Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

VAI TRÒ của các yếu tố đối với sự HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH LIÊN hệ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.88 KB, 5 trang )

VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ ĐỐI VỚI
SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Nhân cách là một trong những vấn đề quan trọng trong Tâm lý học được các nhà tâm lý cũng nh ư các tác giả ở các
lĩnh vực khoa học khác quan tâm nghiên cứu. Từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, con người chúng ta trải qua những
giai đoạn phát triển khác nhau. Ở mỗi giai đoạn, chúng ta đều để lại những dấu ấn mang tính đặc trưng, khác biệt so với
mọi người và được xã hội nhìn nhận, đánh giá một cách tổng thể. Tổ hợp những đặc trưng đó còn được gọi là tổ hợp các
thuộc tính tâm sinh lý (nhân cách). Sau đây em xin trình bày về đề tài “ Phân tích vai trò của các yếu tố đối với
sự hình thành, phát triển nhân cách. Liên hệ với thực tiễn ”

I.Khái niệm về nhân cách
Nhân cách được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thuộc nhiều nghành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có
khoa học tâm lý. Ta có thể định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm sinh lý của cá nhân thể
hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị của người ấy”.
Từ định nghĩa trên cho ta thấy,chỉ có thể dùng nhân cách cho con người và chỉ từ một giao đoạn phát triển nhất định nào
đó. Vì thế người ta không nói “ nhân cách của con vật” hay “ nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh, một trẻ hai tuổi”. Nhưng
lại có thể nói đến nhân cách của 1 học sinh tiểu học, nhân cách của 1 sinh viên. Con người được sinh ra chua phải đã là
một nhân cách, mà trong quá trình sinh sống và hoạt , giao lưu của mình trong xã hội, con người mới trở thành một nhân
cách.

II. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách


Theo quan điểm tâm lý học Mácxít thì nhân cách không có sẵn và cũng không phải nó được bộc lộ dần các bản năng
nguyên thủy. Nhân cách là cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong quá trình sống, giao tiếp, vui chơi, lao động…của mỗi
con người. Như V.I Lênin đã khằng định “ Cùng dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là
thành viên”[1]. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố : yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi
trường, giáo dục, giao tiếp, hoạt động.

1. Yếu tố bẩm sinh - di truyền có vai trò tạo tiền đề vật


chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng xương bằng thịt mà nhân cách của một con người cụ
thể sống trong xã hội cụ thể. Theo sinh vật học hiện đại, Di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống đảm bảo sự tái
tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi
của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.
Trong khi đó những đặc điểm giải phẫu sinh lí của cá thể ngoài những yếu tố do di truyền tạo nên, còn có những yếu tố
riêng tự tạo do sự vận động và phát triển của cá thể. Những yếu tố đó đối với con người có ngay từ trong môi trường bào
thai của mẹ. Chính vì vậy, một cá thể vừa mang đặc điểm giải phẫu sinh lí của cha mẹ vừa có những cái riêng của nó.
Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với
mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường
di truyền, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và các chức năng của các giác quan và não.
Ví dụ: Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ là ca sỹ, nhạc sỹ thì nó sẽ có cơ hội và khả năng trở thành một
người hoạt động nghệ thuật khi trưởng thành, cộng với việc bố mẹ nó phát triển và bồi dưỡng từ nhỏ khả năng tiềm tàng
của bộ máy phân tích âm thanh, phát triển giọng.
Theo quan điểm tâm lí học Mácxít “di truyền và những đặc điểm sinh học của nó không quyết định chiều hướng cũng như
giới hạn phát triển của nhân cách. Mắc dù có thể nó ảnh hưởng mạnh tới quá trình hình thành tài năng, xúc cảm… trong
giai đoạn đầu của quá trình phát triển con người nhưng nó chỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân
cách”[2]

2. Yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống
và phát triển của con người. Môi trường chia thành 2 loại: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

2.1 Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách
Để hình thành nên nhân cách của con người thì trước tiên vẫn phải trải qua các yếu tố của hoàn cảnh tự nhiên, nó như là
các nền vốn có quy định ít nhiều tính cách của con người.
Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc sống trên một vùng lãnh thổ nhất định, có cái đọc đáo của hoàn cảnh địa lí : ruộng đồng
và khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh…Những điều đấy quy định về đặc điểm của các



dạng, các nghành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp( tức là phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một
số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định.
Cho nên có thể nói rằng, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức
sống.
Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồ gốc điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lí
nào đó của bản địa, của nghề nghiệp cũng có thể được hiểu theo lôgic ấy. Nhân cách như là một thành viên xã hội, chịu
ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của
địa phương, của nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương thức sống của chính bản
thân nó.
Ví dụ: Người dân vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nước ta có truyền thống trồng lúa nước, cây
lúa nước không đơn thuần là một cây nông nghiệp mà từ xa xưa nó đã trở thành biểu tượng của nền nông nghiệp 2 vùng
này. Người dân không chỉ có kinh nghiệm trồng lúa nước, tâm lý gắn bó với cây lúa nước mà còn có những hoạt động văn
hóa, nghệ thuật liên quan đến cây lúa nước. Sở dĩ có điều này là bởi nơi đây có điều kiện tự nhiên cho việc trồng lúa nước
( có 2 cong sông lớn chay qua, địa hình bằng phẳng…)

2.2 Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự phát
triển tâm lí nhân cách
Nếu không có sự tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc trong một xã hội quá đơn điệu thì cơ thẻ sẽ lớn lên và phát
triển trong trạng thái của động vật hoặc sẽ nghèo nàn về tâm lí, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sĩ Sing người Ấn Độ có
kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong
xó nhà, đem đén thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi bằng 2 chân nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng 4 chân
khá nhanh. Người ta dạy nói Kamala trong4 năm nhưng cô chỉ nói được 2 từ. Cô khổng thể thành người thực sự và 18 tuổi
thì cô qua đời. Sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét của C.Mác “ trong tính hiện thức của nó, bản chất
con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội ” hay “ hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong chừng mực mà con
người đã sang tạo ra hoàn cảnh” [3]
Như vậy, nhân cách là một sản phẩm của xã hội. Đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để
lắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời
đại.
Quan hệ sản xuất: Quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ

chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ khác trong vai trò
xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lí tưởng phụ thuộc không ít vào vai trò ấy. Ví dụ:Người có địa vị cao như các chính trị gia, các
nhà nghiên cứu, lãnh đạo…sẽ có nhu cầu, hứng thú khác với nông dân, sinh viên…
Đặc tính của quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị pháp luật biểu hiện qua hệ tư tưởng đạo đức và ở những mức độ khác
nhau qua phong tục và tập quán.


Trong môi trường xã học ta còn thấy những hiện tượng tâm lý xã hội quần chúng khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí
nhân cách. Dư luận và tâm trạng chung, đó là sự phán xét đánh giá của sự đông người về sự kiện đời sống xã hội của hoạt
động tập thể của hành vi các nhân. Dư luận được hình thành thầm lặng hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay
tiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh
hưởng trở lại tâm trạng đó.
Tâm trạng chung: Bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan – sức phấn đấu chung của nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh
hưởng của tâm trạng chung đó. Ví dụ: lời nói, cử chỉ, việc làm, cách nhìn, nếp nghĩ… ta có thể thấy tâm trạng chung của
một gia đình, nhóm bạn thế hệ dân tộc…
Thi đua: Là phương thức tác động qua lại giữa 2 cá nhân, nhóm và tập thể làm tăng kết quả hoạt động của nhau. Nhiều
phẩm chất nhân cách, tập thể được phát triển qua thi đua. Ví dụ: Thi đua trong lớp học nhằm đạt kết quả cao trong học tập,
thúc đẩy mỗi thành viên cần nỗ lực học tập.
Bắt trước: Thể hiện ra trong mọi lĩnh vực cuat đời sống( vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp) bắt trước diễn ra một cách
có ý thức hay không có ý thức, bắt trước trong cách giao tiếp, ngôn ngữ, trong ăn mặc…

3. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách
Môi trường xã hội tác động đến mỗi cá nhân một cách tự phát và tự giác nhưng chủ yế bằng con đường tự giác là giáo dục.
Theo quan điểm của tâm lí học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội
trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm sau:
- Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát
triển nhân cách theo hướng đó.

- Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
- Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người.
- Giáo dục uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tắc động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát
triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
- Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng tới cá nhân ở mức độ hiện có
của nó.
Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng : Sự phát triển tâm lý của
trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của sự dạy học và giáo dục. Điều này được chứng mình
bằng cả lịch sử phát triển của loài người: Trên thế giới chưa từng có một nhà bác học, một danh nhân, một thiên tài nào lại
chưa hề qua giáo dục của nhà trường cả. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, song
không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục. Giáo dục không phải là vạn năng, bởi vì giáo dục cũng chỉ vạch ra phương


hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hướng
đó.
Như vậy, giáo dục một mặt cung cấp cho con người những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, mặt khác hình thành trong nhân
cách học những phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu cầu của sự phát triển xã hội.

4. Hoạt động là con đường quyết định trực tiếp đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách
Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ trở nên không có hiệu quả nếu
như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó nhằm phát triển tâm lý, hình thành
nhân cách. Bởi vậy, hoạt động mới là nhân tố tác động quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
cá nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói chung.
Chừng nào cá nhân nhận thức được ý nghĩa của hoạt động cá nhân trong sự phát triển, hoàn thiện bản thân mình thì hoạt
động của cá nhân sẽ trở thành hoạt động tự giác giáo dục.
Hoạt động để lại dấu ấn của mình lên chính bản thân con người. Tâm lý không chỉ được thể hiện mà còn được hình
thành trong hoạt động. Chính nhân cách của con người cũng được hình thành trong hoạt động: con người trở lên can đảm,
quả quyết, cứng rắn…Hãy quan sát những người xung quanh, bạn sẽ thấy hoạt động nghề nghiệp là thay đổi vẻ ngoài và
thế giới tinh thân họ như thế nào? Đồng thời qua cung cách cư xử, lời ăn tiếng nói…của họ ta cũng biết họ làm nghề gì.

Chúng ta đã biết, hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là hoạt đông có mục
đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Vì vậy mỗi
loại hoạt động có những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con người những phẩm chất tâm lý nhất đinh. Quá trình tham gia
hoạt động làm cho con người hình thành những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của học được hình thành và phát triển.
Thông qua 2 quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con
người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân mình để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng
thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan.
Hiểu được mối quan hệ giữa hoạt động và nhân cách nên hoạt động phải được coi là phươ



×