Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái thể lực của học sinh trường trung học cơ sở đồng xuân, thị xã phúc yên, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 108 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

VŨ THỊ THỦY

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI
– THỂ LỰC CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ ĐỒNG XUÂN, THỊ XÃ PHÚC YÊN,
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số : 60 42 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Mai Văn Hưng

HÀ NỘI, 2012


2

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Mai Văn Hưng, người
đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn Sinh lý
người và động vật, khoa Sinh – KTNN và phòng Sau đại học trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các em


học sinh trường Trung học cơ sở Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
cùng tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những người trong gia đình đã tạo điều
kiện giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2012.

Vũ Thị Thủy


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Vũ Thị Thủy


4

CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
BMI

Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index)

cs

Cộng sự


UNICEF

Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (United Nations International
Children's Emergency Fund)

GTSHTK90

Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ
90 – thế kỷ XX

HSSH

Hằng số sinh học người Việt Nam

NXB

Nhà xuất bản THCS

Trung học cơ sở THPT
Trung học phổ thông
TSL HSPT

Các chỉ số cơ bản về sinh lý và tâm lý học sinh phổ thông
hiện nay

tr

Trang


VNTB

Vòng ngực trung bình.


5

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Các chữ viết tắt dùng trong luận văn
Danh mục các bảng trong luận văn
Danh mục các hình trong luận văn
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

4

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1. Khái quát về sinh trưởng và phát triển của trẻ em lứa tuổi THCS

4


1.1.1. Một số kiến thức cơ bản về sinh trưởng và phát triển

4

1.1.2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của trẻ ở lứa tuổi THCS

5

1.2. Các chỉ số hình thái – thể lực

7

1.2.1. Về các chỉ số hình thái

7

1.2.2. Về lực cơ

15

1.3. Một số chỉ số chức năng của hệ cơ quan

17

1.4. Các dị tật hình thái

21

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


26

2.1. Đối tượng nghiên cứu

26

2.2. L ý do chọn đối tượng và địa điểm nghiên cứu

26

2.3. Phương pháp nghiên cứu

27

2.3.1. Tổ chức nghiên cứu

27

2.3.2. Các chỉ số được nghiên cứu

27

2.3.3. Phương pháp xác các định chỉ số

28

2.3.4. Nghiên cứu sự bất thường về hình thái của học sinh

32


2.3.5. Phương pháp xử lý số liệu

32


Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

34

3.1. Một số chỉ số hình thái - thể lực của học sinh trường THCS

34

Đồng Xuân
3.1.1. Chiều cao đứng của học sinh

34

3.1.2. Cân nặng của học sinh

38

3.1.3. Vòng ngực trung bình của học sinh

42

3.1.4. Vòng bụng của học sinh

46


3.1.5. Vòng đùi của học sinh

50

3.1.6. Vòng cánh tay co của học sinh

53

3.1.7. Chỉ số Pignet của học sinh

58

3.1.8. BMI của học sinh

61

3.1.9. Tỉ lệ học sinh theo mức dinh dưỡng

64

3.1.10. Lực bóp tay của học sinh

66

3.1.11. Lực kéo thân của học sinh

70

3.2. Một số chỉ số chức năng sinh lý của học sinh trường THCS Đồng


74

Xuân
3.2.1. Chỉ số tuần hoàn

74

3.2.2. Chỉ số hô hấp (Tần số thở)

84

3.3. Mối liên quan giữa các chỉ số nghiên cứu

87

3.3.1. Mối liên quan giữa cân nặng và BMI

87

3.3.2. Mối liên quan giữa vòng ngực trung bình và tần số thở

88

3.3.3. Mối liên quan giữa vòng cánh tay co và lực bóp tay

89

3.3.3. Mối liên quan giữa vòng cánh tay co và lực kéo thân

90


3.4. Một số dị tật hình thái của học sinh trường THCS Đồng Xuân

90

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

PHỤ LỤC


PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đến năm 2020, chiều cao trung bình của thanh niên sẽ từ 1,65cm, tăng
thêm 4cm so với hiện nay, còn tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi phải
ít hơn 5% (hiện nay: 17,5%) và tuổi thọ trung bình là 75 (hiện nay: 73). Đó là
những chỉ số cơ bản đặt ra trong chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến
năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19/04/2011. Một
trong những mục tiêu cụ thể của chiến lược là tới năm 2020, nhân lực Việt
Nam sẽ có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển toàn diện về trí tuệ, ý
chí, năng lực và đạo đức, có năng lực tự học, tự đào tạo, năng động, chủ động,
tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích
ứng và nhanh chóng tạo được thế chủ động trong môi trường sống và làm
việc. Chiến lược nâng chiều cao trong vòng 9 năm lên 4cm có thể coi là một
mục tiêu rất to lớn và không dễ gì thực hiện được. Một nghiên cứu của Viện

dinh dưỡng (2010) trên những người 16 – 60 tuổi cho thấy trong 30 năm 1976
– 2006, chiều cao của nam tuổi từ 16 – 25 tăng 2,7cm trong 10 năm. Nói cách
khác, cứ 10 năm thì chiều cao của thanh niên Việt nam tăng 2,7cm. Như vậy
để thực hiện chiến lược này chúng ta cần phải có giải pháp đồng bộ và khoa
học.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học về các đặc điểm nhân học hình thể trên đối tượng học sinh, sinh
viên (như những nghiên cứu của các tác giả: Nghiêm Xuân Thăng, năm 1993;
Nguyễn Quang Mai, năm 1998; Đào Mai Luyến, năm 2001; Mai văn Hưng,
năm 2003) [20], [31], [32], [45]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho
thấy, các đặc điểm nhân học hình thể của con người luôn thay đổi, nó phụ
thuộc vào đối tượng nghiên cứu, môi trường tự nhiên và xã hội. Do vậy,


nghiên cứu các đặc điểm nhân học hình thể cần phải được tiến hành thường
xuyên.
Bên cạnh các nghiên cứu kể trên, cũng có rất nhiều tác giả đã tiến hành
nghiên cứu các đặc điểm hình thái – thể lực trên đối tượng học sinh ở các tỉnh
trên cả nước. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên đối tượng học
sinh, đặc biệt là học sinh trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc còn rất
hạn chế. Do vậy, việc tập trung nghiên cứu, phát triển con người trong giáo
dục là rất cần thiết đối với Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ những lý do trên và thời gian cho phép, chúng tôi thực
hiện đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái – thể lực của học sinh
Trường trung học cơ sở Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định được một số chỉ số hình thái - thể lực và một số chỉ số chức
năng hệ cơ quan của học sinh trường THCS Đồng Xuân, Thị xã Phúc Yên,
Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xác định mối tương quan giữa các chỉ số nghiên cứu

- Tìm hiểu thực trạng các dị tật về hình thái của học sinh
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số chỉ số hình thái của học sinh như: chiều cao đứng,
cân nặng, vòng ngực trung bình, vòng đùi, vòng cánh tay co, vòng bụng.
- Xác định một số chỉ số thể lực của học sinh như: chỉ số khối cơ thể
(BMI), chỉ số Pignet, lực bóp tay, lực kéo thân.
- Xác định một số chỉ số chức năng hệ cơ quan: tần số tim, huyết áp
động mạch, tần số thở.
- Xác định mối tương quan giữa các chỉ số hình thái – thể lực với các
chỉ số chức năng hệ cơ quan.


- Điều tra một số dị tật hình thái của học sinh như: cận thị, mắt lác,
cong vẹo cột sống, chân vòng kiềng, lưng gù, tay khuỳnh,...
4. Đóng góp mới của đề tài
- Là người đầu tiên nghiên cứu về các đặc điểm hình thái – thể lực của
học sinh trường THCS Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Những kết quả của đề tài góp phần mở rộng phạm vi nghiên cứu về
các đặc điểm nhân học hình thể người Việt Nam và có thể dùng làm tài liệu
tham khảo trong các nghiên cứu và giảng dạy ở trường THCS và THPT.


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về sinh trưởng và phát triển của trẻ em lứa tuổi THCS
1.1.1. Một số kiến thức cơ bản về sinh trưởng và phát triển
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm sinh trưởng
Một trong những đặc điểm cơ bản của sự sống là sinh trưởng và phát
triển. Sinh trưởng là sự tăng kích thước, khối lượng và làm biến đổi hình thái
của cá thể. Sinh trưởng bao gồm sự phân bào tăng kích thước cơ thể và sự

phân hoá tế bào để thực hiện sự phân công chức năng trong cơ thể.
Tốc độ sinh trưởng của cơ thể không đồng đều, lúc nhanh, lúc chậm,
lúc rất nhanh. Tốc độ tăng trưởng chiều dài cơ thể nhanh nhất lúc thai nhi 4
tháng tuổi và ở lứa tuổi dậy thì [4].
Tốc độ sinh trưởng của các bộ phận, các cơ quan, các mô khác nhau
trong cơ thể là không giống nhau. Ở người, sau khi sinh, thân và các chi sinh
trưởng nhanh hơn đầu. Cụ thể tỷ lệ này ở trẻ sơ sinh là 1/4; ở trẻ 2 tuổi - 1/5;
trẻ 6 tuổi - 1/6; trẻ 12 tuổi - 1/7 và ở người trưởng thành là 1/8 [26].
Tốc độ sinh trưởng và tăng trọng cơ thể phụ thuộc vào các yếu tố xã hội
cũng như hoàn cảnh sống. Trong điều kiện khắc nghiệt, khối lượng và chiều
cao trung bình của cơ thể giảm đáng kể.
Như vậy, tăng tốc sinh trưởng là hiện tượng sinh lý có liên quan mật
thiết với nhiều yếu tố khác nhau. Sự hiểu biết đúng đắn vấn đề này là cơ sở để
tổ chức công tác giáo dục trong nhà trường, đề ra các chế độ học tập, lao động
và nghỉ ngơi hợp lý nhằm nâng cao khả năng phát triển toàn diện về mặt thể
lực và trí tuệ ở trẻ em.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm phát triển
Phát triển là quá trình biến đổi toàn diện về mặt hình thái và chức năng
theo từng giai đoạn của đời sống cá thể. Có thể nói, phát triển là quá trình


thay đổi về mặt chất lượng trong cơ thể [26], [57]. Chính sự thay đổi diễn ra
trong quá trình phát triển làm cho sự tác động qua lại giữa các hệ cơ quan
trong cơ thể trở nên phức tạp hơn.
Hay nói cách khác, phát triển là sự tổng hợp những biến đổi liên tục về
chất, về hình thái và chức năng ở cơ thể từ lúc sinh ra đến khi chết đi. Như
vậy, trong sự phát triển đã bao hàm cả sự sinh trưởng. Cơ thể không thể phát
triển được nếu không qua sinh trưởng. Mặt khác, trong quá trình sinh trưởng,
không chỉ diễn ra những biến đổi về mặt cấu trúc mà có cả những biến đổi về
mặt sinh lý, quá trình biệt hoá các tế bào tạo thành các mô, các cơ quan đảm

nhiệm những chức năng khác nhau, đó chính là quá trình phát triển.
Tóm lại, sinh trưởng và phát triển là hai quá trình diễn ra song song với
nhau, có liên quan mật thiết với nhau giúp cơ thể tăng trưởng về tầm vóc và
thể lực. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các em ở lứa tuổi THCS, lứa tuổi
dậy thì - thời kỳ trẻ có những biến đổi nhanh về tầm vóc và thể lực.
1.1.2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của trẻ ở lứa tuổi THCS
Lứa tuổi học sinh THCS được xếp vào nhóm tuổi dậy thì. Đây là mốc
đánh dấu sự trưởng thành về mặt sinh học của cơ thể. Dậy thì là quá trình kéo
dài khoảng 3- 4 năm và được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn tiền dậy thì và
giai đoạn dậy thì hoàn toàn. Ở tuổi dậy thì, dưới tác dụng của các hormon
tuyến yên và tuyến sinh dục, cơ thể trẻ diễn ra hàng loạt những biến đổi về
hình thể, sinh lý và tâm lý [ 8], [25], [26], [27], [33], [34], [57]. Cụ thể những
biến đổi đó là:
 Những biến đổi về mặt thể chất:
- Kích thước cơ thể tăng nhanh, trung bình mỗi năm chiều cao tăng lên
4cm - 8cm, khối lượng cơ thể tăng thêm 4kg - 8kg [26]. Sự tăng chiều cao ở
lứa tuổi này chủ yếu do các xương ống dài ra nhanh. Hệ cơ tuy phát triển


nhưng tốc độ chậm hơn so với sự dài ra của xương nên trẻ ở lứa tuổi này
thường gầy, cao, các động tác vụng về, thiếu chính xác [8].
- Da thay đổi, hệ mao mạch dưới da phát triển mạnh làm cho da trở nên
hồng hào, đặc biệt là ở các em nữ. Tuyến mồ hôi và tuyến nhờn phát triển làm
tóc mượt mà. Có khi tuyến nhờn không thải kịp các chất ra ngoài gây hiện
tượng mụn trứng cá [8].
- Ngoài một số đặc điểm chung kể trên, ở nam và nữ lứa tuổi dậy thì
còn xuất hiện một số đặc điểm giới tính [8].
 Những biến đổi về mặt sinh lý:
- Sự phát triển nhanh và không cân xứng của hệ vận động làm cho sự
phối hợp các cử động chưa được tốt lắm, do đó động tác của trẻ thường lóng

ngóng, vụng về và thiếu chính xác.
- Sự phát triển mạnh của các mô, các cơ quan ảnh hưởng nhiều đến
hoạt động của hệ tim mạch. Kích thước của tim tăng nhanh nhưng hệ mạch
máu phát triển chậm nên huyết áp cao hơn bình thường. Nhịp tim không đều,
có lúc không đáp ứng đủ nhu cầu về máu của cơ thể. Vì vậy, trẻ thường nhanh
mệt mỏi khi làm việc, nhất là khi lao động nặng nhọc hoặc ở chỗ đông người.
- Tình trạng không cân xứng trong quá trình phát triển của hệ tim mạch
đã ảnh hưởng đến tuần hoàn não, có thể gây nên thiểu năng tuần hoàn não
nhất thời làm các tế bào thần kinh bị thiếu oxi. Vì vậy, trẻ ở giai đoạn này
thường kém tập trung tư tưởng, kém nhạy cảm và ảnh hưởng đến trí nhớ.
- Quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế nên trẻ trong lứa tuổi
này thường nóng tính, khả năng kiềm chế kém, phản ứng bộp chộp, thiếu
chính xác, cảm xúc hay thay đổi.
- Có hiện tượng kinh nguyệt ở nữ và xuất tinh ở nam.


 Những biến đổi về mặt tâm lý:
- Các em trong lứa tuổi này có tâm lý “muốn làm người lớn”, thích
sống độc lập và có nhu cầu “tự khẳng định mình”.
- Do sự biến đổi về thể chất, sinh lý nên các em đã có sự quan tâm đặc
biệt đến bạn khác giới, nảy sinh mối quan hệ về giới tính, về tình dục.
1.2. Các chỉ số hình thái – thể lực
1.2.1. Về các chỉ số hình thái
Tầm vóc và thể lực là những khái niệm phản ánh cấu trúc tống hợp của
cơ thể đặc biệt có liên quan chặt chẽ đến khả năng, sức lao động và thẩm mỹ
của con người. Vì vậy, các chỉ số này từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm [18].
Trong mối quan hệ giữa môi trường và sức khỏe, các đặc điểm hình thái
thể lực được coi là thước đo một mặt về sức khỏe, mặt khác về khả năng lao
động. Cùng với sự phát triển của y học và sinh học, các công trình nghiên cứu

hình thái thể lực được bắt đầu từ rất sớm trong lịch sử và đến nay vẫn là vấn
đề thời sự khoa học về con người nên việc nghiên cứu hình thái thể lực ngày
càng phát triển mạnh mẽ [18].
Chiều cao đứng của cơ thể là dấu hiệu được nhận xét sớm nhất trong hầu
hết các lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học trước cả giai đoạn hình thành
khoa học nhân trắc. Ý nghĩa phổ biến hơn cả của chiều cao là ở chỗ được coi
như biểu hiện của thể lực và nó là một chỉ tiêu quan trọng trong công tác
tuyển chọn vào quân đội, tuyển học sinh, tuyển thợ,... [18]
Cân nặng cũng được khảo sát thường xuyên trong các nghiên cứu thể lực
của con người. Cân nặng gồm hai phần: phần cố định chiếm 1/3 khối lượng
cơ thể gồm có xương, da, nội tạng, thần kinh...và phần không cố định chiếm
2/3 khối lượng cơ thể là khối lượng cơ, khối lượng mỡ và nước [43]. Ớ người


trưởng thành, sự tăng cân chủ yếu là tăng phần không cố định và có liên quan
chặt chẽ đến chế độ dinh dưỡng [7], [12].
Vòng ngực cũng được coi là một đặc trưng cơ bản của thể lực. Những
người đầu tiên lưu ý đến số đo vòng ngực là các bác sĩ lâm sàng, ở đầu thế kỷ
XIX, khi họ nhận thấy có sự liên quan giữa mức độ phát triển của lồng ngực
và các bệnh hô hấp. Dần dần cuối thế kỷ XIX, vòng ngực trở thành chỉ tiêu
quan trọng trong các cuộc tuyển chọn binh lính và nhân công lao động [18].
Trong khi tiếp tục khảo sát những đặc điểm hình thái có liên quan đến
việc đánh giá mức độ tăng trưởng và phát triển thể lực, người ta dần dần nhận
ra rằng ở mức độ khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau, với các loại
hình cơ thể khác nhau, các chỉ tiêu hình thái có tương quan theo nhiều mức
độ. Thể lực không chỉ thể hiện đồng nhất ở từng loại chỉ tiêu riêng rẽ, ngược
lại là tổng hòa của một số yếu tố cấu thành. Người ta bắt đầu suy nghĩ đến
việc tính các chỉ số dựa trên một số chỉ tiêu quan trọng nhất và phương pháp
đánh giá thể lực bằng các chỉ số ra đời. Chỉ số thế lực là tổng hợp các tương
quan của các dấu hiệu nhân trắc được biểu thị dưới dạng công thức toán học.

Các chỉ số khác nhau bao gồm các dấu hiệu khác nhau [18].
Nhiều công trình nghiên cứu về thể lực đã cho thấy sự khác nhau giữa trẻ
em thành phố và trẻ em nông thôn, giữa nam và nữ. Trên thực tế, sự phát
triển thể lực của trẻ em phụ thuộc rất nhiều yếu tố và là kết quả của sự tác
động qua lại giữa cơ thể và môi trường [28], [32], [48].
Từ thế kỷ XIII, Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để đánh
giá thể lực. Sau này các nhà giải phẫu học kiêm họa sỹ thời phục hưng
(Leonard de Vinci; Mikenlangielo; Raphael) đã tìm hiếu rất kỹ cấu trúc và
mối tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể người để đưa vào tác phẩm hội
họa của mình. Mối quan hệ giữa hình thái với môi trường sống cũng đã được


nghiên cứu tương đối sớm mà đại diện cho nó là các nhà nhân trắc học
Ludman, Nold và Volanski [20].
Rudolf Martin, người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại qua hai
tác phẩm nổi tiếng "Giáo trình về nhân trắc học" và "Kim chỉ nam đo đạc cơ
thể và xử lý thống kê". Trong các công trình này, ông đã đề xuất một số
phương pháp và dụng cụ đo đạc các kích thước của cơ thể, cho đến nay vẫn
được sử dụng [18]. Sau Rudolf Martin đã có nhiều công trình bổ sung và hoàn
thiện thêm các đề xuât của ông cho phù hợp với từng nước. Vấn đề nhân trắc
học còn được thể hiện qua các công trình của P.N Baskirov - "Nhân trắc
học", Evan Dervael - "Nhân trắc học", công trình của Bunak, A.M Uruxon.
Song song với sự phát triển của các bộ môn di truyền, sinh lý học, toán
học,...việc nghiên cứu nhân trắc học ngày càng hoàn chỉnh và đa dạng hơn.
Vấn đề này được thể hiện qua các công trình của X. Galperin, Tomiewicz,
Tarasov, Tomner, M.Sempé, G.Pédron, M.p. Rog-Pernot (theo [20]).
Nghiên cứu cắt ngang là một hướng đi sâu trong quá trình nghiên cứu sự
tăng trưởng về mặt hình thái, đó là nghiên cứu sự tăng trưởng của cơ thể và
các đại lượng có thể đo lường được bằng kỹ thuật nhân trắc [49]. Công trình
đẩu tiên trên thế giới cho thấy, sự tăng trưởng một cách hoàn chỉnh ở các lớp

tuổi từ 1 đến 25 là luận án tiến sỹ của Christian Fridrich Jumpert người Đức
vào năm 1754. Công trình này được nghiên cứu theo phương pháp cắt ngang
(Cross - sectional study) được dùng phổ biến do có ưu điểm là rẻ tiền, nhanh
và thực hiện được trên nhiều đối tượng cùng một lúc [20].
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao của Philiuert Guéneau de
Montbeilard thực hiện trên con trai mình từ năm 1759 đến năm 1777. Trong
18 năm liên tục, mỗi năm được đo 2 lần, cách nhau 6 tháng. Đây là một
nghiên cứu tốt nhất được tiến hành cho đến nay và được trích dẫn trong các
nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thể kỷ XIX [49].


Sau đó còn có nhiều công trình khác của Edwin Chachvick ở Anh,
Carlschule ở Đức, H.p. Bowditch ở Mỹ; Paul Godin ở Pháp... Năm 1977, hiệp
hội các nhà tăng trưởng học đã được thành lập, đánh dấu một bước phát triển
mới của việc nghiên cứu vấn đề này trên thế giới [20].
Ớ Việt Nam, nhân trắc học được bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ
trước tại Ban nhân trắc học thuộc Viện Viễn đông Bác cổ. Kết quả nghiên
cứu nhân trắc đã được công bố trong các công trình nghiên cứu của Viện giải
phẫu học, Đại học Y khoa Đông Dương 1936 - 1944. Cuốn "Hình thái học và
giải phẫu học mỹ thuật" là một trong những tác phẩm đầu tiên của bác sĩ Đỗ
Xuân Hợp (cộng tác với Huard) [20].
Từ năm 1975 đến nay, việc nghiên cứu hình thái học đã được đẩy
mạnh và chuyên môn hóa, thể hiện qua việc thành lập bộ môn hình thái học ở
một số trường đại học và viện nghiên cứu. Các hội nghị về lĩnh vực này đã
được tố chức nhiều lần, đặc biệt là vào các năm 1967 và 1972, nhiều chương
trình cấp quốc gia và địa phương được thực hiện. Đó là công trình "Hằng số
sinh học người Việt Nam" năm 1975 do Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên [51].
Đây cũng là công trình đầu tiên nêu khá đầy đủ các thông số về thể lực người
Việt Nam ở mọi lứa tuổi, trong đó có lớp tuổi từ 16 đến 18. Đây mới là các
chỉ số sinh học của người miền Bắc (do hoàn cảnh lịch sử), song nó thực sự là

chỗ dựa đáng tin cậy cho các nghiên cứu sau này trên người Việt Nam.
Ở miền Bắc trong những năm 1975 và 1976, Nguyễn Quang Quyền và
Lê Gia Vinh [40], [41], [42] đã tiến hành nghiên cứu tầm vóc thể lực của
2100 người (816 nam và 1284 nữ), tuổi từ 16-70 theo những kỹ thuật và
phương pháp tiêu chuẩn trong nhân trắc học. Qua nghiên cứu, các tác giả rút
ra nhận định về sự tăng trưởng tầm vóc thể lực theo lứa tuổi như sau: ở nam,
các biểu hiện tuổi dậy thì xuất hiện lúc 15-16 tuổi, trong lớp tuổi 16-25 tầm
vóc thể lực phát triển mạnh và đạt cao nhất ở lóp tuổi 26-40. Ở nữ, quy luật


tăng trưởng hơi khác, dậy thì sớm hơn (trước tuổi 15) rồi tầm vóc thể lực phát
triển mạnh và đạt cực đại vào lớp tuồi từ 16-25. Như vậy nữ dậy thì sớm hơn
và cũng già sớm hơn so với nam giới [44].
Năm 1977, lần đầu tiên ở Việt Nam, Nguyễn Quang Quyền, Lê Gia
Vinh và Trịnh Hùng Cường [42] đã nghiên cứu một cách hệ thống bề dày lớp
mỡ dưới da bằng compas Harpenden Skinfold Caliper theo sơ đồ 36 điểm đo
của Erdheim, cùng với các chỉ số khối nạc, khối mỡ, khối cơ thể,...bề dày lớp
mỡ dưới da là một chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Các chỉ số này phần
nào cũng phản ánh tầm vóc thể lực của cơ thể.
Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cs [14] đã nghiên cứu về sự phát
triển chiều cao đứng, vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến 55
tuổi ở 8 tỉnh thuộc 3 miền của đất nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các
chỉ số thu được trong công trình này đều cao hơn hẳn so với các chỉ số nghiên
cứu trước đó. Các tác giả cho thấy chiều cao đứng ở trẻ nam lứa tuổi 16-18
tăng từ 159,94 - 162,15 cm; ở nữ chiều cao đứng tăng từ 151,5 - 152,73 cm;
vòng ngực của nam tăng từ 74,89 - 77,9 cm, của nữ tăng từ 75,42 - 79,09 cm.
Như vậy, ở lứa tuổi từ 16-18 chiều cao đứng của nam vượt lên hẳn so với nữ,
có lẽ do thời kỳ này nam đã bước vào tuổi dậy thì. Trong khi đó kích thước
vòng ngực của trẻ nữ luôn cao hơn trẻ nam, điều này cũng phù hợp với sự
xuất hiện của các đặc điểm sinh dục thứ cấp ở cơ thể nữ khác với cơ thể nam.

Năm 1992, bằng phương pháp nghiên cứu dọc đối với 31 chỉ số nhân trắc
học của 100 học sinh phổ thông từ 16-17 tuổi ở Hà Nội, Thẩm Thị Hoàng
Điệp [13] đã đưa ra những kết luận rất đáng chú ý về đặc điểm hình thái và
thể lực của học sinh phố thông. Tác giả kết luận rằng chiều cao đứng của học
sinh phát triển mạnh nhất lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi ở nam; còn cân
nặng phát triển mạnh nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam. Tác giả cũng
nhận thấy rằng, quy luật phát triển theo giai đoạn chỉ phù hợp với quy luật


chiều cao còn quy luật phát triển kích thước các vòng gần giống với quy luật
phát triển cân nặng.
Năm 1994, Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương và cs [35] đã nghiên
cứu một số chỉ tiêu nhân trắc của cư dân trưởng thành (từ 16 tuổi trở lên tại
phường Thượng Đình và xã Định Công - Hà Nội) gồm 595 nam và 841 nữ.
Kếtt quả cho thấy về chiều cao trong mỗi giới đều có xu hướng tăng trong đó
nam cao hơn nữ rõ rệt ở mọi lứa tuổi. Tương tự, với chỉ số cân nặng, nam
cũng tăng hơn nữ ở mọi lứa tuổi. Vòng ngực trung bình và vòng cánh tay phải
co cũng cao hơn nữ, chứng tỏ sức mạnh về thể lực và cơ bắp. Các chỉ số
BMI, QVC, Pignet của nữ tốt hơn nam (do lợi thế về dinh dưỡng cộng với
chiều cao thấp). Như vậy, cả hai chỉ số Pignet và QVC đều chưa đánh giá đủ
sức mạnh cơ bắp mà vẫn chịu sự ảnh hưởng của sự tích mỡ. Đặc biệt của nữ
tốt hơn của nam nhiều do nữ có chiều cao thấp và vòng đùi lớn hơn nam.
Năm 1995, Nguyễn Đức Hồng đã nghiên cứu "Đặc điểm nhân trắc
người Việt Nam lứa tuổi lao động giai đoạn 1981-1985" [19] và đi đến kết
luận là người Việt Nam trong lứa tuổi lao động có chiều cao thuộc loại trung
bình thấp của thế giới, nhẹ cân, có phần thân trên thuộc loại trung bình hơi
dài, một số chỉ số nhân trắc hình thái có số đo trung bình tăng dần từ bắc vào
nam.
Từ năm 1991-1995, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cs [10] đã nghiên
cứu trên học sinh một số tỉnh thành Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình và nhận

thấy so với dẫn liệu trong cuốn "Hằng số sinh học người Việt Nam" [51] thì
sự phát triển chiều cao của trẻ em 8-14 tuổi tốt hơn, đặc biệt là trẻ em thành
phố, thị xã; còn ở khu vực nông thôn chưa thấy có sự thay đổi đáng kể.
Năm 1996, nhóm tác giả A. Goran, Nguyễn Công Khanh và cs [16]
nghiên cứu trên học sinh Hà Nội về chiều cao, cân nặng, BMI cho thấy cả 3
chỉ số này đều tăng theo tuổi.


Trần Thị Loan [28] từ năm 1999 đến 2002 nghiên cứu trên học sinh Hà
Nội từ 6-17 tuổi đã nhận thấy các chỉ số hình thái gồm chiều cao đứng, cân
nặng, vòng ngực của học sinh lớn hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác
giả từ thập kỷ 80 trở về trước và lớn hơn so với học sinh các tỉnh Thái Bình,
Hà Tây, ngoại thành Hải Phòng. Điều này chứng tỏ điều kiện sống đã ảnh
hưởng đến các chỉ số hình thái thể lực của học sinh.
Trong quyển "Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ
90 – thế kỷ XX" [3] các nghiên cứu cũng cho thấy ở lứa tuổi 16-18 có sự
khác khá rõ về nhiều chỉ số hình thái, nhân trắc giữa nam và nữ. Cụ thể là
chiều cao đứng của nam tăng từ 160,29-163,4 cm, của nữ tăng từ 152,45152,77 cm. Cân nặng của nam tăng từ 45,33-49,71 kg, của nữ tăng từ 42,1343,84 kg. Vòng ngực trung bình của nam tăng từ 71,44-75,08 cm, của nữ từ
69,18-72,61 cm. Vòng cánh tay phải co của nam tăng từ 23,13-25,71 cm, của
nữ tăng từ 22,48-23,87 cm. Công trình này cũng đã tiến hành nghiên cứu một
số chỉ số nhân trắc của trẻ lứa tuổi 16-18 và cho thấy BMI ở nam tăng từ
17,67-18,64 cm, ở nữ tăng từ 18,14-19,05 cm. Chỉ số Pignet ở nam giảm từ
43,29-41,27; ở nữ giảm từ 41,19-36,35. Chỉ số QVC ở nam giảm từ 16,6311,44, ở nữ giảm từ 9,05-6,04.
Năm 2006, Trung tâm tâm lý học và sinh lý lứa tuổi thuộc Viện chiến
lược và Chương trình giáo dục [54] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản
về sinh lý và tâm lý của học sinh phổ thông lứa tuổi từ 8-20. Kết quả nghiên
cứu chiều cao đứng ở học sinh nam và nữ ở mọi lứa tuổi 11-15 và nữ ở mọi
lứa tuổi (trừ 16 và 18) đã thoát khỏi trạng thái còi cọc. Các số liệu về cân
nặng cho thấy sự phân hóa sâu sắc ngay trong nhóm trẻ cùng độ tuổi, bên
cạnh trẻ nhẹ cân đã xuât hiện những trẻ có dấu hiện béo phì, đặc biệt là các

trẻ ở các thành phố lớn, chỉ số Pignet cũng tăng. Như vậy là đã có sự chuyển
biển tích cực về mặt thể lực của học sinh trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời,


các tác giả cũng lưu ý đến BMI ở học sinh nông thôn và nhận thấy tình trạng
dinh dưỡng ở nông thôn còn hạn chế.
Nhìn chung, các nghiên cứu gần đây của học sinh, sinh viên và thanh
niên Việt Nam đều cho thấy sự tăng lên đáng kể so với số liệu trong các
nghiên cứu từ những năm trước. Đặc biệt là từ sau năm 1975 đến nay, tình
hình kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta có nhiều thay đổi tốt hơn chắc chắn
ảnh hưởng đến tầm vóc, sức khỏe của con người Việt Nam. Học sinh thành
phố thường có các chỉ số nhân trắc tốt hơn ở nông thôn [6], [10], [10]. Để giải
thích sự khác biệt này có tác giả [26] cho rằng, yếu tố cơ bản làm xuất hiện
tình trạng này là chất lượng cuộc sống. Do điều kiện sống ở thành phố được
cải thiện nên học sinh thành phố thường có chiều cao, cân nặng tốt hơn học
sinh nông thôn cùng lứa tuổi.
Những nghiên cứu ở các dân tộc khác nhau, có các điều kiện sống và
rèn luyện thân thể khác nhau cho thấy sự khác biệt về chủng tộc cũng là yếu
tố tác động đến hình thái - thể lực của học sinh [38]. Nguyễn Quang Mai và cs
[32] năm 1998 đã nghiên cứu trên nữ sinh các dân tộc ít người cho thấy: chiều
cao, cân nặng trung bình của nữ sinh các dân tộc thiểu số thấp hơn nữ sinh ở
vùng đồng bằng và thành thị. Năm 2000, Đào Mai Luyến [31] nghiên cứu thể
lực của người Êđê và người Kinh định cư ở Đắc Lắc cho thấy, hình thái thể
lực của người Êđê tốt hơn của người Kinh. Tác giả cho đây là khác biệt mang
tính dân tộc và do môi trường sống ảnh hưởng nhất định khả năng tăng trưởng
các chỉ số hình thái. Đoàn Văn Huyền và các cs cũng cho rằng, giữa cơ thể và
môi trường có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Môi trường sống ảnh hưởng
đến trao đổi chất và điều hòa thân nhiệt nên ảnh hưởng đến các chỉ số thể lực
của cá thể. Ngoài ra, sự rèn luyện thể lực cũng tác động đến chiều cao, cân
nặng và kích thước một số vòng của cơ thể [37]. Các yếu tố xã hội cũng ảnh

hưởng đến sự phát triển của cơ thể, đặc biệt là ở tuổi dậy thì [55]. Năm 2008,


Đỗ Hồng Cường [8] nghiên cứu các chỉ số chiều cao, cân nặng của các học
sinh THCS ở tỉnh Hòa Bình thuộc các dân tộc: Mường; Thái; Kinh; Tày; Dao
và nhận thấy các chỉ số này ở học sinh Mường, Thái, Kinh cao hơn rõ ràng so
với học sinh Tày; Dao. Tác giả cho rằng điều này liên quan tới nơi cư trú của
các em. Học sinh các dân tộc Mường, Thái, Kinh sống ở vùng đồng bằng,
thành phố và thị trấn, còn đa số học sinh các dân tộc Tày, Dao sống ở các
vùng sâu, vùng xa thuộc huyện Đà Bắc, nơi có các điều kiện kinh tế - xã hội
kém phát triển hơn so với thành phố.
1.2.2. Về lực cơ
Lực cơ biểu hiện khả năng hoạt động của cơ. Ngay từ cuối thế kỷ XIX,
nhiều tác giả đã nghiên cứu lực cơ của trẻ em.
Năm 1981, Quetelet L. đã xác định rằng, lực cơ của trẻ em phát triển
không đồng đều. Lực cơ ở trẻ em nam và nữ phát triển mạnh ở cuối thời kỳ
dậy thì và đến 15 tuổi, lực kéo thân của cả nam và nữ là 53kg. Trong khi đó,
lúc 16 tuổi, lực kéo thân của nam lên tới 102kg và của nữ là 59kg [43].
Korotkov A.V. nhận thấy rằng ở trẻ em có sự phát triển không đồng
đều về lực cơ của các nhóm cơ khác nhau, đến 16 – 17 tuổi thì mối tương
quan về lực giữa các nhóm cơ mới ổn định và đạt đến mức gần như ở người
trưởng thành [28].
Lực cơ không chỉ biến đổi theo lứa tuổi, theo các nhóm cơ và các cơ
mà còn có sự khác biệt theo giới tính. Believ N.G. và Galperin S.I. nhận thấy
có sự khác biệt về lực cư giữa nam và nữ. Ở giai đoạn trẻ còn nhỏ thì lực cơ
của nam và nữ là tương đương nhau, sau đó sự khác biệt về lực cơ giữa nam
và nữ ngày càng lớn và đạt mức chênh lệch tối đa lúc 17 tuổi [28].
Các đặc điểm phát triển lực cơ của trẻ em còn phụ thuộc vào đặc điểm
phát triển của hệ cơ và hệ thần kinh. Theo Galperin S.I. và Kos I.M. thì lực cơ
không phụ thuộc vào độ dày của cơ mà phụ thuộc vào các xung động thần



kinh gây ra co cơ và điều hòa trao đổi chất. Trong quá trình phát triển cá thể
của trẻ em, sự phát triển hệ cơ và lực cơ diễn ra không đồng đều và phụ thuộc
vào sự phát triển và hoàn thiện của hệ thần kinh cũng như vào tác động của
môi trường [28].
Tại Việt Nam, cùng với các chức năng khác của cơ thể, lực cơ cũng là
một chỉ số rất quan trọng được nghiên cứu. Trong công trình “Hằng số sinh
học người Việt Nam” [51], các tác giả đã tiến hành nghiên cứu hai lực cơ bản
là lực bóp tay và lực kéo thân. Các nghiên cứu này được tiến hành trên các
đối tượng thuộc 4 nhóm tuổi là 15, 16, 17 và 18 – 35 ở cả hai giới nam và nữ.
Kết quả cho thấy, lực cơ ở nam bao giờ cũng cao hơn so với ở nữ và lực bóp
tay phải cao hơn lực bóp tay trái. Điều này phản ánh đúng đặc điểm sinh lý
thay đổi theo giới tính và do tỷ lệ người thuận tay phải chiếm đa số. Lực kéo
thân tăng nhanh trong lứa tuổi 15 – 17 và duy trì ở mức đó đến lứa tuổi 35.
Năm 1998, Nguyễn Văn Mùi [36] đã tiến hành nghiên cứu một số chỉ
số sinh học ở trẻ em lứa tuổi 7 – 15 tại hai xã ngoại thành Hải Phòng, trong
đó có lực kéo thân và lực bóp tay. Kết quả cho thấy, hai lực cơ bản này đều
tăng dần theo lứa tuổi ở cả trẻ em nam và trẻ em nữ, đồng thời chỉ số này ở
trẻ nam luôn cao hơn trẻ nữ. Khi tiến hành đo lực bóp tay, tác giả cũng nhận
thấy lực bóp tay phải cao hơn lực bóp tay trái.
Năm 2000, Trần Thị Loan [28] tiến hành nghiên cứu một số chỉ số thể
lực và trí tuệ của học sinh 7 – 15 tuổi ở Hà Nội đã cho thấy, lực bóp tay phải,
lực bóp tay trái, lực kéo thân của học sinh nam, nữ tăng theo tuổi. Ở nam, mỗi
năm lực kéo thân tăng trung bình 7,84kg, lực bóp tay phải tăng trung bình
2,63kg, lực bóp tay trái tăng trung bình 2,44kg. Ở nữ, mỗi năm lực kéo thân
tăng trung bình 5,66kg, lực bóp tay phải tăng trung bình 1,83kg, lực bóp tay
trái tăng trung bình 1,54kg. Lực bóp tay phải của học sinh luôn lớn hơn lực
bóp tay trái. Lực bóp tay và lực kéo thân của nam luôn cao hơn nữ ở mọi lứa



tuổi và mức gia tăng lực cơ của nam nhanh hơn so với nữ, làm cho độ chênh
lệch giữa lực cơ của nam và nữ ngày càng lớn.
Trong những năm gần đây, trong các công trình nghiên cứu về các chỉ
số sinh học, các nhà nghiên cứu đã đưa việc nghiên cứu lực cơ thành một
trong những chỉ số nghiên cứu quan trọng. Chỉ số lực cơ còn thể hiện một
khía cạnh quan trọng về mức tăng dinh dưỡng, điều kiện kinh tế của đối
tượng, từ đó có thể so sánh thể lực của các đối tượng qua các thời kỳ khác
nhau.
1.3. Một số chỉ số chức năng của hệ cơ quan
Chức năng cơ bản đảm bảo cung cấp ôxi và các chất dinh dưỡng cho
toàn bộ cơ thể là hoạt động của hệ tuần hoàn. Trong đó tần số tim và huyết áp
động mạch là những chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt động của hệ tuần hoàn [50].
Tim có chức năng hút và đẩy máu – đây là động lực chính của hệ tuần
hoàn, giúp dịch tuần hoàn lưu thông trong hệ mạch. Công suất của tim phụ
thuộc vào tần số co bóp và thể tích co tim [50].
Tuần hoàn máu có thể coi là kết quả của hai loại lực đối lập nhau: Lực
đẩy máu của tim và lực cản của động mạch. Trong đó lực đẩy của tim lớn hơn
nên máu lưu thông trong động mạch với một áp suất nhất định gọi là huyết áp.
Huyết áp khi tim co và tim giãn không giống nhau. Khi tâm thất co, áp
suất đẩy máu trong hệ mạch tăng cao vì vậy huyết áp có được khi tim co có trị
số lớn nhất nên gọi là huyết áp tối đa hay huyết áp tâm thu. Khi tim giãn,
không có sức đẩy của tim nhưng máu vẫn được đẩy đi do tính đàn hồi của
thành động mạch. Vì vậy huyết áp có được ở giai đoạn này có trị số thấp nhất
nên gọi là huyết áp tối thiểu hay huyết áp tâm trương [50].
Mức độ chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu là huyết
áp hiệu số. Đó là điều kiện cần thiết cho sự tuần hoàn máu. Khi huyết áp hiệu


số giảm xuống thấp thì tuần hoàn máu bị ứ trệ, huyết áp hiệu số lớn nhất ở các

động mạch chủ và động mạch lớn [20].
Các chỉ số chức năng hệ tuần hoàn được nghiên cứu thường tập trung
vào nhịp tim và huyết áp.
Huyết áp động mạch đã được nghiên cứu từ thế kỷ XIX do nhiều tác
giả tiến hành. Huyết áp được Korotkow xác định bằng phương pháp đo gián
tiếp, phương pháp này hiện vẫn đang được dùng phổ biến [20]. Nhiều công
trình cho thấy, có sự biến đổi huyết áp theo các giai đoạn khác nhau trong quá
trình phát triển của trẻ [58]. Điều này thấy rõ qua bảng 1.1.
Bảng 1.1. Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương của trẻ ở các lứa
tuổi khác nhau.
L
t
1
1
7
t
3
1
5

H H
u
y
ết ế

1
±
1
±


64
±
67
±

Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở trẻ em 7- 17 tuổi tăng dần
theo tuổi, nhưng tăng không đều. Thời điểm huyết áp tăng nhanh ở nữ là 9- 12
tuổi, ở nam là 9, 12 và 13 tuổi [58], huyết áp tăng nhanh ở cả nam và nữ vào
thời điểm 7- 8 tuổi. Một số tác giả cho thấy có sự khác biệt về huyết áp theo
giới tính trong quá trình phát triển, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương
của trẻ nam luôn cao hơn so với trẻ nữ [8]. Các tác giả này còn cho biết có sự
khác biệt về huyết áp động mạch của các trẻ sống ở những vùng miền khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào điều kiện sống và thể lực của từng người.


Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khác cũng cho thấy, huyết áp của
nam thường cao hơn của nữ và chịu ảnh hưởng của môi trường [8], [20].
Chức năng về tim mạch người Việt Nam cũng được nhiều tác giả Việt
Nam nghiên cứu liên tục trong mấy chục năm gần đây [3], [12], [15], [50],
[51].
Theo "Hằng số sinh học người Việt Nam" [51] huyết áp động mạch
thay đổi theo lứa tuổi, trong đó ở nhóm trẻ lớn hơn 15 tuổi huyết áp tâm thu là
110 mmHg và huyết áp tâm trương là 70 mmHg. Công trình cũng nhận thấy
một số yếu tố làm thay đổi huyết áp như vị trí đo, tư thế đo, thời điểm đo và
giới tính. Các tác giả cũng tiến hành đếm mạch cổ tay, ở cổ hoặc nghe tim
trong 1 phút và tính trung bình trong cả cộng đồng các đối tượng nghiên cứu
và cho thấy tần số tim ở nam trưởng thành là 70- 80 lần/phút và ở nữ trưởng
thành là 75- 85 lần/phút.
Các kết quả nghiên cứu về huyết áp động mạch trên người Việt Nam
của Trịnh Bỉnh Dy trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học người

Việt Nam” [11] cho thấy, huyết áp của người Việt Nam không những thấp mà
còn tăng chậm theo tuổi.
Theo Phạm Thị Minh Đức [15], huyết áp tối đa bình thường có trị số là
90- 110 mmHg, nếu trên 140 mmHg thì được coi là tăng huyết áp và dưới 90
là hạ huyết áp. Huyết áp tối thiểu bình thường có trị số là 50- 70 mmHg, nếu
vượt qua 90 mmHg được coi là tăng huyết áp.
Năm 1993, Đoàn Yên và cs [58] đã nghiên cứu tần số tim và huyết áp
của người Việt Nam và nhận thấy: Từ sau khi sinh, tần số tim và huyết áp
động mạch biến đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng đến 18
tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng dần, còn tần số tim lại giảm dần
cho đến 25 tuổi, sau đó ổn định đến 69 tuổi. Huyết áp động mạch trên người
Việt Nam ở mọi lứa tuổi đều thấp hơn so với người Âu, Mỹ.


×