Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.13 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
----------------------

TRẦN THỊ PHƯƠNG LAN

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÝ HOÀI THU

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, Phòng
Sau đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội II và các thầy cô giáo trực tiếp
giảng dạy đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập
tại trường.
Với tình cảm sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
PGS.TS Lý Hoài Thu - người đã tận tình hướng dẫn, trợ giúp và động viên
tôi trong thời gian nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp là những
người đã sát cánh cùng tôi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể
thực hiện tốt mọi công việc.


Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014
Học viên

Trần Thị Phương Lan


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa
từng được công bố trong công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình!
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014
Học viên

Trần Thị Phương Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 9
7. Những đóng góp của luận văn ................................................................. 9
8. Cấu trúc của luận văn............................................................................... 9
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ THỜI GIAN - KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
VÀ HÀNH TRÌNH THƠ CỦA LƯU QUANG VŨ....................................... 10
1.1. Khái niệm về thời gian - không gian nghệ thuật................................... 10
1.1.1. Thời gian nghệ thuật ....................................................................... 10

1.1.2. Không gian nghệ thuật.................................................................... 13
1.2. Hành trình thơ của Lưu Quang Vũ ....................................................... 17
1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và tác phẩm..................................................... 17
1.2 2. Những chặng đường thơ của Lưu Quang Vũ.................................. 23
Tiểu kết......................................................................................................... 29
Chương 2. THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ 31
2.1. Thời gian vật lý và những tương quan.................................................. 31
2.1.1. Ban mai “xanh biếc”, tươi sáng ..................................................... 32
2.1.2. Buổi chiều khắc khoải, đợi chờ....................................................... 35
2.1.3. Đêm tối ám ảnh, hoài nghi ............................................................. 39
2.2. Thời gian tâm lý .................................................................................... 41
2.2.1. Thời gian đồng hiện ........................................................................ 42
2.2.2. Dự cảm tương lai ............................................................................ 48


2.2.3. Nhịp độ thời gian ............................................................................ 51
Chương 3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LƯU QUANG
VŨ ................................................................................................................... 57
3.1. Không gian thiên nhiên ......................................................................... 57
3.1.1. Những sắc màu tươi sáng ấm áp .................................................... 57
3.1.2. Những tín hiệu u buồn, bất an ........................................................ 59
3.2. Không gian cư trú ................................................................................. 63
3.2.1. Những miền quê đất nước............................................................... 63
3.2.2. Không gian cuộc sống đời thường.................................................. 67
3.3. Không gian tâm tưởng .......................................................................... 71
3.3.1. Hoài niệm tình yêu và tuổi trẻ ........................................................ 71
3.3.2. Từ khoảng trời giông bão về nơi bình yên...................................... 73
3.4. Mối quan hệ thời gian - không gian nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ
76
Tiểu kết......................................................................................................... 79

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 88


1

1. Lý do chọn đề tài

MỞ ĐẦU

1.1. Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng đưa người đọc vào một
khung thời gian - không gian nhất định. Thời gian và không gian nghệ thuật là
những hướng tiếp cận văn bản văn học quan trọng và hiệu quả của thi
pháp học hiện đại. Đó vừa là hình thức tồn tại của hình tượng, vừa là hình
thức mang tính quan niệm - thể hiện đặc điểm tư duy nghệ thuật và khả
năng chiếm lĩnh hiện thực của tác phẩm văn học.
Bên cạnh đó, đứng trước thế giới muôn màu và hiện thực phong
phú,
người nghệ sĩ phản ánh - tái hiện, sáng tạo - tưởng tượng... theo con mắt - tư
duy riêng của mình. Bởi thế, tm hiểu thời gian và không gian nghệ thuật như
là phương tiện nghệ thuật không chỉ cho thấy cấu trúc tác phẩm mà còn giúp
nhận ra nguồn cảm hứng sáng tạo, cảm thức tồn tại của con người trước cuộc
đời với bao ý nghĩa của đời sống nhân sinh. Và "cái tâm nhà thơ càng nặng
nỗi đời thì sự khắc khoải trước thời gian càng lớn" [29, tr.86]; "... mỗi tác giả
là cả một thế giới không gian với những hình thù, đường nét, màu sắc khác
nhau" [29, tr.100].
1.2. Lưu Quang Vũ là tác giả đa tài, thành công vang dội với kịch, song
người nghệ sĩ tài hoa cũng kí thác trong thơ đầy những khắc khoải và hi vọng,
kiếm tm - làm thơ như ghi nhật kí, là sự trở về với tâm hồn, một tâm hồn
luôn "đắm đuối" (Vũ Quần Phương). Những bài thơ luôn là ám ảnh của trí

nhớ, hoài niệm, là dự cảm về cuộc sống, về tình đời... Ngay khi mới xuất hiện,
thơ Lưu Quang Vũ đã có sức thu hút bởi nét tài hoa mà dung dị trong tứ thơ,
chất hội họa từ biểu tượng thơ, và nhất là bởi giọng điệu vừa trong sáng, thiết
tha vừa nồng nàn. Tập thơ đầu Hương cây - Bếp lửa (1968, in chung với Bằng
Việt) đã sớm hé lộ một hồn thơ yêu đời, yêu người trong sáng và mơ mộng.


Nếu ánh đèn màu rực sáng của sân khấu kịch mang lại cho Lưu Quang
Vũ sự ngưỡng mộ của công chúng về tài năng thì những vần thơ thầm lặng
khiến người yêu thơ xúc động khi gặp gỡ một tâm hồn nhạy cảm. Nhà thơ trẻ
luôn ý thức đi tìm, chắt lọc lấy những vẻ đẹp giản đơn nhưng có thật
như niềm vui, nỗi buồn, niềm hy vọng ... giữa đời thường. Lưu Quang Vũ cũng
đã gửi gắm vào thơ những rung động và tin tưởng. Có khi thi sĩ đã đối thoại,
trò chuyện thành thực như lời tự thú về chính mình "Luôn mắc nợ những
chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật".
Thơ Lưu Quang Vũ cũng ấn tượng bởi luôn mở ra những khung thời
gian - không gian vừa rất đỗi gần gũi, như chạm vào kỉ niệm, vừa mênh mang
những tưởng tượng và khát vọng. Đó cũng là khung trời của "nỗi đam mê
cháy bỏng và những câu thơ nổi gió trong lòng" (Lưu Khánh Thơ).
1.3. Nghiên cứu đề tài này, người viết có cơ hội hiểu thêm tâm hồn
người nghệ sĩ nói riêng và con người đời thường nói chung trong những
khoảnh khắc tồn tại đầy ám ảnh của kiếp người. Thơ không phản ánh hiện
thực đời sống theo cách khách quan, thơ phản ánh tâm hồn con người với
những suy tư trăn trở, khao khát ... Điều này đặc biệt phù hợp với Lưu Quang
Vũ - một công dân ưu tú, một nhà thơ trẻ tài năng đã tin yêu và hy vọng
ở cuộc đời theo cách riêng, nhưng bằng tất cả sự chân thành.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Thời gian và không gian
nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những ý kiến xung quanh khái niệm thời gian và không gian nghệ

thuật
Theo nhiều nhà nghiên cứu nhận định, thời gian - không gian không chỉ
là biểu hiện quan niệm của tác giả về vũ trụ, nhân sinh mà còn được xử lý
"như một hình thức để kiến tạo nên tác phẩm cụ thể" [29, tr.87]. Hệ thống lí


thuyết thi pháp học hiện đại đã chỉ ra rằng "Thời gian nghệ thuật là hình
thức


nội tại của hình tượng nghệ thuật" [11, tr.322]. Bên cạnh đó, không gian nghệ
thuật cũng là cách thức con người tm thấy sự tồn tại của mình trong thế
giới. Tác phẩm nghệ thuật luôn cho thấy những điểm nhìn và cảm thức, từ
đó hé mở tư duy nghệ thuật và phẩm tính con người tác giả.
Theo Pospelov, “Văn học nghệ thuật thì trái lại… chủ yếu thể hiện các
quá trình đời sống diễn ra trong thời gian, tức là hoạt động sống của con
người gắn liền với chuỗi cảm thụ, suy nghĩ, ý định, hành vi, sự kiện” - tức là
khẳng định sự tồn tại của yếu tố thời gian trong văn chương như một
hiện
tượng khách quan, một đặc trưng loại hình.
Likhachev trong Thế giới bên trong của tác phẩm văn học cho rằng
thời gian nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lưới của tác phẩm văn học,
khiến quan niệm triết học về thời gian phải phục vụ cho những nhiệm vụ
nghệ thuật của nó.
Trong Những vấn đề thi pháp Dostoievski, M.Bakhtin khi xây dựng
mô hình lí thuyết thi pháp của ông đã xem xét thế giới của nhân vật với
không gian, thời gian, mà ở đó không gian chiếm ưu thế hơn thời gian.
Yếu tố thời gian, không gian nghệ thuật trong văn chương tuy có những
điểm chung nhưng vẫn có những nét khác biệt giữa văn xuôi và thơ ca. Vì
vậy, trong nghiên cứu thi pháp học đã có sự phân biệt. Nếu trong văn

xuôi thời gian gồm hai lớp - thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật thì thời gian trong thơ ca nghiêng về thời gian tâm lí; không gian trong thơ ca
cũng không xác định dễ dàng như trong văn xuôi, có nhiều lớp, nhưng đặc
biệt nhấn mạnh đến kiểu "không gian con người" - chuyển dịch, đổi thay,
biến hình bởi nhiều yếu tố chi phối. Theo Hoàng Trinh, "Đứng về phía kết
cấu, người ta xếp thơ vào loại phạm trù thẩm mỹ không gian - thời gian hỗn
hợp".
Ở Việt Nam, Trần Đình Sử là một trong những người đầu tiên mở ra
hướng nghiên cứu mới cho thi pháp học. Ông đã đề cập đến yếu tố thời gian
- không gian nghệ thuật trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu (1987):


- "Khó mà hiểu được con người nếu không hiểu được không gian tồn
tại của nó" [25, tr.178].
- "Sự cảm thụ thời gian gắn liền ý thức về ý nghĩa của cuộc đời..." [25,
tr.207].
- "... ý thức về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người, phát hiện
về thời gian giúp người ta nhận thức sâu hơn về cuộc sống" [25, tr.208].
Trong cuốn "Những thế giới nghệ thuật thơ" (1997), tập hợp một số
nghiên cứu, tác giả Trần Đình Sử cũng đưa lại các bài viết về không gian và
thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều (nghiên cứu từ những năm
1983,
1991).
Hiện nay, thời gian và không gian nghệ thuật tiếp tục được quan tâm
như là một hướng đi quan trọng trong các nghiên cứu thi pháp học của nhiều
tác giả.
2.2. Những ý kiến đề cập đến thơ Lưu Quang Vũ
Tài năng thơ của Lưu Quang Vũ đã sớm được biết đến ở độ tuổi đôi
mươi, được khẳng định bởi nhà phê bình Hoài Thanh: Một cây bút trẻ có
nhiều triển vọng. Nhưng sau đó, trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình,
ông lại nổi danh với hàng loạt vở kịch được viết từ những quan sát đầy ưu tư

mà sắc sảo. Người ta tm lại thơ Lưu Quang Vũ như một sự nuối tiếc tài năng,
muốn bù đắp cho cảm giác hẫng hụt trong nền nghệ thuật nước nhà… sau tai
nạn đột ngột vào mùa hè năm 1988. Những người yêu mến anh đã thực
sự ngỡ ngàng và xúc động khi nhận ra cách Lưu Quang Vũ đã gửi gắm, tn
yêu, buồn thương... rồi hy vọng về cuộc đời và con người trong những trang
thơ. Thơ dường như mới là nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn anh - luôn thao
thức, dằn vặt, đau xót... để yêu thương.
Các tập thơ lần lượt được in sau khi nhà thơ mất: Mây trắng của đời tôi
(1989); Bầy ong trong đêm sâu (1993); Lưu Quang Vũ - Di cảo (2008); và


đầy đủ nhất là tuyển thơ Lưu Quang Vũ - Gió và tnh yêu thổi trên đất nước
tôi (2010).
Nhiều bài viết, ý kiến đánh giá về thơ Lưu Quang Vũ đã giúp hình
dung rõ rệt hơn về một con người tha thiết với cuộc sống, một tài năng
thơ độc đáo. Có thể kể đến một số công trình tập hợp nghiên cứu tiêu biểu:
Lưu Quang Vũ thơ và đời - do Lưu Khánh Thơ biên soạn, xuất bản
năm 1997 - đã trình bày nhiều phương diện về thơ Lưu Quang Vũ. Ngoài
phần văn bản thơ, còn có những bài viết về ông của những người thân, bạn
bè. Qua những hồi tưởng, phần đời nhiều biến động của Lưu Quang Vũ đã
được giới thiệu, giúp bạn đọc hiểu hơn những tâm sự u hoài của nhà
thơ trong những năm tháng cô đơn cũng như những khát vọng nghệ thuật
suốt đời của nhà thơ.
Lưu Quang Vũ - tài năng và lao động nghệ thuật (Nhiều tác giả, Lưu
Khánh Thơ chủ biên, xuất bản năm 2001) cũng là một công trình đầy đủ về
đời và thơ Lưu Quang Vũ. Các tác giả đã đánh giá sức sáng tạo của ông ở cả
ba lĩnh vực Thơ – Văn xuôi – Kịch. Đối với thơ Lưu Quang Vũ , các ý kiến
phê bình đều chung cái nhìn thiện cảm đối với cây bút có phong cách riêng,
giọng điệu riêng thiết tha mà không thiếu sự sắc sảo chính luận.
Lưu Quang Vũ - Về tác gia và tác phẩm, do Lý Hoài Thu, Lưu Khánh

Thơ tuyển chọn và giới thiệu năm 2007, là công trình hoàn chỉnh nhất
hiện nay: tổng kết cuộc đời – sự nghiệp sáng tác – con người Lưu Quang
Vũ; tuyển thơ đầy đủ; giới thiệu các bài nghiên cứu về Lưu Quang Vũ ở nhiều
phương diện, thuộc cả ba lĩnh vực thơ, văn xuôi, kịch. Trong đó, bài tổng
luận“Sức sáng tạo của một tài năng”(Lý Hoài Thu) mở đầu công trình có ý
nghĩa khái quát về hành trình sáng tác cùng sự phát triển nhận thức, đời
sống tình cảm và trong tư duy nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Riêng về thơ,
tác giả Lý Hoài Thu đã viết về những cảm hứng lớn - đất nước quê hương,
nhân dân


và dân tộc, đời tư và tình yêu - và về một cái tôi nhiều rung động yêu thương,
trao gửi trước cuộc đời của thi sĩ. Tác giả Lý Hoài Thu khẳng định Lưu
Quang Vũ đã tạo lập được một thế giới nghệ thuật riêng qua ba tập thơ. Ở
đó, “cái tôi trữ tình luôn luôn vận động với nhiều giai điệu cảm xúc… lung
linh ẩn hiện những miền không – thời gian thấm đẫm chất thơ… ẩn chứa lớp
lớp ngôn từ giàu sắc màu hội họa, ấn tượng, gợi cảm nhưng cũng giàu chất
suy
tưởng...” [30, tr.42].
Đối thoại tình yêu Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, xuất bản năm 2007,
có cách khai thác đời thơ Lưu Quang Vũ ở góc nhìn khác. Ngoài tác phẩm,
các bài phê bình thơ, còn có những bức thư chan chứa ân tình và đồng điệu
giữa hai người, những câu thơ họ viết tặng nhau… Qua cách đôi vợ chồng thi
sĩ đối thoại bằng những trang thơ, người đọc nhận ra những vẻ đẹp tâm
hồn và cả khát vọng yêu thương của Lưu Quang Vũ trong cuộc đời thực.
Các nhà nghiên cứu phê bình đã có nhiều hướng tiếp cận tìm hiểu thơ
Lưu Quang Vũ, tập trung ở những nội dung như:
- Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ
Phạm Xuân Nguyên có nhận định ấn tượng về bản chất những khao
khát trong con người nhà thơ: "Như con tàu luôn bồn chồn ra đi. Thơ anh tất

bật, hối hả như đời anh... Bởi như gió, anh phóng túng, tự do. Dám sống đúng
mình, dám nghĩ đúng mình..." [30,tr.98]. Như thế, Lưu Quang Vũ là một "tâm
hồn trở gió".
Nhìn một cách tổng quát, Hà Thị Hạnh phân tch "cái Tôi trong thơ
Lưu Quang Vũ có quá trình phát triển khá phức tạp... từ mơ mộng đến
tỉnh thức và chiêm nghiệm, từ niềm vui bồng bột tới nỗi cô đơn khắc khoải và
tạm dừng chân với hạnh phúc đời thường" [30, tr.170].
Trong bài viết Nỗi lao lung của một hồn thơ mới bước vào đời, Phan
Trọng Thưởng đã phân tch hình ảnh những chú ong trong thơ Lưu Quang Vũ


bằng cái nhìn cảm thông cùng nhà thơ. Theo Phan Trọng Thưởng, có sự đồng
thân, đồng phận nào đó giữa chú ong bé nhỏ luôn ý thức chắt chiu tìm
kiếm và thi nhân. Nhà nghiên cứu cho rằng Bầy ong trong đêm sâu đã “hé lộ
một hồn thơ nhạy cảm, dễ rung động; một sự bộc bạch chân thành; một
sự mở lòng ra với bạn, với đời ” [30,tr.197].
- Những cảm hứng chính trong thơ Lưu Quang Vũ cũng là một
hướng đánh giá nhiều gợi mở. Từ đây, các nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ,
Lý Hoài Thu, Vũ Quần Phương, Việt Nga, Đức Bình... đã quan tâm về ba
cảm hứng lớn: Dân tộc- Tình yêu- Người thân. Các ý kiến thống nhất trong
cảm hứng nào thì nhà thơ trẻ cũng thể hiện sự gắn bó sâu nặng, tnh thần
trách nhiệm trước cuộc đời và dũng cảm “tuyên ngôn về một con đường
nghệ thuật mới” [30, tr.164].
- Phương thức thể hiện qua giọng điệu cũng được chú ý. Các nhà
nghiên cứu Hoài Thanh, Vũ Quần Phương, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ… đều
thống nhất về chất ngọt ngào, đắm đuối trong thơ Lưu Quang Vũ.
Việt Nga lại có cảm nhận ở một góc độ riêng - liên hệ với đời tư nhà
thơ để chỉ ra trong giọng điệu đắm đuối vẫn gợi lên những xót xa tê tái,
thậm chí nghi ngờ. Bởi thơ tnh Lưu Quang Vũ không chỉ có vẻ trẻ trung cuả
một chàng trai với tâm hồn sôi nổi tha thiết yêu thương mà còn “có bóng

dáng một người đàn ông từng trải đã nếm nhiều cay đắng của cuộc đời” [30,
tr.136].
Anh Ngọc so sánh: “Xuân Diệu cuống quýt vì thời gian, Lưu Quang Vũ
bối rối bởi không gian, nói khác thì rất khác, nhưng nói giống thì cũng không
kém gì hai giọt nước”. Tác giả cho rằng Vườn trong phố có thể têu biểu cho
hồn thơ cũng như bút pháp Lưu Quang Vũ và nhấn mạnh yếu tố giọng điệu
trong mảng thơ tnh“một giọng thơ khó lẫn bởi cường độ tnh cảm quá mạnh
đã phá vỡ con đê khuôn sáo của từ ngữ…” [30, tr.206].


Các hướng nghiên cứu đã làm nổi bật những đặc điểm phong cách
trữ tình của thơ Lưu Quang Vũ. Song, chưa có công trình nghiên cứu hệ thống
và chuyên sâu về yếu tố thời gian - không gian nghệ thuật trong thơ ông.
Thời gian trong thơ thường gợi sâu những tâm tình, không gian thơ vốn dung
chứa không gian tâm hồn. Hơn nữa, thơ Lưu Quang Vũ nhiều ám ảnh và dự
cảm, giọng thơ không thuần nhất, cái tôi trữ tình nhiều khi day trở mâu
thuẫn không dễ nhận diện. Qua đề tài Thời gian và không gian nghệ
thuật trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi hi vọng đóng góp thêm ý kiến về
một hướng tếp cận hiệu quả trong quá trình khám phá thế giới nghệ
thuật của một nhà thơ luôn khắc khoải về niềm tin và cả nỗi đau nhân thế .
3. Mục đích nghiên cứu
Qua phân tch cách chiếm lĩnh hiện thực với thời gian - không gian
nghệ thuật của thơ Lưu Quang Vũ, luận văn chỉ ra đặc điểm thi pháp, cá tính
sáng tạo và phong cách độc đáo của nhà thơ. Từ đó, góp phần khẳng định
những đóng góp giá trị và vị thế của tác giả Lưu Quang Vũ trong đời sống thơ
ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa vào cơ sở lí thuyết thi pháp học về thời gian và không gian nghệ
thuật trong văn học để tm tòi, phát hiện những phương diện độc đáo và vai
trò của yếu tố thời gian - không gian trong thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang

Vũ.
5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thời gian và không gian nghệ
thuật trong thơ Lưu Quang Vũ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu thơ Lưu Quang Vũ dựa trên
tuyển tập đầy đủ nhất gần đây: Lưu Quang Vũ - Gió và tình yêu thổi trên đất


nước tôi, NXB Hội nhà văn, 2010. (Có tiến hành so sánh, đối chiếu với các
văn bản đã công bố khác).
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ
yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.
- Phương pháp phân tch - tổng hợp
- Phương pháp tiểu sử.
- Phương pháp so sánh.
7. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần tiếp tục làm rõ vai trò của yếu tố thời gian và không gian
nghệ thuật trong thơ như là một yếu tố kiến tạo tác phẩm, là phương tiện
nghệ thuật giúp biểu hiện thế giới nội cảm của nhà thơ.
- Khẳng định những sáng tạo về thời gian và không gian nghệ thuật
trong thơ Lưu Quang Vũ.
- Khẳng định tài năng, vị trí và những đóng góp của Lưu Quang Vũ vào
tến trình vận động của thơ hiện đại Việt Nam.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:

Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ THỜI GIAN - KHÔNG GIAN NGHỆ
THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH THƠ CỦA LƯU QUANG VŨ
Chương 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ
Chương 3: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LƯU QUANG



Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ THỜI GIAN - KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ
HÀNH TRÌNH THƠ CỦA LƯU QUANG VŨ
1.1. Khái niệm về thời gian - không gian nghệ thuật
1.1.1.Thời gian nghệ thuật
Thời gian là một phạm trù cơ bản của cuộc sống - thế giới tự nhiên và
con người đều tồn tại trong quá trình vận động của thời gian. Thể
hiện phương thức tồn tại và triển khai thế giới, nghệ thuật có thời gian riêng.
Thời gian nghệ thuật không trùng khít cũng như không hoàn toàn tồn tại
trong thời gian vật chất. Bởi những sự kiện và tâm thế con người trong tác
phẩm nghệ thuật luôn có quá trình vận động và phát triển riêng. Văn học
được xếp thuộc loại nghệ thuật thời gian, nghĩa là hình tượng văn học được
mở dần theo thời gian, gắn liền với sự cảm thụ về thời gian.
“Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế
giới” [18, tr.322]. Thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm nhận
thời gian, cảm nhận phương thức tồn tại giữa thế giới của con người.
Phản ánh sự cảm nhận ấy, thời gian nghệ thuật thể hiện quan điểm, tư tưởng
tác giả. Đó cũng là sự sáng tạo của người nghệ sĩ để tạo ra một thế giới nghệ
thuật có thể trường tồn trong thời gian. Như thế, thời gian nghệ thuật cũng
mang đầy tính chủ quan.
Là thời gian tâm lý, thời gian nghệ thuật được cảm nhận qua lăng kính
cảm xúc nên không nhất thiết phải theo trật tự vốn có của tự nhiên (quá khứ
- hiện tại - tương lai) mà có thể “đảo ngược quay về quá khứ, có thể bay

vượt tới tương lai xa xôi, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận” [18,
tr.322]. Cảm quan nghệ thuật bắt đầu từ một điểm nhìn nhất định trong
thời gian có thể làm ngưng đọng một phút giây, vĩnh hằng hóa một khoảnh
khắc giữa dòng đời vô tận, cũng có thể dồn nén khoảng cách vời vợi vào giờ
khắc ngắn ngủi:


Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
(Đoàn Thị Điểm)
Hình tượng thời gian mang ý nghĩa khái quát cao khi có khả năng biến
thời gian cơ học bình thường thành thời gian vĩnh viễn: Trút ngàn năm trong
một phút chơi vơi - Xuân Diệu. Quá khứ, hiện tại, tương lai không tách rời mà
đan cài lẫn nhau, có khi cùng hiển hiện: cái hôm qua hiện hữu trong cái hôm
nay, cái hôm nay dự báo cái ngày mai:
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này
(Xuân Diệu)
Thời gian đồng hiện giúp con người khắc phục cái tuyến tính - giới hạn
đơn chiều của thời gian để vươn tới một sự tếp xúc đa chiều trong
không gian. Thời gian nghệ thuật đa dạng, gợi cảm đã trở thành một thuộc
tnh tất yếu của hình tượng nghệ thuật: “Trong quá trình sáng tạo, người
nghệ sĩ đã xử lý yếu tố này như một phương tiện nghệ thuật cần thiết để tái
hiện đời sống và cấu trúc tác phẩm” [29, tr.85].
Thời gian nghệ thuật không chỉ biểu hiện nội dung cảm hứng mà còn
đóng vai trò như một thao tác thuộc về hình thức nghệ thuật. Từ đó mà thời
gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được biểu hiện bằng nhiều phương
thức. Trước hết, đó là những hình dung khái quát qua các trạng từ chỉ
thời gian: ngày xửa ngày xưa, dạo ấy, hôm qua, ngày mai, mùa thu…; có khi
thời gian được gọi tên cụ thể bởi các số từ: giờ, phút, ngày, tháng, năm,…;

hay chỉ cần nhận biết dấu hiệu thời gian đặc trưng. Thể thơ Hai - cư bé nhỏ
của Nhật Bản luôn tinh tế với quý ngữ chỉ mùa:
Từ bốn phương trời xa
cán h h oa đ ào lả tả
gợn sóng hồ Bi- oa.


hay
Đất khách mười mù a s ương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê- đô là cố hương.
(Ba- sô)
Thơ ca trung đại Việt Nam đã điểm nhịp thời gian “Sen tàn cúc lại nở
hoa/ Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân” (Nguyễn Du) cho đến thơ hiện
đại:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(Hữu Thỉnh)
Với những cá tính sáng tạo, thời gian nghệ thuật bao giờ cũng có cách
thức thể hiện mới lạ, độc đáo, tạo nên ấn tượng sâu sắc về dòng chảy vô
thủy vô chung của cuộc đời.
Thế giới nghệ thuật là khúc xạ của cuộc sống thực, thời gian nghệ
thuật theo đó cũng là một hiện tượng ước lệ trong thế giới tưởng tượng ấy,
cho nên không dễ xác định. Nhìn chung, thời gian nghệ thuật có thể biểu
hiện qua một số phương diện: nhịp điệu thời gian, trình tự thời gian, hình
tượng thời gian. Theo Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật trong văn học
không phải đơn giản chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một
hình tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian

được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ chức tác
phẩm” [23, tr.77].
Ở mỗi thể loại văn học, do đặc trưng nghệ thuật riêng nên thời
gian cũng diễn biến khác nhau. Tiểu thuyết là thể loại có sức dung chứa lớn
với khát vọng thâu tóm toàn bộ hiện thực (mô hình đại tự sự), thời gian


trong tiểu thuyết mang quảng tnh. Truyện ngắn thường chỉ tái hiện một
đoạn đời sống.


Thời gian trong kịch gắn với sự vận động của sự kiện, xung đột, tính cách và
chịu khuôn khổ chặt chẽ của thời gian sân khấu. Trong thơ, thời gian nghiêng
về thời gian tâm lý, sự vận động của thời gian diễn ra theo dòng cảm xúc. Bởi
nhà thơ viết để phản ánh thế giới tâm hồn mình hơn là phản ánh thế
giới khách quan.
Thời gian đã luôn là mối âu lo của thi sĩ. Đó là cảm thức rõ ràng: Ngán
nỗi xuân đi xuân lại lại - Hồ Xuân Hương; là nỗi thảng thốt: Nhân sinh ba vạn
sáu nghìn thôi/ Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi - Nguyễn Công Trứ; là sự so
sánh: Đời người ngẫm thử mà hay/ Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê
- Tản Đà,…Thời gian không chỉ được đo đếm theo độ vô tận, theo chiều vĩ mô
như nó vốn có mà còn được hình dung qua thời gian đời tư, thời gian tâm
trạng của đời người: Lòng tôi rộng nhưng cuộc đời cứ chật/ Không cho dài
thời trẻ của nhân gian… Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi/ Nên bâng
khuâng tôi tiếc cả đất trời - Xuân Diệu.
Phản ánh tâm thế tồn tại của con người nên thời gian nghệ thuật cũng
gợi nhắc không gian - nơi con người luôn cảm thấy vị trí và số phận của mình
trong đó. Thời gian nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố thuộc
cấu trúc tác phẩm, trước hết là không gian nghệ thuật.
1.1.2. Không gian nghệ thuật

Bên cạnh thời gian, không gian là hình thức tồn tại của vật chất
trong thế giới, là phương thức tồn tại của con người giữa cuộc đời.“Trong văn
học nghệ thuật, không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của hình
tượng” [25, tr.178]. Nếu như thời gian nghệ thuật không tồn tại trong thời
gian vật chất thì không gian nghệ thuật cũng không phải là không gian vật lý.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Không gian nghệ thuật là hình
thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự
miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm
nhìn, diễn ra


trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính
bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách
quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộn , dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật.”
[18, tr.160].
Mỗi loại hình nghệ thuật có cách tái hiện không gian riêng. Nếu hội họa
và điêu khắc miêu tả các sự vật một cách tĩnh tại thì trong việc chiếm lĩnh
không gian nghệ thuật văn học lại có ưu thế vượt trội. Bằng phương tiện đặc
biệt là ngôn từ, văn học có khả năng chuyển dịch từ bức tranh này sang bức
tranh khác một cách nhanh chóng lạ thường, dễ dàng đưa người đọc
vào những miền không gian khác nhau.
Theo Trần Đình Sử,“Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
nhà nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định
về cuộc sống, do đó không thể quy nó về không gian địa lý hay không gian
vật lý, vật chất.” [23, tr.108]. Chính vì thuộc về thế giới nghệ thuật, thế
giới của “cái nhìn và mang ý nghĩa” (Trần Đình Sử), cho nên không gian
nghệ thuật
được mở ra từ một trường nhìn, một cách nhìn. Điểm nhìn giúp mô hình
không gian trở nên linh động và đầy đủ, đồng thời soi chiếu phản ánh không
gian bên trong con người:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Bà huyện Thanh Quan)
Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm
lên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi
chơi… Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi… Tiếng chó sủa xa xa.
Những đêm tnh mùa xuân đã tới. (Tô Hoài).


Trong Dẫn luận thi pháp học, (Trần Đình Sử) chia ra: không gian
điểm, không gian tuyến, không gian mặt phẳng - không gian khối (dựa vào vị
trí, giới hạn của sự vật); không gian bên trong - phi thời gian, không gian bên
ngoài - đổi thay (dựa vào sự biến đổi của sự vật, hiện tượng). Bên cạnh
đó, còn có không gian hành động và phi hành động.
Tác giả Huỳnh Như Phương trong công trình Lý luận văn học vấn đề và
suy nghĩ lại phân biệt không gian thiên nhiên, không gian sinh hoạt, cũng có
thể là không gian mở hay không gian khép. Không gian nghệ thuật có thể là
không gian linh hoạt, đa hướng hoặc là không gian tĩnh tại, khép kín…
Qua không gian nghệ thuật, tác giả bộc lộ tư duy nghệ thuật, cá tính
sáng tạo và đánh dấu trình độ chiếm lĩnh thế giới cũng như miêu tả hồn
người.
Không gian nghệ thuật cũng mang tính tượng trưng, tính quan niệm.
Vẫn từ một cảnh quan thiên nhiên, môi trường xã hội bao bọc xung quanh
đời sống con người, mỗi tác giả sẽ tm thấy một thế giới mang đường nét,
sắc màu riêng; mỗi trào lưu, bộ phận văn học lại có bút pháp tạo hình không
gian khác nhau. Đó là“lâu đài” của F.Kafka, là “con đường” của Lỗ Tấn. Hay
như các biểu tượng “cây đa, bến nước, sân đình” trong thơ ca dân gian Việt
Nam gợi những hẹn hò - khác với “không gian vũ trụ” trong thơ ca bác
học, nơi con người luôn cảm thấy nhỏ bé, luôn mang một nhu cầu khám phá

cái bao la,
cái ở ngoài con người:
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
( Nghĩa là:
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời )
(Không Lộ thiền sư)


Phải chăng đó cũng là khát vọng hướng về nơi vô thủy vô chung của
bản thể theo quan niệm Phật học:
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên
( Nghĩa là:
Vạn dặm sông xanh, vạn dặm trời)
(Không Lộ thiền sư)
Thiên nhiên trong thơ ca trung đại là nơi di dưỡng tinh thần:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Với thơ ca cách mạng, Trần Đình Sử đã phát hiện“Hình tượng không
gian quan trọng nhất đóng vai trò hình tượng xuyên suốt trong thế giới thơ
Tố Hữu là con đường cách mạng” [25, tr.186].
Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực vốn
tồn tại khách quan mà nó trở thành một kí hiệu đặc biệt để diễn đạt những
phạm trù ở ngoài thời gian, hoặc để thể hiện tâm trạng của nhân vật, thậm
chí hé lộ khả năng đánh giá nhân vật về mặt đạo đức, thẩm mĩ. Chẳng hạn,
bầu trời Auterlitx trong xanh, cao vời mà Anđrây (Chiến tranh và hòa bình Lev Tolstoi) nhìn thấy lúc nằm ngửa mặt, bị thương, giáp mặt tử thần đã thể
hiện tâm hồn và tư tưởng chàng. Bầu trời ấy là không gian thức tỉnh và khao
khát, cái cao cả, cái vĩnh hằng hiện ra qua “khoảng không vô tận màu xanh

biếc”, như muốn nói lên chân lý “Ngoài bầu trời cao tận kia ra, tất cả đều là
vô nghĩa, đều là lừa dối”.
Không gian nghệ thuật trong thơ mang tnh chất ít xác định. Trong tiểu
thuyết, “không gian được dễ dàng xác định bởi khuôn khổ của nội dung cốt
truyện và môi trường sinh sống của nhân vật” [29, tr.101]. Theo Những vấn
đề thi pháp của truyện (Nguyễn Thái Hòa), ở văn xuôi có các loại không


gian: không gian bối cảnh (là không gian rộng lớn nhất mà câu chuyện xảy ra,
bao gồm: bối cảnh thiên nhiên, bối cảnh xã hội, bối cảnh tâm trạng), không
gian sự kiện, không gian tâm lý, không gian kể chuyện, không gian đối thoại.
Theo tác giả Lý Hoài Thu, ở thơ “không gian nghệ thuật trở nên khó xác định
bởi sự vận động của mạch cảm xúc cùng sự biến hóa của hình tượng thơ đã
làm nhòe đi ranh giới giữa không gian rộng và không gian hẹp, không gian
cao và không gian thấp, không gian tnh và không gian động, không gian vật
thể và không gian tâm tưởng…” [29, tr.101]. Như vậy, không gian nghệ thuật
trong thơ không dễ xác định như trong văn xuôi mà có thể định hình
theo nhiều lớp, trong đó có không gian bên trong con người (không gian tâm
tưởng
- không gian tnh thần, ước vọng, hồi tưởng, tâm linh... ). Đây là không gian
đặc biệt nhất, với chiều kích bí ẩn, luôn tạo ra một không quyển tinh thần đặc
trưng cho tác phẩm trữ tnh.
Tìm hiểu thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong văn
chương không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học,
các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu
cảm thụ của tác giả hay giá trị phản ánh của một giai đoạn văn học. Từ đó,
“cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tnh độc đáo” [18, tr.161] trong tác
phẩm văn chương và phong cách tác giả. Điều này càng có ý nghĩa với địa
hạt thơ ca - nơi thi sĩ tái hiện cuộc sống qua cửa ngõ tâm tình, làm sống dậy
cả thời gian hoài niệm hay đưa suy tưởng đến tương lai xa xôi và phác

họa miền không gian nội cảm mênh mang.
1.2. Hành trình thơ của Lưu Quang Vũ
1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và tác
phẩm
Trong thế hệ những cây bút trẻ sáng tác từ thời chống Mỹ cứu nước,
Lưu Quang Vũ là một phong cách sáng tạo có dấu ấn khác biệt. Khi trưởng


thành hơn trong nhận thức và tài năng nghệ thuật đã vào độ chín, Lưu
Quang


×