họ không phải là những người luôn bị động trước bối cảnh chuyển đổi
mà biết tận dụng bối cảnh mới để tạo ra cho mình những phương thức mưu
sinh mới, đảm bảo cho sinh kế. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi sinh

kế người nông dân Nà Lầu cũng phải đối mặt với những tác động không
nhỏ, ngoài việc mức sống của họ được nâng cao hơn, họ cũng có những bức
xúc trong các vấn đề liên quan đến việc làm ổn định, lâu dài, những rủi ro
và bấp bênh trong sinh kế. Tất cả đã tạo nên một bức tranh về quá trình
chuyển đổi sinh kế của cộng đồng người Nùng Cháo ở một thôn giáp biên
giới Trung Quốc phản ánh sự biến động liên tục.
KẾT LUẬN
1. Những nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống của người nông
dân của các học giả đi trước đều chứng minh rằng, trong xã hội truyền
thống nền kinh tế trọng tình chiếm một vị trí quan trọng trong sinh kế của
họ, là cơ sở để đảm bảo sự an toàn về an ninh xã hội. Trong những bối cảnh
khác nhau dẫn tới những chuyển đổi trong sinh kế, có những công trình
nghiên cứu đã chỉ ra: người nông dân trong xã hội hiện đại vẫn giữ nguyên
những cơ sở đạo lý của nền kinh tế trọng tình, với các dàn xếp văn hóa, xã
hội và kỹ thuật đi kèm chứng minh người nông dân dựa trên cơ sở của một
nền kinh tế đạo đức thị trường, tận dụng các mối quan hệ xã hội để làm ăn,
thích ứng với nền kinh tế thị trường, ứng phó phù hợp để tạo ra những cơ
hội sinh kế mới; không dựa vào các mối quan hệ với người thân, họ hàng để
kinh doanh mà tự gây dựng và tạo ra các mạng xã hội khác để tiến hành
kinh doanh, tránh ảnh hưởng đến tình cảm. Đây là những căn cứ quan

21


trọng, để làm cơ sở nghiên cứu cho trường hợp về văn hóa đảm bảo sống
của một tộc người cụ thể.
2. Trong đề tài của mình về Văn hóa đảm bảo đời sống, với nội
dung nghiên cứu chính về hoạt động sinh kế cùng những ứng xử văn hóa đi
kèm của người Nùng Cháo ở Nà Lầu, NCS đã dựa trên 2 quan điểm về kinh
tế trọng tình và kinh tế duy lý để chứng minh rằng: luôn có sự tồn tại đan

xen giữa những cơ sở của nền kinh tế trọng tình và duy lý, chứ không hoàn
toàn là trọng tình như Scott (1976), hay duy lý hoàn toàn như Popkin
(1979) đề cập. Người nông dân không phải là những người luôn bảo thủ để
duy trì một nền kinh tế với những cơ sở đã đảm bảo cho sinh kế của họ
trong quá khứ, mặc dù trong bối cảnh có nhiều sự biến đổi về kinh tế-xã
hội, khiến cuộc sống và sinh kế của họ có nguy cơ rơi vào bế tắc. Nhưng,
họ đã luôn chủ động để có thể tự xoay sở và có những toan tính để thích
ứng được với bối cảnh mới, tìm ra cho mình phương thức mưu sinh phù
hợp mà vẫn không đánh mất đi những cơ sở của một nền kinh tế trọng tình
đã tạo dựng trong suốt quá trình lịch sử định cư của họ.
3. Do lịch sử di cư vào Việt Nam muộn hơn so với các dân tộc
khác, nên những nơi định cư của họ không có điều kiện tốt về tự nhiên để
thuận lợi cho canh tác. Để duy trì cho cuộc sống đảm bảo, tránh những
nguy cơ rơi xuống dưới ngưỡng sinh tồn, họ đã xây dựng nên các cơ sở của
một nền kinh tế trọng tình, với các dàn xếp văn hóa- xã hội, kỹ thuật đi
kèm. Đó là sự đa dạng về các loại giống, cách thức bảo quản hạt giống, kỹ
thuật đa canh, xen canh, hệ thống tương trợ, chia sẻ giúp đỡ nhau trong
công việc, tương trợ nhau trong cuốc sống hàng ngày, cùng lập nên hệ
thống tín ngưỡng riêng của họ để đảm bảo cuộc sống. Trước sự tác động từ
các chính sách phát triển kinh tế của đất nước đối với vùng biên giới, người
22


Nùng Cháo ở Nà Lầu đã có những thay đổi trong sinh kế. Tiếp tục dựa trên
những cơ sở của nền kinh tế trọng tình mà trong quá khứ họ đã tạo dựng
nên, họ còn thể hiện sự nhanh nhạy, sự chủ động của mình trong việc thay
đổi để thích ứng với các phương thức mưu sinh mới. Các hoạt động tương
trợ trong đời sống hàng ngày vẫn diễn ra giữa những người họ hàng và láng
giềng, luôn chia sẻ thông tin trong công việc với nhau, quan điểm “đói cùng
đói, no cùng no”, không vì lợi ích của riêng bản thân hay gia đình mình mà

không quan tâm tới cộng đồng của mình được thực hành xuyên suốt quá
trình sinh sống. Khi nhận thấy những cơ hội sinh kế mới họ đã tính toán
duy lý trong sinh kế: tính toán kinh doanh buôn bán nhỏ, chủ động dịch
chuyển nơi cư trú ra các khu phố giúp thuận lợi hơn cho việc sinh sống,
thích ứng với các hoạt động sinh kế mới. Đồng thời trong việc duy trì, thiết
lập các mối quan hệ cũng thể hiện những tính toán mưu lợi riêng. Tất cả
những điều đó đã giúp cho họ có một cuộc sống đảm bảo như hiện nay.
4. Trong quá trình chuyển đổi sinh kế của người Nùng Cháo ở Nà
Lầu cũng tồn tại những bức xúc, những lo âu toan tính của người dân trong
quá trình chuyển đổi: vấn đề việc làm, vấn đề an sinh xã hội, vấn đề thay
đổi lối sống, mức sống...
5. Bối cảnh thay đổi về kinh tế - xã hội đã khiến họ không thể giữ
nguyên nền kinh tế với các hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính tự
cấp tự túc. Trên cơ sở nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống với các cơ
sở đạo lý của nền kinh tế trọng tình được tồn tại xuyên suốt từ trong xã hội
cổ truyền cho tới bối cảnh hiện nay của người Nùng Cháo ở Nà Lầu, tôi
muốn trao đổi một số suy nghĩ mang tính gợi ý cho các nhà hoạch định
chính sách khi muốn xây dựng phát triển kinh tế ở những vùng biên nơi có
đồng bào dân tộc ít người sinh sống:
23


×