Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Giới thiệu một số tác phẩm của mác,lênin, HCM về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 214 trang )

GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM
KINH ĐIỂN CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN,
V.I.LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ HỌC
CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ QUÂN SỰ
(Dùng cho đào tạo giảng viên KHXHNVQS,
chuyên ngành kinh tế chính trị Mác – Lênin, bậc đại học)

BAN BIÊN SOẠN
1 PGS, TS, Phạm Đức Nhuấn

Chủ biên

2 PGS, TS, Trương Tuấn Biểu

Đồng Chủ biên

3 ThS, Nguyễn Thanh Hải

Thư ký

4 TS, Chử Văn Tuyên

Thành viên

5 TS, Vũ Văn Long

Thành viên

6 ThS, Bùi Thúc Vịnh

Thành viên



7 TS, Phạm Anh Tuấn

Thành viên

8 Đại tá, TS, Nguyễn Đức Độ

Thành viên

.
.
.
.
.
.
.
.


2

Mục lục
Lời giới thiệu

Trang
4

Phần 1: Các Mác và PH.Ăngghen
1


5

2

Tác phẩm: Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản của
Ph.ăngghen
Tác phẩm: T- bản của C.Mác

26

3

Tác phẩm: Phê phán C-ơng lĩnh Gô ta của C.Mác

55

4

Tác phẩm: Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen

70

Phần II: V.I.Lê nin
5
6
7
8

Tác phẩm: Bàn về cái gọi là vấn đề thị tr-ờng
của V.I.Lênin

Tác phẩm: Sự phát triển của chủ nghĩa t- bản ở Nga
của V.I.Lênin
Tác phẩm: Hải cảng Lữ Thuận thất thủ của V.I.Lênin

94
102
124

Tác phẩm: Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tbản của V.I.Lênin
Tác phẩm: Những nhiệm vụ tr-ớc mắt của chính quyền Xô Viết của
V.I.Lênin
Tác phẩm: Sáng kiến vĩ đại của V.I.Lênin

136

173

12

Tác phẩm: Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản
của V.I.Lênin
Tác phẩm: Bàn về thuế l-ơng thực của V.I.Lênin

13

Tác phẩm: Bàn về chế độ hợp tác xã của V.I.Lênin

205

9

10
11

120
164

187

Phần III: Hồ chí minh
14

Tác phẩm: Bản án chế độ thực dân pháp của Hồ Chí Minh

226

15

Tác phẩm: Đ-ờng cách mệnh của Hồ Chí Minh

234

16

Tác phẩm: Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh

245


3


LỜI GIỚI THIỆU
Nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập môn
Kinh tế chính trị và Kinh tế quân sự Mác – Lênin. Học viện Chính trị xuất bản
cuốn sách tham khảo: “Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về kinh tế học chính trị và kinh tế quân
sự” dùng cho đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự, chuyên
ngành kinh tế chính trị Mác – Lênin, bậc đại học. Cuốn sách do tập thể tác giả
khoa Kinh tế chính trị và các nhà khoa học đang công tác tại Học viện Chính
trị biên soạn. Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Đức Nhuấn và Tiến sĩ, Trương Tuấn
Biểu đồng chủ biên.
Cuốn sách giới thiệu 15 tác phẩm, được chia làm 3 phần. Phần I, giới
thiệu 3 tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen; Phần II, giới thiệu 9 tác phẩm
của V.I.Lênin; Phần III, giới thiệu 3 tác phẩm của Hồ Chí Minh. Riêng tác
phẩm Tư bản của C.Mác, do quy mô đồ sộ và những nguyên lý, lý luận kinh
tế chính trị được trình bày và phương pháp nghiên cứu trong tác phẩm giữ vị
trí đặc biệt quan trọng trong lý luận kinh tế chính trị Mác – Lênin nên Ban
biên soạn quyết định giới thiệu riêng về tác phẩm trong một cuốn sách khác
vào dịp thích hợp. Các tác phẩm giới thiệu trong cuốn sách này được sắp xếp
theo thứ tự thời gian mà các nhà kinh điển viết tác phẩm. Trên cơ sở kế thừa
các công trình khoa học có liên quan, nội dung cuốn sách đã có sự phát triển,
khai thác sâu sắc hơn, toàn diện hơn những nội dung khoa học Kinh tế chính
trị Mác – Lênin và Kinh tế quân sự Mác – Lênin, phù hợp với chương trình
giảng dạy và đối tượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự
chuyên ngành Kinh tế chính trị Mác – Lênin bậc đại học. Cuốn sách có giá trị
tham khảo tốt, giúp người học nghiên cứu sâu hơn những nguyên lý, lý luận
gốc của các nhà kinh điển về Kinh tế học chính trị và Kinh tế quân sự Mác –
Lênin.
Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có rất nhiều cố gắng song



4

cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Ban biên soạn mong
nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các đồng nghiệp và bạn đọc
để bổ sung, phát triển và hoàn thiện trong những lần xuất bản sau.
BAN BIÊN SOẠN


5

PHẦN I
CÁC MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
TÁC PHẨM
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN”
CỦA PH. ĂNGGHEN
1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Tác phẩm ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã
phát triển tới đỉnh cao của nó. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất với nội
dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy móc đã
diễn ra rộng khắp ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Quá trình này đã đẩy tới hình thành
nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, năng suất lao động tăng cao, thúc đẩy kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển.
Trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện và giữ được địa vị thống trị trong kinh tế.
Tuy nhiên, do dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất nên đã sớm bộc lộ mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
ngày càng mang tính xã hội hoá cao. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những
mâu thuẫn về chính trị - xã hội trong xã hội tư bản mà biểu hiện tập trung của nó
là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.

Giai cấp tư sản đã giữ được vai trò thống trị trong xã hội tư bản. Sự tồn
tại hay phát triển của giai cấp vô sản phụ thuộc vào tương quan lực lượng về
kinh tế, chính trị giữa hai giai cấp đó và sự phát triển của nền đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa. Đại công nghiệp đã sản sinh ra và tập trung giai cấp vô sản
vào trong các nhà máy lớn, các khu đô thị tập trung. Vì vậy, giai cấp vô sản
đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp vô sản từ thân phận làm
thuê, bị áp bức bóc lột đã ý thức được sức mạnh của mình và thực sự trở
thành lực lượng chính trị - xã hội rộng lớn khẳng định vai trò chính trị của
mình với sự phát triển của nhân loại. Vai trò đó của giai cấp vô sản lại phụ
thuộc vào sự đoàn kết đấu tranh của nó nhằm chống lại giai cấp tư sản để xoá


6

bỏ sự áp bức bóc lột giai cấp. Vì vậy, phong trào cộng sản thế giới trong thời
gian này phát triển mạnh mẽ, trước hết là ở các nước tư bản phát triển như
Anh, Pháp, Đức.
Đứng trước sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, bằng thiên tài của mình, nắm chắc thời cơ, Ph.Ăngghen cho rằng để phong
trào công nhân phát triển đúng hướng cấp thiết phải có lý luận soi đường và
Người đã viết tác phẩm để truyền bá tư tưởng của mình.
Cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1847 theo sự uỷ nhiệm của Ban chấp
hành khu bộ Pari của Liên đoàn những người Cộng sản, Ph.Ăngghen biên
soạn dự thảo Cương lĩnh của Liên đoàn dưới nhan đề: “Những nguyên lý của
chủ nghĩa Cộng sản”. Vấn đề soạn thảo Cương lĩnh dưới dạng cẩm nang
(dưới hình thức câu hỏi và câu trả lời) đã được thảo luận ngay từ trước Đại
hội lần thứ nhất. Tháng 9 năm 1847, Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn
những người Cộng sản ở Luân Đôn đã phân phát bản dự thảo “Cẩm nang về
chủ nghĩa Cộng sản” cho các khu bộ và chi bộ thuộc Liên đoàn. Văn kiện này
và cả bản dự thảo đã được chỉnh lý do M.Hétxơ, một người của phái “Chủ

nghĩa xã hội chân chính” soạn thảo tại Pari còn mang ảnh hưởng của chủ
nghĩa xã hội không tưởng nên không làm cho C.Mác và Ph.Ăngghen hài lòng.
Ngày 22 tháng 10, tại phiên họp của Ban chấp hành khu bộ Liên đoàn những
người Cộng sản tại Pari, Ph.Ăngghen đã phê phán kịch liệt bản dự thảo của
M.Hétxơ và đã bác bỏ bản dự thảo này. Ph.Ăngghen được giao soạn một dự
thảo mới. Bản dự thảo ấy chính là “Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng
sản” được viết sau đó không lâu.
Như vậy, tác phẩm ra đời từ tháng 5 năm 1846 đến tháng 3 năm 1848,
đây là thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác. Tác phẩm là cơ sở tiền đề cho bản
tuyên ngôn của phong trào cộng sản - “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.
1.2. Kết cấu và nội dung tư tưởng của tác phẩm
Tác phẩm được in trong C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Tập 4, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, năm 1995, từ trang 456 đến
trang 480. Tác phẩm được soạn thảo dưới hình thức cẩm nang, gồm 25 câu
hỏi và câu trả lời.


7

Sở dĩ tác phẩm được Ph.Ăngghen trình bày dưới dạng câu hỏi và câu
trả lời theo từng vấn đề là để hướng dẫn giai cấp vô sản nhận thức đúng
những quan điểm tư tưởng về con đường giải phóng giai cấp, xây dựng xã hội
mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, nội dung tác phẩm được trình bày
một cách toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nhà
nước pháp quyền, giai cấp …nhưng tập trung vào hai nội dung cơ bản là:
Trình bày những vấn đề kinh tế của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa và những vấn đề chính trị - xã hội như vấn đề nhà nước, giai cấp, đấu
tranh giai cấp…Sau đây là những nội dung chính về kinh tế chính trị học
được trình bày trong tác phẩm.
2. NỘI DUNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ TRONG TÁC PHẨM

2.1. Quan điểm của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa
cộng sản với tư cách là một phong trào, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một
hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một học thuyết.
Trong tác phẩm này, riêng câu hỏi thứ 1, Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề: Chủ
nghĩa cộng sản là gì? và Ông trả lời ngay rằng: “Chủ nghĩa cộng sản là học
thuyết về những điều kiện giải phóng giai cấp vô sản”. Thực chất là giải
phóng con người khỏi áp bức bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội công
bằng, bình đẳng, ở đó mọi người được phát triển tự do và toàn diện.
2.2. Quan niệm về giai cấp vô sản và điều kiện ra đời, tồn tại của
giai cấp vô sản
Quan niệm về giai cấp vô sản được Ph.Ăngghen đặt ra và trả lời trong
câu hỏi thứ 2. Ông cho rằng giai cấp vô sản là giai cấp chỉ kiếm sống bằng
bán sức lao động mà không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản
nào, số phận của họ phụ thuộc vào việc có bán được hay không bán được sức
lao động. Đó là giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự
sống còn của họ phụ thuộc vào sự chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm
ăn và bản thân công việc làm ăn đó lại phụ thuộc vào cuộc cạnh tranh không
gì ngăn cản nổi giữa những nhà tư bản. Đây là giai cấp lao động trong thế kỷ
XIX, họ là những người mất hết tư liệu sản xuất, cái sở hữu duy nhất là sức


8

lao động. Tuy nhiên, Ăngghen cũng cho rằng giai cấp vô sản không đồng nhất
với giai cấp nghèo đói, vì những người này có thể còn có chút tư liệu sản
xuất, còn công nhân sống trong điều kiện như trên, tức là những người vô sản
thì không phải lúc nào cũng có. Sự phân biệt này được Ăngghen trình bày ở
câu hỏi và câu trả lời thứ 3.
Về sự ra đời của giai cấp vô sản, sự xác lập địa vị thống trị của quan hệ

sản xuất tư bản chủ nghĩa Ph.Ăngghen cho rằng giai cấp vô sản là sản phẩm
của cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng này xảy ra đầu tiên ở nước
Anh vào nửa sau của thế kỷ XVIII, sau đó thì diễn ra ở tất cả các nước văn
minh trên thế giới. Sở dĩ có cuộc cách mạng đó là vì có sự phát minh ra máy
móc mà trước hết là máy hơi nước, máy kéo sợi…Chính sự ra đời của máy
móc đã làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay và
loại những người công nhân cũ. Máy móc thì rất đắt nên chỉ có những nhà tư
bản lớn mới dùng được. Hàng hoá do máy móc sản xuất ra thì rẻ và tốt hơn so
với hàng hoá do công nhân sản xuất ra bằng phương pháp thủ công. Chính
bằng cách đó máy móc đã trao toàn bộ công nghiệp vào tay các nhà tư bản lớn
và hoàn toàn làm giảm giá trị số tài sản nhỏ bé không đáng kể thuộc về công
nhân. Vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn nhà tư bản đã nắm hết thảy mọi cái
vào tay mình, còn công nhân thì không còn gì nữa. Máy móc và chế độ công
xưởng ra đời làm cho phân công lao động xã hội và sự chuyên môn hoá trong
sản xuất ngày càng sâu sắc, năng suất, chất lượng hàng hoá tăng cao, giá lại
rẻ, bằng cách ấy cuối cùng tất cả các ngành công nghiệp lần lượt chịu sự
khống chế của máy móc như đã từng xảy ra với ngành kéo sợi, dệt vải. Tất cả
các ngành công nghiệp ấy đã hoàn toàn chuyển vào tay các nhà tư bản lớn,
còn công nhân thì mất hết mọi tàn dư cuối cùng bảo đảm sự độc lập của họ.
Chế độ công xưởng ngày càng mở rộng sự thống trị của nó thay thế cho công
trường thủ công, tầng lớp trung gian trước đây nhất là những người thợ cả thủ
công hạng nhỏ ngày càng phá sản; địa vị trước đây của người sản xuất hoàn
toàn thay đổi và giai cấp tư sản, giai cấp vô sản mới được tạo ra dần dần cuốn
hút tất cả các giai cấp khác vào hàng ngũ của mình. Như vậy, chính nhờ sự ra
đời của máy móc đã làm thay đổi địa vị trước đây của người sản xuất dẫn đến


9

sự hình thành 2 giai cấp: tư sản và vô sản. Giai cấp những nhà tư sản lớn độc

chiếm mọi tư liệu sản xuất và cả tư liệu sinh hoạt. Giai cấp vô sản, những
người hoàn toàn không có của phải bán lao động của mình cho nhà tư bản để
đổi lấy những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Quan hệ giữa hai giai cấp là quan hệ
chủ thợ, quan hệ bóc lột và bị bóc lột, qua đó quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa ra đời và xác lập được địa vị thống trị của mình. Sự ra đời của giai cấp
vô sản được Ph.Ăngghen trình bày ở câu hỏi và câu trả lời thứ 4 trong tác
phẩm.
Ở câu hỏi và câu trả lời thứ 5, Ph.Ăngghen phân tích về hàng hoá sức
lao động thông qua việc làm rõ sự bán sức lao động của người vô sản cho nhà
tư bản. Theo Ăngghen, sức lao động cũng là một thứ hàng hoá giống như mọi
thứ hàng hoá khác, giá cả của nó cũng tuân theo quy luật giá trị. Chi phí sản
xuất ra sức lao động gồm có giá trị số lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết để
người công nhân có thể duy trì năng lực lao động của mình và để cho giai cấp
công nhân khỏi bị diệt vong. Vì là những người không có của nên người công
nhân phải trao đổi sức lao động của mình nhưng cũng không thể nhận nhiều
hơn số cần thiết cho mục đích trên. Ph.Ăngghen cho rằng tiền lương chính là
giá cả của sức lao động trong nền đại công nghiệp và cạnh tranh tự do sẽ hết
sức thấp, nó là mức tối thiểu để duy trì đời sống của người công nhân. Tuy
nhiên tình hình có lúc tốt, có lúc xấu nên người công nhân cũng có lúc lĩnh
được nhiều hoặc ít tiền lương nhưng tính trung bình thì số tiền lương mà họ
nhận được cũng không nhiều hơn và không ít hơn mức tối thiểu nói trên. Quy
luật kinh tế đó của tiền lương ngày càng được thực hiện một cách chặt chẽ khi
đại công nghiệp càng chiếm địa vị thống trị trong tất cả các ngành lao động.
Từ câu hỏi và câu trả lời thứ 6 đến câu hỏi và câu trả lời thứ 10,
Ăngghen phân biệt giai cấp vô sản với các giai cấp khác trong các xã hội
trước chủ nghĩa tư bản và với người công nhân công trường thủ công. Ông
phân tích rằng trước khi có cách mạng công nghiệp, trong thời cổ đại có
những người lao động là nô lệ của người chủ; thời trung cổ có người lao động
là nông nô của chúa đất quý tộc; từ thời trung cổ đến cách mạng công nghiệp
trong các thành thị còn có những người thợ thủ công làm việc cho người thợ



10

cả tiểu thị dân và cùng với sự phát triển của công trường thủ công xuất hiện
những công nhân công trường thủ công do các nhà tư bản lớn hơn thuê mướn.
Sự ra đời của các giai cấp lao động và địa vị của họ gắn liền với điều kiện
kinh tế - xã hội trong các giai đoạn lịch sử khác nhau so với các giai cấp có
của chiếm địa vị thống trị. Người vô sản khác người nô lệ ở chỗ: Người nô lệ
bị bán đi chỉ một lần thôi, là tài sản của người chủ nhất định, dù cùng cực thì
sinh hoạt của họ vẫn được bảo đảm, nô lệ đứng ngoài cạnh tranh, họ là thứ đồ
vật chứ không phải là một thành viên của xã hội công dân; người nô lệ muốn
tự giải phóng mình chỉ cần tiêu diệt một quan hệ nô lệ thôi. Ngược lại, người
vô sản tự bán mình từng ngày, từng giờ; họ là tài sản của toàn bộ giai cấp tư
sản, lao động (sức lao động) của họ chỉ bán được khi có người cần đến nên
sinh hoạt không được bảo đảm; người vô sản sống trong điều kiện của cạnh
tranh và chịu ảnh hưởng bởi tất cả các biến động của nó, họ được thừa nhận là
một cá nhân, một thành viên của xã hội công dân, thuộc về một xã hội có
trình độ phát triển cao hơn và do đó có trình độ cao hơn người nô lệ; người vô
sản chỉ có thể tự giải phóng được sau khi tiêu diệt được chế độ tư hữu nói
chung. Từ đây có thể suy luận rằng thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản là thủ tiêu
chế độ tư hữu cuối cùng đẻ ra chế độ người bóc lột người. Tiếp đó là sự so
sánh của Ph.Ăngghen về sự khác nhau giữa người vô sản và người nông nô.
Người nông nô có và được sử dụng công cụ sản xuất, phải nộp một phần thu
nhập của mình hay phải làm một số công việc, người nông nô phải đem nộp,
sinh hoạt của họ được bảo đảm và họ đứng ngoài cạnh tranh. Người nông nô
tự giải phóng hoặc bằng cách nào đó gia nhập vào hàng ngũ những người hữu
sản và đi vào cạnh tranh. Người vô sản thì làm việc bằng công cụ sản xuất của
người khác, để làm lợi cho người đó và nhận một phần thu nhập, họ được lĩnh
về nhưng sinh hoạt của họ không được bảo đảm; họ sống trong điều kiện của

cạnh tranh, họ tự giải phóng mình bằng cách tiêu diệt cạnh tranh, chế độ tư
hữu và mọi sự khác nhau về giai cấp. Người vô sản cũng khác với người công
nhân trong công trường thủ công ở chỗ: Công nhân trong công trường thủ
công họ ở khắp mọi nơi, đều có công cụ sản xuất như khung cửi, xa kéo sợi,
mảnh đất nhỏ, hầu như họ luôn sinh sống ở nông thôn, ít nhiều quan hệ có


11

tính chất gia trưởng với địa chủ, người giao việc. Ngược lại với người công
nhân trong công trường thủ công, người vô sản không có gì hết, phần nhiều
họ sống ở những đô thị lớn liên hệ với người giao việc bởi những quan hệ
thuần tuý tiền tệ. Đại công nghiệp đã kéo người công nhân công trường thủ
công ra khỏi điều kiện gia trưởng của họ, họ mất hết tài sản cuối cùng của họ
và chỉ khi đó họ mới trở thành người vô sản.
2.3. Ph.Ăngghen phân tích vai trò của đại công nghiệp với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và với sự phát triển của nhân loại
nói chung
Trước hết, Ph.Ăngghen cho rằng đại công nghiệp hay lao động bằng máy
móc đã cho phép nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Sự thay
thế lao động thủ công bằng lao động máy móc đã làm cho phân công lao động xã
hội ngày càng sâu, rộng mang tính xã hội hoá cao, chuyên môn hoá sâu. Cách
mạng công nghiệp cho ra đời những sản phẩm công nghiệp với giá ngày càng hạ
nên tác động làm rung chuyển và phá hoại hoàn toàn hệ thống công trường thủ
công hay hệ thống công nghiệp cũ xây dựng trên cơ sở lao động thủ công ở tất cả
các nước trên thế giới. Cách mạng công nghiệp làm cho những nước lạc hậu,
những nước mà công nghiệp vẫn dựa trên công trường thủ công, nửa dã man
phải từ bỏ tình trạng biệt lập, khép kín của mình và bắt đầu mua của người Anh
những sản phẩm hàng hoá rẻ hơn, làm cho công trường thủ công bị phá sản. Hơn
thế nữa, cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho những nước mà hàng chục thế

kỷ như Ấn Độ và ngay cả Trung Quốc cũng đang đi đến cách mạng. Như vậy,
đại công nghiệp phát triển đã xoá bỏ sự biệt lập khép kín của các quốc gia, ngay
cả những quốc gia phong kiến bảo thủ ở Phương Đông cũng bị lôi cuốn vào
vòng xoáy của đại công nghiệp, nhờ đó gắn kết các dân tộc lại với nhau, xoá bỏ
lạc hậu, thúc đẩy tiến bộ.
Đại công nghiệp còn làm cho thị trường dân tộc gắn với thị trường thế
giới, tạo ra thị trường thế giới thống nhất, các quốc gia đều phụ thuộc và lệ
thuộc vào nhau. Ánh sáng của văn minh, tiến bộ nhờ đó mà lan toả; chỉ cần
một sự kiện xảy ra ở các nước văn minh đều có thể ảnh hưởng tới tất cả các
nước khác. Thật vậy, đại công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất thế giới


12

phát triển, các nước không chỉ lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau về kinh tế – kỹ
thuật của sản xuất, cả đầu vào và đầu ra của nó mà còn lệ thuộc, phụ thuộc
vào nhau cả về mặt kinh tế -xã hội của sản xuất, tức quan hệ sản xuất. Do đó,
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tư bản mang tính xã hội hoá cao với quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tỏ ra lạc hậu có xu hướng kìm hãm sự phát
triển đó không còn là mâu thuẫn trong nòng từng nước mà đã trở thành mâu
thuẫn trong toàn bộ hệ thống các nước tư bản. Chính sự giải quyết mâu thuẫn
này làm cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân ở một nước trở thành sự
nghiệp giải phóng công nhân ở các nước; làm cho sứ mệnh của giai cấp vô
sản trở thành sứ mệnh toàn thế giới. Về vấn đề này được Ăngghen trả lời ở ý
thứ nhất của câu hỏi thứ 11, Ông viết: “Như vậy là nền đại công nghiệp đã
gắn liền tất cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau, đã thống nhất tất cả các
thị trường địa phương nhỏ bé thành một thị trường toàn thế giới, đã chuẩn bị
cơ sở, ở khắp nơi, cho văn minh và tiến bộ, đã làm cho tất cả những cái gì xảy
ra trong các nước văn minh đều có ảnh hưởng đến tất cả các nước khác”1.
Tiếp đó, vấn đề thứ hai trong phần trả lời câu hỏi thứ 11, Ph.Ăngghen

chứng minh đại công nghiệp phát triển không chỉ củng cố địa vị kinh tế của
giai cấp tư sản mà còn củng cố địa vị chính trị của nó làm cho nó trở thành
giai cấp thống trị trong xã hội tư bản. Bởi đại công nghiệp thay thế công
trường thủ công đã làm tăng thêm rất nhiều của cải và thế lực của giai cấp tư
sản, làm cho nó trở thành giai cấp thứ nhất trong nước. Nhờ sản xuất bằng
máy, năng suất lao động tăng, giá trị của hàng hoá giảm trong khi đó sản xuất
trong các công trường thủ công bằng các công cụ thủ công, năng suất lao
động thấp, giá thành sản phẩm cao không cạnh tranh nổi, tầng lớp trung lưu
phải phá sản. Cuối cùng ở tất cả các nơi xảy ra quá trình đó, giai cấp tư sản
đều nắm được chính quyền trong tay, gạt bỏ những tầng lớp trước đó vẫn giữ
quyền thống trị, thủ tiêu mọi quyền lực của tầng lớp quý tộc, phá tan mọi thế
lực của thị dân phường hội, mọi đặc quyền của thợ thủ công. Để thay thế tất
cả những cái đó, giai cấp tư sản đề ra tự do cạnh tranh, cái bảo đảm cho quyền

1

. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995, 462,463.


13

kinh doanh của giai cấp tư bản vào bất cứ ngành công nghiệp nào khi họ
muốn và sự bình đẳng trong xã hội chỉ còn là sự bình đẳng của số tư bản
ngang nhau. Vì vậy có thể khẳng định đại công nghiệp phát triển thúc đẩy tự
do cạnh tranh. Đại công nghiệp và tự do cạnh tranh là nguyên nhân và kết quả
của nhau, là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Ph.
Ăngghen đã khẳng định: “Nhưng cạnh tranh tự do là tất yếu đối với thời kỳ
phát triển ban đầu của đại công nghiệp, vì cạnh tranh tự do là một trạng thái
xã hội duy nhất trong đó đại công nghiệp có thể phát triển - tiêu diệt thế lực
xã hội của tầng lớp quý tộc và tầng lớp thị dân phường hội bằng cách đó, giai

cấp tư sản cũng đã tiêu diệt cả chính quyền của hai giai cấp đó. Sau khi trở
thành giai cấp thứ nhất trong xã hội, giai cấp tư sản tuyên bố mình là giai cấp
thứ nhất cả trong lĩnh vực chính trị”1.
Kết thúc phần trả lời câu hỏi thứ 11, vấn đề thứ ba, Ph.Ăngghen khẳng
định đại công nghiệp không chỉ làm cho giai cấp tư sản phát triển mà đồng thời
với nó là sự phát triển tương ứng của giai cấp vô sản và họ ý thức được sứ mệnh
của mình. Do đó, cách mạng công nghiệp đã chuẩn bị điều kiện cho cách mạng
xã hội mà giai cấp vô sản tiến hành. Sự phát triển của giai cấp vô sản không phải
chỉ dừng lại ở một địa phương, một quốc gia mà ở khắp mọi nơi có cách mạng
công nghiệp phát triển đều thúc đẩy giai cấp vô sản phát triển cùng với một tốc
độ phát triển của giai cấp tư sản. Sự đông đúc của giai cấp vô sản tỷ lệ thuận với
sự giàu có của giai cấp tư sản. Lý giải nguyên nhân này, Ph.Ăngghen phân tích:
“Vì chỉ tư bản mới có thể đem lại việc làm cho những người vô sản, và vì tư bản
chỉ có thể tăng thêm khi sử dụng lao động, cho nên tư bản lớn lên bao nhiêu thì
giai cấp vô sản cũng lớn lên bấy nhiều”2. Đồng thời, cách mạng công nghiệp tập
trung cả hai giai cấp tư sản và vô sản vào các thành thị lớn, vì ở đó công nghiệp
phát triển có lợi hơn. Nhờ tập trung đông đảo quần chúng vào một chỗ như vậy
đã làm cho vô sản nhận thức được sức mạnh của mình. Những máy móc mới
thay thế lao động thủ công tiếp tục được phát minh, nó càng gây áp lực với tiền
lương. Tiền lương càng giảm xuống đến mức tối thiểu, khiến cho tình cảnh của
1,2, Sđ d, tr 463, 464.


14

giai cấp vô sản ngày càng trở lên không sao chịu đựng nổi. Phân tích lô gíc đó
của sự phát triển đại công nghiệp, Ph.Ăngghen đi đến kết luận như một tất yếu
và niềm tin tưởng sâu sắc rằng: “Tóm lại, một mặt do sự bất mãn của giai cấp vô
sản ngày càng tăng, mặt khác do sức mạnh của giai cấp vô sản ngày càng lớn
cho nên cách mạng công nghiệp chuẩn bị điều kiện cho cuộc cách mạng xã hội

mà giai cấp vô sản sẽ tiến hành”1.
Trong câu hỏi thứ 12, Ph.Ăngghen đặt vấn đề: cách mạng công nghiệp
còn mang lại những hậu quả gì thêm nữa. Trả lời vấn đề này, Ph.Ăngghen cho
rằng: Đại công nghiệp phát triển mở rộng sản xuất với chi phí không nhiều,
trong môi trường tự do cạnh tranh dẫn đến sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu
dùng gây ra khủng hoảng thương nghiệp dẫn đến hậu quả kinh tế, xã hội xấu.
Cuộc khủng hoảng này mang tính chu kỳ, nó trở thành căn bệnh kinh niên của
chủ nghĩa tư bản, nó thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân, đe
doạ sự đổ vỡ của xã hội tư bản.
Trong câu hỏi thứ 13, Ăngghen rút ra kết luận từ những cuộc khủng
hoảng thương nghiệp tái diễn đều đặn ở trên, đó là tính chất ngày càng trầm
trọng của khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản do sự phát triển của đại
công nghiệp gây ra. Để khắc phục tình trạng đó, đòi hỏi phải xây dựng một
chế độ xã hội mới trong đó việc sản xuất không phải tiến hành riêng lẻ mà do
toàn thể xã hội thực hiện theo một kế hoạch vững chắc phù hợp với nhu cầu
của mọi thành viên trong xã hội. Ph.Ăngghen trình bày kết luận của mình trên
hai ý: Thứ nhất, đại công nghiệp đã tự mình tạo ra cạnh tranh tự do ở giai
đoạn phát triển ban đầu của nó, nhưng nay đã vượt quá cạnh tranh tự do; cạnh
tranh trong điều kiện những cá nhân riêng lẻ tiến hành sản xuất công nghiệp
vô hình lại trở thành xiềng xích trói buộc đại công nghiệp, sẽ gây ra tình trạng
rối loạn, cứ bảy năm một lần như thế sẽ đe dọa toàn bộ nền văn minh, ném
những người vô sản vào cảnh nghèo xác sơ và làm cho nhiều nhà tư sản phải
phá sản, từ đó đặt ra: “Do đó, hoặc phải từ bỏ đại công nghiệp - đó là điều
tuyệt đối không thể được, hoặc phải thừa nhận rằng đại công nghiệp làm cho

1

. Sdd, tr 465.



15

việc xây dựng một tổ chức xã hội mới trở thành một việc tuyệt đối cần thiết,
một tổ chức xã hội mới trong đó việc lãnh đạo sản xuất công nghiệp không
phải do từng chủ xưởng riêng lẻ cạnh tranh với nhau thực hiện nữa, mà do
toàn thể xã hội thực hiện theo một kế hoạch vững chắc và phù hợp với nhu
cầu của mọi thành viên trong xã hội”. Thứ hai, với khả năng mở rộng sản xuất
vô hạn, đại công nghiệp tạo ra điều kiện tất yếu cho phép xây dựng một chế
độ xã hội, ở đó mọi vật phẩm cần cho đời sống sẽ được sản xuất đến nỗi mỗi
thành viên xã hội đều hoàn toàn tự do phát triển và sử dụng mọi lực lượng,
mọi năng lực của mình. Ông rút ra nhận định rằng: “Cho nên, cái tính chất
của đại công nghiệp trong xã hội hiện thời là đẻ ra mọi sự nghèo đói và mọi
cuộc khủng hoảng thương nghiệp, thì đến một chế độ xã hội khác, chính tính
chất ấy lại trở thành tính chất thủ tiêu sự nghèo khổ đó và những sự biến động
đem lại tai hoạ đó” và có thể chứng minh rõ hai điều: “1, hiện nay tất cả mọi
tai hoạ đó đều chỉ do cái chế độ xã hội không còn phù hợp với điều kiện thời
đại nữa gây ra; 2, người ta đã có phương tiện để thủ tiêu triệt để những tai hoạ
đó bằng cách xây dựng nên một chế độ xã hội mới”1.
2.4. Ph.Ăngghen dự báo về sự ra đời và đặc trưng của xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Trong câu hỏi thứ 14, Ăngghen hỏi: Chế độ xã hội mới đó phải như thế
nào? Đọc phần trả lời của ông, thấy xã hội mới toát nên các đặc trưng: Việc
sản xuất do toàn thể xã hội quản lý, tiến hành vì lợi ích chung, theo một kế
hoạch chung, với sự tham gia của mọi thành viên trong xã hội; triệt tiêu cạnh
tranh, thay cạnh tranh bằng hợp tác. Lý giải vấn đề này Ông cho rằng việc
quản lý công nghiệp và các ngành sản xuất nói chung không thể nằm trong
tay từng cá nhân riêng lẻ cạnh tranh với nhau. Vì từng cá nhân riêng lẻ kinh
doanh công nghiệp sẽ đem lại hậu quả tất yếu của chế độ tư hữu và vì cạnh
tranh không phải là cái gì khác mà là một phương thức kinh doanh công
nghiệp khi công nghiệp do những người tư hữu riêng lẻ quản lý, cho nên chế

độ tư hữu không thể tách rời cá nhân kinh doanh công nghiệp và tách rời cạnh

1

. Sdd, tr 466.


16

tranh được. Do đó, trong xã hội mới: “Chế độ tư hữu cũng phải được thủ tiêu
và phải được thay thế bằng việc sử dụng chung tất cả mọi công cụ sản xuất và
việc phân phối sản phẩm theo sự thoả thuận chung, tức là bằng cáí mà mọi
người gọi là sự cộng đồng về tài sản”1. Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn
tắt và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội và việc cải tạo này
cũng là kết quả tất yếu của sự phát triển công nghiệp.
Ở câu hỏi và trả lời thứ 20 và thứ 21, Ph.Ăngghen bước đầu khái quát
cho chúng ta một bức tranh tổng thể về xã hội cộng sản tương lai. Đó là
những dự báo được phân tích có cơ sở khoa học dựa vào sự phát triển của đại
công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản làm cho lực lượng sản xuất tư bản không
tương thích với quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng xích trói buộc sự phát
triển của nó và cách mạng vô sản sẽ nổ ra để xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Ph.Ăngghen dự báo: Xã hội mới ra đời được kế thừa
một nền sản xuất ở vào trình độ tiên tiến, hiện đại và có những đặc trưng sau:
- Việc sản xuất, phân phối, trao đổi được tiến hành theo kế hoạch trên
quy mô toàn xã hội, mọi hậu quả tai hại gắn với chế độ quản lý đại công
nghiệp hiện thời sẽ bị thủ tiêu trước hết.
- Xoá bỏ khủng hoảng kinh tế, nghèo đói, bất công; đảm bảo thoả mãn
nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, sẽ làm nảy sinh những nhu cầu mới
và tạo ra những phương tiện cho phép thoả mãn những nhu cầu đó.
- Đại công nghiệp thoát khỏi xiềng xích của chế độ tư hữu sẽ phát triển

với quy mô chưa từng có. Do đó, có điều kiện để thoả mãn nhu cầu của mọi
thành viên trong xã hội. Trong nông nghiệp cũng xảy ra tình trạng tương tự
như trong công nghiệp.
- Xoá bỏ giai cấp và mọi sự đối lập về giai cấp.
- Phát triển một cách tương xứng năng lực của con người với phương tiện
hiện đại. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự
phát triển mới của nền sản xuất sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới và xã
hội sẽ tạo nên những con người đó. Vì vậy nền công nghiệp do toàn xã hội thực

1

. Sdd, tr 467.


17

hiện một cách tập thể và có kế hoạch càng cần có những con người có năng lực
phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất.
- Con người, mọi thành viên trong xã hội được phát triển toàn diện
năng lực, mọi người bình đẳng hưởng thụ của cải do xã hội làm ra. Sự liên
hợp tất cả mọi thành viên trong xã hội nhằm mục đích cùng nhau khai thác
lực lượng sản xuất một cách có kế hoạch. Công tác giáo dục sẽ làm cho
những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống
sản xuất trong thực tiễn; làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất
này sang ngành sản xuất khác tuỳ theo nhu cầu của xã hội và tuỳ theo sở thích
của bản thân.
- Xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; cuối cùng là sự hoà
hợp giữa thành thị và nông thôn. “Cũng những con người ấy sẽ làm cả lao
động nông nghiệp lẫn lao động công nghiệp chứ không phải giao hai công
việc cho hai giai cấp khác nhau”.

Về vấn đề chế độ cộng sản sẽ ảnh hưởng như thế nào đến gia đình. Trả
lời câu hỏi thứ 21, Ph.Ăngghen nói rất rõ: “Quan hệ nam nữ sẽ trở thành một
công việc hoàn toàn tư nhân, chỉ thuộc về những người hữu quan và xã hội
không cần phải can thiệp vào…Tổ chức cộng sản chủ nghĩa không những
không đưa lại sự cộng thê mà trái lại còn tiêu diệt sự cộng thê”1.
2.5. Tính tất yếu khách quan phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, biện pháp và bước đi thủ tiêu chế độ tư hữu
Những vấn đề trên được Ph.Ăngghen phân tích ở một loạt các câu hỏi
và câu trả lời, từ câu hỏi thứ 15 đến câu hỏi thứ 18. Ở câu hỏi và trả lời thứ
15, Ph.Ăngghen phân tích về sự cần thiết phải thủ tiêu chế độ tư hữu thông
qua việc đặt vấn đề: Phải chăng như vậy có nghĩa là trước đây, không thể thủ
tiêu được chế độ tư hữu? Ông khẳng định ngay: Đúng. Sự thủ tiêu chế độ tư
hữu cũng như sự ra đời của nó và xây dựng chế độ công hữu phải tuân thủ
yêu cầu của quy luật kinh tế khách quan, quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước đây

1

. Sdd, tr 475, 476.


18

không thể thủ tiêu được chế độ tư hữu, vì: “Bất cứ một sự thay đổi nào của
chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là
kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù
hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa. Bản thân chế độ tư hữu cũng ra đời như
vậy”. Ph.Ăngghen cho rằng vấn đề là ở chỗ không phải khi nào cũng có chế
độ tư hữu và chứng minh qua các thời kỳ lịch sử. Vào cuối thời trung cổ, khi
phương thức sản xuất mới – không chứa nổi trong khuôn khổ của chế độ sở

hữu phong kiến và phường hội lúc bấy giờ, xuất hiện dưới hình thức công
trường thủ công thì công trường thủ công đã vượt quá quan hệ sở hữu cũ, tạo
cho nó một hình thức sở hữu mới, chế độ tư hữu. Chứng minh theo lô gíc này,
Ông kết luận: “Đối với công trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển
ban đầu của đại công nghiệp, không thể có hình thức sở hữu nào khác ngoài
quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào khác ngoài chế độ xã hội xây
dựng trên cơ sở tư hữu. Chừng nào chưa thể sản xuất với quy mô có thể
không những đủ cung cấp cho mọi người mà còn có thừa sản phẩm để tăng
thêm tư bản xã hội và phát triển lực lượng sản xuất hơn nữa, thì chừng đó,
luôn luôn còn phải có một giai cấp thống trị chi phối lực lượng sản xuất xã
hội, và một giai cấp nghèo đói bị áp bức. Đó là những giai cấp nào, điều này
tuỳ ở trình độ phát triển của sản xuất”1. Để làm rõ hơn kết luận của mình,
Ph.Ăngghen chứng minh từ thời kỳ trung cổ cho đến thời kỳ công trường thủ
công trong thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất vẫn chưa phát triển đến mức khiến
cho có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người, và khiến cho chế độ tư hữu
trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của lực lượng sản xuất đó. Tuy
nhiên cho đến nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất do đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa tạo ra đã vượt quá chế độ tư hữu, do đó mà việc thủ tiêu chế độ
tư hữu là có thể thực hiện được và hoàn toàn cần thiết. Về vấn đề này Ông
nói: “Nhưng hiện nay, nhờ sự phát triển của đại công nghiệp nên thứ nhất, tư
bản và lực lượng sản xuất đã được tạo ra với quy mô chưa từng có, và người
ta đã có phương tiện để, trong một thời gian ngắn phát triển lực lượng sản

1

. Sdd, tr 467-468.


19


xuất đó một cách vô hạn. Thứ hai, các lực lượng sản xuất đó tập trung trong
tay một số ít nhà tư sản, còn đông đảo quần chúng nhân dân thì ngày càng trở
thành vô sản; hơn nữa của cải của tư sản ngày càng tăng thì tình cảnh của
quần chúng nhân dân càng trở nên nghèo đói và không sao chịu nổi. Thứ ba,
những lực lượng sản xuất mạnh mẽ dễ tăng thêm đó đã vượt quá chế độ tư
hữu và nhà tư sản đến mức là nó luôn luôn gây ra những sự chấn động hết sức
mạnh mẽ trong chế độ xã hội. Cho nên, chỉ có ngày nay, việc thủ tiêu chế độ
tư hữu mới trở thành không những là điều có thể thực hiện được, mà thậm chí
còn là điều hoàn toàn cần thiết”.
Về bước đi của thủ tiêu chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu,
trong câu hỏi thứ 17, Ông đặt vấn đề: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay
lập tức được không? Câu trả lời của Ph.Ăngghen là: Không, không thể được.
Như vậy, việc thủ tiêu chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu phải tiến
hành dần dần, từng bước, lâu dài trên cơ sở tôn trọng quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
không thể dùng biện pháp hành chính, nôn nóng, chủ quan, duy ý chí. Điều
này đã được Ph.Ăngghen giải thích rất rõ rằng: “cũng y như không thể làm
cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây
dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô sản
đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện
nay một cách dần dần, và chỉ khi nào tạo nên được một khối lượng tư liệu sản
xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”1.
Về biện pháp để thủ tiêu chế độ tư hữu: Ở câu hỏi thứ 16, Ph.Ăngghen
nêu vấn đề có thể thủ tiêu chế độ tư hữu bằng biện pháp hoà bình được
không? ở phần trả lời, Ông cho rằng có thể thủ tiêu chế độ tư hữu bằng biện
pháp hoà bình và những người cộng sản chính là những người sau cùng phản
đối việc đó. Như vậy, thủ tiêu chế độ tư hữu bằng biện pháp hoà bình là biện
pháp có thể thực hiện được và là điều mong muốn. Nhưng Ông cũng nhấn
mạnh rằng không thể làm cách mạng theo ý muốn chủ quan, tuỳ tiện mà phải
xuất phát từ yêu cầu, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng. Bởi vì, trên thực tế sự

phát triển của giai cấp vô sản ở hầu khắp tất cả các nước văn minh đều bị đàn
áp bằng bạo lực, như vậy tức là kẻ thù của những người cộng sản, giai cấp tư
1

. Sdd, tr 469.


20

sản đã gắng hết sức làm việc cho cách mạng. Cuối cùng tất cả những điều đó
thúc đẩy giai cấp vô sản làm cách mạng thì họ sẽ bảo vệ sự nghiệp của giai
cấp bằng hành động. Hành động của giai cấp vô sản trong cách mạng, chúng
ta cần hiểu đó không phải là biện pháp hoà bình nữa mà là biện pháp đối lập
với hoà bình, bạo lực cách mạng.
Trả lời câu hỏi thứ 18, Ăngghen đã chỉ ra những bước đi và biện pháp
cụ thể. Trước hết, giai cấp vô sản phải xác lập được quyền thống trị về chính
trị của mình và dùng quyền đó để thi hành những biện pháp rộng rãi, trực tiếp
hay gián tiếp đánh vào chế độ tư hữu. Nhưng những biệp pháp này,
Ph.Ăngghen cho đó là những biện pháp chủ yếu nhất và xuất phát từ những
điều kiện cụ thể thời Ph.Ăngghen. Theo đó, từ đây có thể suy luận là khi
những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội đã có sự thay đổi thì những biện
pháp mà giai cấp vô sản áp dụng để xoá bỏ chế độ tư hữu có thể phải thay đổi.
Sự thay đổi ấy như thế nào, cụ thể ra sao còn phụ thuộc vào điều kiện hoàn
cảnh cụ thể của từng quốc gia và vấn đề cơ bản là giai cấp vô sản ở đó có
nhận thức đúng đắn và đầy đủ các quy luật kinh tế khách quan để vận dụng cụ
thể vào một hoàn cảnh cụ thể hay không. Lời Ph.Ăngghen khẳng định:
“Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp
tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản…Đối với giai cấp vô sản,
chế độ dân chủ sẽ trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập
tức làm phương tiện để thi hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào

chế độ tư hữu và bảo đảm sự tồn tại của giai cấp vô sản. Những biện pháp chủ
yếu nhất, tất yếu xuất phát từ những điều kiện hiện nay”1.
Ph.Ăngghen đưa ra 12 biện pháp cụ thể để thủ tiêu chế độ tư hữu, như:
1, Hạn chế quyền tư hữu…; 2, Dần dần tước đoạt bọn chiếm hữu ruộng đất,
bọn chủ xưởng…một phần bằng sự cạnh tranh của công nghiệp nhà nước,
một phần trực tiếp bằng cách chuộc lại bằng tiền giấy; 3, Tịch thu tài sản của
tất cả những kẻ chạy trốn ra nước ngoài…; 4. Tổ chức lao động hay giao việc
cho những người vô sản trong nông trường, nhà máy, công xưởng quốc
gia…;5, Thực hiện nghĩa vụ lao động đối với mọi người…; 6, Tập trung hệ
thống tín dụng và việc buôn bán bằng tiền vào tay nhà nước…7, Tuỳ theo
1

. Sdd, tr 470.


21

việc tăng thêm vốn và số lượng công nhân mà tăng thêm số lượng máy
móc…; 8, Đưa trẻ em vào giáo dục trong các cơ quan nhà nước với sự đài thọ
của nhà nước, kết hợp giáo dục với lao động trong công xưởng; 9, Xây dựng
những cung lớn làm chỗ ở chung cho các công xã, kết hợp tốt lối sống thành
thị và nông thôn. 10, Phá bỏ tất cả những ngôi nhà, khu nhà ở không hợp vệ
sinh, chất lượng xây dựng kém…; 11, Con trong và ngoài giá thú có quyền
thừa kế tài sản như nhau; 12, Tập trung toàn bộ công việc vận tải vào trong
tay nhà nước. Theo Ông những biện pháp trên cũng không thể tiến hành tất cả
ngay trong một đợt, dù là trực tiếp nhưng vẫn phải tiến hành dần dần từng
bước, đồng thời đi liền với nó là xây dựng chế độ công hữu và khi nào toàn
bộ tư bản, toàn bộ sản xuất, toàn bộ việc trao đổi đã tập trung vào trong tay
nhà nước thì chế độ tư hữu sẽ tự tiêu vong, tiền tệ sẽ trở thành thừa…và con
người sẽ thay đổi đến mức tất cả những hình thức cuối cùng của quan hệ xã

hội cũ có thể biến mất đi.
2.6. Ph.Ăngghen dự báo về cuộc cách mạng vô sản
Cuộc cách mạng vô sản không chỉ có tính chất dân tộc mà còn có tính chất
quốc tế, trước hết nó sẽ đồng thời nổ ra ở các nước văn minh và cuộc cách mạng đó
phát triển nhanh hay chậm là tuỳ thuộc ở chỗ nước nào có công nghiệp phát triển
hơn, tích luỹ được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất hơn. Ông lấy
hai nước công nghiệp là nước Đức và nước Anh có trình độ phát triển công nghiệp
khác nhau để so sánh, nước Đức cách mạng vô sản thực hiện chậm hơn và khó
khăn hơn, còn nước Anh thì nhanh hơn và dễ dàng hơn. Về tầm ảnh hưởng của
cuộc cách mạng vô sản, Ông nói: “Cách mạng vô sản cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến các nước khác trên thế giới, nó sẽ làm thay đổi hoàn toàn và thúc đẩy cực kỳ
nhanh chóng tiến trình phát triển trước kia của các nước đó. Nó là một cuộc cách
mạng có tính chất toàn thế giới và vì vậy nó sẽ có một vũ đài toàn thế giới”1. Sở dĩ
có cuộc cách mạng vô sản và tính chất quốc tế của nó là do đại công nghiệp phát
triển tạo ra sự kết nối và sự phụ thuộc, tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc, san bằng
sự phát triển giữa các nước; nó có thể đồng thời nổ ra ở các nước văn minh mà
không phải chỉ ở một nước, một dân tộc. Vấn đề trên được Ph.Ăngghen trình bày ở
1

. Sdd, tr 472.


22

câu hỏi và trả lời thứ 19.
2.8. Phân biệt người cộng sản khác với người xã hội chủ nghĩa và
thái độ của người cộng sản với các chính đảng khác.
Trước khi đi vào phân biệt người cộng sản với người xã hội chủ nghĩa
và thái độ của họ với các chính đảng khác, Ph.Ăngghen đã đặt ra hai vấn đề: ở
câu hỏi thứ 22 và 23 nói về thái độ của tổ chức cộng sản đối với các dân tộc

và các tôn giáo hiện đương tồn tại đã được Ông trả lời nhưng hiện nay bản
thảo không còn được giữ lại. Sự phân biệt người cộng sản với người xã hội
chủ nghĩa, trong trả lời câu hỏi thứ 24, Ông chia ra làm ba loại người xã hội
chủ nghĩa. Loại thứ nhất là những người ủng hộ xã hội phong kiến và gia
trưởng càng ngày càng bị tiêu diệt bởi đại công nghiệp và thương nghiệp thế
giới, người cộng sản bao giờ cũng kiên quyết đấu tranh với loại người xã hội
chủ nghĩa phản động này. Loại thứ hai gồm những người ủng hộ xã hội hiện
nay, nhưng lại lo sợ và muốn xoá bỏ những tai hoạ do xã hội hiện tại, tức xã
hội tư bản chủ nghĩa sản phẩm của đại công nghiệp và cạnh tranh tự do. Với
loại người này, người cộng sản cũng phải đấu tranh không mệt mỏi chống
những người xã hội chủ nghĩa tư sản đó. Cuối cùng loại thứ ba gồm những
người xã hội chủ nghĩa dân chủ, họ đi theo con đường của những người cộng
sản nhưng chỉ muốn thực hiện một phần những biện pháp nêu ra và không coi
đó là những biện pháp quá độ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản mà coi đó là những
biện pháp đầy đủ để xoá bỏ cảnh nghèo nàn và những tai hoạ của xã hội
đương thời; cho nên trong quá trình hoạt động, người cộng sản sẽ liên hiệp
với những người xã hội chủ nghĩa dân chủ, phải cố sức duy trì chính sách
chung với họ, chỉ cần họ không phục vụ giai cấp tư sản thống trị và không tấn
công người cộng sản.
Về thái độ của người cộng sản với các chính đảng khác là khác nhau ở
trong các nước khác nhau như Anh, pháp, Bỉ, Mỹ, Đức được Ph.Ăngghen trả
lời ở câu hỏi thứ 25.
3. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Ra đời cách đây hơn 160 năm nhưng những tư tưởng, quan điểm của
Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản trong tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, là


23

ngọn cờ đưa đường chỉ lối cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng định ngay từ đầu khi viết tác phẩm, Chủ
nghĩa cộng sản là học thuyết về những điều kiện giải phóng giai cấp vô sản.
Những điều kiện ấy không phải từ trên trời rơi xuống mà trái lại nó được hình
thành chính ngay trên mảnh đất hiện thực của chủ nghĩa tư bản. Chính sự phát
triển của đại công nghiệp và cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa đã làm xuất
hiện giai cấp tư sản áp bức thống trị trong xã hội tư bản và giai cấp của những
người vô sản bị áp bức thống trị. Sự phát triển của đại công nghiệp trước hết
là ở những nước văn minh sau đó nan tràn ra tất cả các dân tộc, đã kết nối tất
cả các dân tộc, các thị trường địa phương nhỏ bé thành thị trường toàn thế
giới, khiến cho tất cả những gì xảy ra ở một nước văn minh đều có thể ảnh
hưởng tới các dân tộc khác. Sự phụ thuộc, lệ thuộc vào nhau của các nước là
rất lớn. Nhờ sức mạnh của đại công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất tư bản
mang tính xã hội hoá cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đang có xu hướng kìm hãm sự phát
triển của nó. Biểu hiện của mâu thuẫn này về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giải quyết mâu thuẫn đó phải bằng một
cuộc cách mạng vô sản và cuộc cách mạng này trong thời đại cách mạng công
nghiệp nó không chỉ có tính chất dân tộc mà còn có tính chất quốc tế. Vì vậy,
dưới ánh sáng soi đường của học thuyết giải phóng giai cấp mình, giai cấp vô
sản toàn thế giới phải đoàn kết lại để lật đổ giai cấp tư sản thống trị thế giới.
Trong bối cảnh hiện nay, dưới sự tác động nhiều chiều của toàn cầu hoá kinh
tế và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện
đại làm cho tính chất toàn cầu của những vấn đề kinh tế – xã hội thế giới ngày
càng sâu sắc. Những vấn đề phức tạp về kinh tế - xã hội của thế giới do chính
sự phát triển của đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa tạo ra và chủ nghĩa tư bản
cũng không thể một mình giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong lòng
xã hội của nó cũng như những vấn đề của nhân loại. Sự chung tay của loài
người để giải quyết những vấn đề này chính là điều kiện để tập hợp sức mạnh
của giai cấp vô sản, loài người tiến bộ đấu tranh cho một xã hội tiến bộ.
Đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, lý luận của Ph.Ăngghen về



24

chủ nghĩa cộng sản là cơ sở khoa học để chúng ta nhận thức và vận dụng giải
quyết những vấn đề thực tiễn công cuộc đổi mới của Đảng đang đặt ra. Hiện nay,
nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, do đó những nhiệm vụ kinh tế cơ bản mà Đảng và nhân dân ta phải thực
hiện để đạt tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh” là rất nặng nề. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nước ta là nhiệm vụ kinh
tế cơ bản xuyên suốt của cả thời kỳ quá độ. Bởi vì nếu không tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nước ta không thể có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
của chủ nghĩa xã hội; không có điều kiện vật chất cần thiết để đáp ứng nhu cầu
ngày càng đầy đủ và chính đáng của nhân dân, ổn định chính trị – xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh. Do đó, những tư tưởng của Ph.Ăngghen về vai trò của đại
công nghiệp với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và sự phát triển của
nhân loại nói chung là nền tảng lý luận cần thiết, rất bổ ích chỉ đạo sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Là nước đi sau nên để đuổi kịp các nước văn
minh, xuất phát từ thực tiễn nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay mà sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức càng trở
thành nhiệm vụ cấp bách và cũng là mục tiêu cơ bản lâu dài của đất nước. Đồng
thời đó cũng là cơ sở để chúng ta đấu tranh với những quan điển sai trái cho rằng
thế giới hiện nay chưa có quốc gia nào đạt tới trình độ kinh tế tri thức mà Đảng ta
đã đặt vấn đề phát triển kinh tế tri thức là nôn nóng, chủ quan. Không phải như
vậy, mà chỉ có trên cơ sở lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại, chúng ta mới xây
dựng được quan hệ sản xuất tiến bộ làm nền tảng cho chế độ xã hội mới, nền kinh
tế mới. Từ lý luận của Ph.Ăngghen về xoá bỏ chế độ tư hữu và xây dựng chế độ
sở hữu công cộng, chúng ta càng nhận thức sâu sắc rằng không thể nôn nóng, chủ
quan, duy ý chí thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực, tức là trình độ lực lượng sản
xuất của nước ta. Vì vậy, trong tiến trình xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ

việc thực hiện đa dạng hoá chế độ sở hữu, hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và
theo đó là nền kinh tế với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với quy luật
kinh tế khách quan cũng như thực tiễn kinh tế đất nước. Chính sự phát triển lực
lượng sản xuất của nhân loại mà trước hết ở các nước tư bản phát triển nhờ cuộc
cách mạng công nghiệp đã phát triển ở trình độ cao dẫn đến quá trình toàn cầu hoá


25

kinh tế, vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực tới mọi quốc gia trên thế
giới. Để phát triển đất nước, chúng ta không thể đứng ngoài quá trình này. Vì vậy,
đường lối mở cửa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ chính là để nước ta phát huy lợi thế so sánh, kết hợp nội lực và ngoại
lực, biến thách thức trở thành cơ hội phát triển. Ngay trong tác phẩm, Ph.Ăngghen
đã phân tích tầm tác động sâu rộng, nhiều chiều của đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, nó là cơ sở lý luận cho đường lối mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là thông qua nghiên cứu tác phẩm này cần
nắm chắc những quan điểm tư tưởng của Ph.Ăngghen không những để phục vụ
việc phổ biến truyền bá sâu rộng trong quần chúng mà còn biết vận dụng để xem
xét những vấn đề thực tiễn của cách mạng, đấu tranh chống lại những quan điển
sai trái bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối quan điểm của Đảng ta.

TÁC PHẨM


×