Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Vai trò của tài chính vi mô trong xóa đói giảm nghèo tại malaysia và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.37 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----o0o-----

LUẬN VĂN THẠC SĨ

VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TRONG
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI MALAYSIA
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

TRẦN THỊ HƯƠNG GIANG

Hà Nội, năm 2017
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----o0o-----

LUẬN VĂN THẠC SĨ

VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TRONG
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI MALAYSIA
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 60310106



Họ và tên học viên: Trần Thị Hương Giang
Người hướng dẫn: PGS. TS. Vũ Hoàng Nam

Hà Nội, năm 2017
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn
và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn từ các tổ chức có uy tín và có
độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của mình.
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Trần Thị Hương Giang


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC HÌNH &BIỂU ĐỒ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt
ADB
AGRIBAN
K
AIM
APO
BMI
BPR
CEP
CGAP
CIA
CIS
HES
HPI
ICP
IPL
MDGs
MPI
NDP
NEP
NHCSXH
NVP
OPHI
PL
PPP
RM
SPKR

Tiếng Anh
Asian Development Bank


Amanah Ikhtiar Malaysia
Asian Productivity
Organization
Body Mass Index
People’s Bank or Bank
Pengkreditan Rakyat
Capital Aid Fund For
Employment of The Poor
The Consultative Group to
Assist the Poor
Central Intelligence Agency
Commonwealth of
Independent States
Household Expenditure Survey
Human Poverty Index
International Comparison
Program
International Poverty Line
Millennium Development
Goals
Multidimensional Poverty
Index
National Development Policy
New Economic Policy
National Vision Policy
Oxford Poverty & Human
Development Initiative
Poverty Line
Purchasing Power Parities

Ringgit Malaysia
Skem Pembangunan
Kesejahteraan Rakyat

Tiếng Việt
Ngân hàng phát triển Châu Á
Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam
Tổ chức Năng suất Châu Á
Chỉ số cơ thể
Ngân hàng Nhân dân
Quỹ Trợ vốn dành cho Việc
làm của người nghèo
Nhóm Tư vấn hỗ trợ người
nghèo
Cục Tình báo Trung ương
Cộng đồng các quốc gia độc
lập
Khảo sát chi tiêu hộ gia đình
Chỉ số nghèo đói
Chương trình so sánh quốc tế
Ngưỡng nghèo quốc tế
Mục tiêu Thiên niên kỷ
Chỉ số nghèo đói đa chiều
Chính sách Phát triển Quốc gia
Chính sách Kinh tế mới
Ngân hàng chính sách xã hội
Tầm nhìn Quốc gia
Sáng kiến Phát triển con người
và Nghèo đói Oxford

Ngưỡng nghèo
Ngang giá sức mua
Đồng Ringgit
Kế hoạch Phát triển Sức khoẻ
Con người


TCVM
TDND
TEKUN
TYM
UN
UNDP
UNESCO

VMFWG
WB
YUM

Economic Fund for National
Entrepreneurs Group
United Nations
United Nations Development
Programme
United Nations Educational
Scientific and Cultural
Organization
Vietnam Microfinance
Working Group
World Bank

Yayasan Usaha Maju

Tài chính vi mô
Tín dụng nhân dân
Quỹ Kinh tế dành cho các
nhóm Doanh nghiệp quốc gia
Quỹ tình thương
Liên hợp quốc
Chương trình Phát triển Liên
hợp quốc
Tổ chức Văn hoá và Khoa học
Giáo dục Liên hợp Quốc
Nhóm công tác Tài chính vi mô
Việt Nam
Ngân hàng thế giới


TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Nghèo đói là một vấn đề đã được nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, với
nhiều khái niệm khác nhau, có sự phát triển theo thời gian. Nhìn chung, nghèo đói
là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện, thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội
tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị
tổn thương trước những biến động bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và
những khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá
trình ra quyết định, cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng. Nghèo
đói được chia thành Nghèo đói tuyệt đối (Absolute poverty) và Nghèo đói tương đối
(Relative Poverty). Ngưỡng nghèo là chi phí của một gói hàng hóa tương ứng với
phần thỏa dụng bị thiếu của người nghèo.
Nghèo đói có nhiều biểu hiện khác nhau, bao gồm thiếu thu nhập và nguồn
lực sản xuất đủ để đảm bảo sinh kế bền vững; đói và suy dinh dưỡng; sức khỏe

kém; hạn chế hoặc thiếu tiếp cận với giáo dục và các dịch vụ cơ bản khác; tăng tỷ lệ
mắc bệnh và tử vong do bệnh tật; vô gia cư và nhà ở không đầy đủ; môi trường
không an toàn; và bị phân biệt đối xử, bị tách biệt xã hội. Nghèo đói cũng đặc trưng
bởi sự thiếu tham gia vào việc ra quyết định vào đời sống dân sự, xã hội và văn hóa.
Để đánh giá nghèo đói, các nhà nghiên cứu thường sử dụng một số chỉ số bao gồm:
tỷ lệ nghèo đói, chỉ số nghèo (HPI), chỉ số nghèo đói đa chiều (MPI), khoảng cách
nghèo (Poverty Gap) hay chỉ số Gini.
Xoá đói giảm nghèo là tổng thể các chương trình, hoạt động, biện pháp,
chính sách và các nỗ lực của toàn cầu, toàn xã hội, của mỗi nhà nước và các cơ
quan có liên quan hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo đói, nhằm
trực tiếp bù đắp những khả năng, những quyền con người bị thiếu hụt của những cá
nhân hiện đang và có nguy cơ thuộc diện nghèo đói; hoặc tạo cơ hội nhằm giúp
những cá nhân này tạo được thu nhập, tài sản, tăng khả năng tham gia vào đời sống
xã hội và các quyết định chính trị; giảm cảm giác bị xỉ nhục và nâng cao sự tôn
trọng từ người khác.
Trong số các chương trình xóa đói giảm nghèo, tài chính vi mô là biện pháp
được công nhận rộng rãi như là một công cụ quan trọng để giảm nghèo và tăng


phúc lợi xã hội. Tài chính vi mô là việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người có
thu nhập thấp. Tài chính vi mô tác động tới nghèo đói và xóa đói giảm nghèo qua
nhiều kênh khác nhau, ví dụ như: thông qua việc cung cấp dịch vụ tài chính cho
nhóm khách hàng tại các khu vực khó khăn nhất; tạo ra nguồn vốn vay quan trọng
đối với người nghèo; giúp tăng thu nhập của người nghèo; giảm khả năng tổn
thương trước các biến động bên ngoài hay trang bị cho người nghèo kiến thức kinh
doanh và cách quản lý rủi ro tốt hơn.
Malaysia là một trong những nước đã áp dụng thành công tài chính vi mô để
xóa đói giảm nghèo. Nhắc đến tài chính vi mô tại Malaysia, các nhà nghiên cứu hay
nhà hoạch định chính sách sẽ đề cập tới ba chương trình, ba tổ chức có tên là
Amanah Ikhtiar Malaysia (AIM) thành lập năm 1988 với tiền thân là dự án Ikhtiar

năm 1985, Yayasan Usaha Maju (YUM) ra đời năm 1995, và Quỹ kinh tế cho
Nhóm Doanh nhân Quốc gia (Economic Fund for National Entrepreneurs Group,
viết tắt là TEKUN) triển khai từ năm 1998. AIM là một tổ chức phi chính phủ trong
khi YUM và TEKUN được điều hành bởi Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Chế
biến Malaysia (Ministry of Agriculture and Agro-based Industry Malaysia). Ba tổ
chức này chỉ cung cấp các khoản vay tín dụng vi mô mà không có các sản phẩm tài
chính vi mô khác như tiết kiệm hay bảo hiểm bởi lẽ nhận tiền gửi dưới bất cứ hình
thức nào là trái luật tại nước. Ngoài ra, các khoản vay ở đây cũng được trợ cấp và
không tính lãi suất, do quy định của luật Hồi giáo Shari’a. Đã có rất nhiều nghiên
cứu và minh chứng cho thấy đóng góp tích cực của các chương trình này trong việc
xóa đói giảm nghèo tại Malaysia bằng cách cung cấp vốn vay cho những khách
hàng nghèo khổ nhất. Bên cạnh đó, có khảo sát cho thấy các hoạt động tài chính vi
mô giúp tạo lập hoạt động kinh doanh bền vững hơn; tạo thêm nguồn thu nhập
khác, từ đó gián tiếp làm giảm khả năng tổn thương trước biến động bên ngoài của
người nghèo; đồng thời, có bằng chứng về việc tăng đầu tư vào giáo dục và sức
khỏe trẻ em. Dĩ nhiên, các thành tựu này được hỗ trợ rất lớn từ các chính sách,
chiến lược quốc gia khác của nước này.
Tại Việt Nam, nghèo đói và xóa đói giảm nghèo cũng là vấn đề dành được
rất nhiều sự quan tâm của Chính phủ. Dựa trên tính toán của World Bank căn cứ


vào ngưỡng nghèo quốc tế, khoảng cách nghèo của Malaysia luôn thấp hơn Việt
Nam nhiều, tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ở Việt Nam mặc dù không nghiêm
trọng như tại Malaysia nhưng qua thời gian không có dấu hiệu được cải thiện mà
thậm chí dần tăng thêm. Nhìn chung qua thời gian, mức độ nghiêm trọng của nghèo
đói ở Việt Nam có giảm nhưng vẫn nằm trong ngưỡng nghèo đói đa chiều trung
bình.
Các hoạt động tài chính vi mô đầu tiên được triển khai tại Việt Nam muộn
hơn so với Malaysia một vài năm, cũng bắt đầu từ việc cung cấp các khoản vay nhỏ
(tín dụng vi mô) cho các hộ gia đình nghèo. Khung pháp lý cho hoạt động tài chính

vi mô ở Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế. Các sản phẩm dịch vụ tài chính vi mô
tại Việt Nam tuy đầy đủ, phong phú nhưng một số sản phẩm chưa được chú trọng
phát triển ví dụ như bảo hiểm và tiết kiệm vi mô.
Dựa trên cơ sở nhìn nhận các hạn chế hiện có của hoạt động tài chính vi mô
Việt Nam và đúc rút các bài học từ kinh nghiệm thành công của Malaysia, tác giả đề
xuất một số khuyến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước mang tính định hướng
như sau: (i) Cải thiện môi trường pháp lý, các quy định chính sách còn bất cập đối
với hoạt động tài chính vi mô; (ii) Chính phủ cần có sự tài trợ thích hợp hoặc
khuyến khích đầu tư từ các nhà tài trợ cho hoạt động tài chính vi mô; (iii) Bộ Tài
chính cân nhắc chính sách thuế ưu đãi dành cho lĩnh vực tài chính vi mô tại Việt
Nam trong giai đoạn cụ thể gắn liền với mục tiêu xóa đói giảm nghèo của quốc gia;
(iv) Cần có những khuyến khích hoặc quy chế để đẩy mạnh hình thức cho vay theo
nhóm hơn là vay cá nhân; (v) Cần tạo điều kiện cho các hoạt động tiết kiệm tự
nguyện và bảo hiểm vi mô; (vi) Chính phủ có thể cân nhắc đưa ra chỉ đạo rõ ràng về
việc thành lập Quỹ tự lập của các nhóm đi vay tương tự như Quỹ Phúc lợi và Hạnh
phúc tại Malaysia để xây dựng cơ chế người nghèo tự giúp chính mình.


12

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cố tổng thống Nam Phi – Nelson Mandela đã có một phát biểu gây ấn tượng
toàn thế giới như sau: “Chừng nào mà đói nghèo, bất công và bất bình đẳng vẫn tồn tại
trong thế giới của chúng ta, thì không ai trong chúng ta có thể thực sự nghỉ ngơi.”Quả
thật, tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam đều coi trọng công cuộc xóa đói giảm
nghèo và đã, đang, sẽ triển khai rất nhiều chương trình, mô hình phục vụ cho mục tiêu
này. Malaysia là một trong những nước có thành tựu đáng ngưỡng mộ về xóa đói giảm
nghèo, và đã hoàn thành xuất sắc Mục tiêu thiên niên kỷ trước thời hạn. Công cuộc

giảm nghèo đói ở Malaysia được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu và học
tập.Các nhà khoa học Malaysia và quốc tế đã chỉ ra rằng một trong những nhân tố quan
trọng quyết định thành công trong quá trình xóa đói giảm nghèo tại đây chính là dịch
vụ tài chính vi mô dành cho người nghèo. Hai nhà nghiên cứu Norhaziah Nawai và
Mohamed SharifBashir năm 2006 đã phân tích vai trò của chương trình Amanah Iktiar
Malaysia (AIM) - chương trình tín dụng vi mô lớn nhất tiến hành tại Malaysia trong
xóa đói giảm nghèo và đánh giá tác động cụ thểởcác khu vực nông thôn được lựa
chọn.Sau đó, vào năm 2014, các nhà nghiên cứu Sayed Samer Ali Al-Shami, Izaidin
Bin Abdul Majid, Mohd Syaiful Rizal Bin Abdul Hamid và Nurulizwa Abdul Rashid
bổ sung thêm báo cáo và phân tích thông tin từ chính sách của một chương trình tài
chính vi mô khác là TEKUN tại Malaysia.
Không chỉ Malaysia, thực tế ở nhiều nước cũng cho thấy tài chính vi mô là biện
pháp hiệu quảđể thực hiện xóa đói giảm nghèo, ví dụ như mô hình ngân hàng Grameen
Bank (Bangladesh), nhóm tự quản SHG (Ấn Độ), ngân hàng Bank Rkyat Indonesia.
Tại Việt Nam, chúng ta cũng đã triển khai nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy mô hình tài
chính vi mô để hỗ trợ cho công cuộc xóa đói giảm nghèo; tuy nhiên các nỗ lực này
chưa mang lại hiệu quả thật sự nổi trội. Đáng chú ý là trong các báo cáo của Nhóm
công tác tài chính vi mô Việt Nam hàng năm, các nhà nghiên cứu đã tổng hợp và đánh
giá thực trạng của tài chính vi mô Việt Nam qua gần ba thập kỷ hình thành, phát triển
và cho thấy mặc dù có nhiều diễn biến tích cực nhưng lĩnh vực này ở nước ta còn chưa
đóng góp được như kỳ vọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Từ đó, một vấn đề


13

quan trọng được đặt ra đối với các nhà nghiên cứu khoa học cũng như các nhà hoạch
định chính sách, đó là chúng ta có thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm thành công của
nước bạn để áp dụng cho Việt Nam. Đây cũng là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò
của tài chính vi mô trong xóa đói giảm nghèo tại Malaysia và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế quốc tế.

2. Tình hình nghiên cứu

Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về nghèo đói, xóa đói giảm nghèo và vai
trò của tài chính vi mô tới công cuộc xóa đói giảm nghèo với nhiều giá trị có thể kế
thừa được về mặt lý luận và kết quả kiểm chứng, so sánh.
Harold W. Watts, An economic definition of poverty, The University of
Wisconsin, Madison, Wisconsin, 1964 [39] là một trong những nghiên cứu đầu tiên về
nghèo đói, đưa ra định nghĩa về nghèo đói dưới góc độ kinh tế.
United Nations Development Programme (UNDP), Poverty in Focus: What is
Poverty? Concepts and measures, New York, 2006 [85] trình bày mười kết quả nghiên
cứu về nghèo đói và bất bình đẳng ở các nước đang phát triển trên thế giới. Báo cáo
chủ yếu trình bày các khái niệm nghèo đói với sự phát triển qua thời gian dựa trên quan
điểm về sự tồn tại, nhu cầu cơ bản và tình trạng thiếu thốn; đồng thờiđề cập đến cách
thiết lập ngưỡng nghèo. Ngoài ra, một số nghiên cứu trong đó cũng miêu tả và thể hiện
xu hướng của các chỉ số nghèo đói được đề cập trong các Báo cáo phát triển con người
của UNDP từ năm 1990 cho đến 2005.
Dr David Gordon, Indicators of Poverty & Hunger, Expert Group Meeting on
Youth Development Indicators United Nations Headquarters, New York, 2005 [34] đã
giới thiệu một số chỉ số, chỉ tiêu đánh giá nghèo và đói được sử dụng từ trước cho tới
năm 2005.
Sabina Alkire, Maria Emma Santos, Multidimensional Poverty Index, Oxford
Poverty & Human Development Initiative, 2010 [65] và Sabina Alkire, Gisela Robles
trong tài liệu“Multidimensional Poverty Index 2015: Brief Methodological Note and
Results.”, 2015 [64] hay Sabina Alkire, Christoph Jindra, Gisela Robles, Ana Vaz,
Multidimensional Poverty Index – Summer 2016: Brief Methodological Note and
Results, Oxford Poverty & Human Development Initiative, 2016 [63] đã xây dựng một


14


phương pháp đo lường nghèo đói quốc tế mới - Chỉ số nghèo đói đa chiều (MPI) và
được sử dụng cho các Báo cáo Phát triển Con người của Chương trình Phát triển Liên
hợp quốc kể từ sau năm 2010.
United Nations High Commissioner for Human Rights,Principles and
Guidelines for a Human Rights Approach to Poverty Reduction Strategies, 2012 [87]
đã bổ sung phương pháp tiếp cận đối với phát triển và giảm nghèo khi nhìn nhận nghèo
đói không chỉ dưới góc độ thu nhập, mà về cơ bản là vấn đề sống một cách có phẩm
giá và được hưởng các quyền cơ bản và tự do, các năng lực, sự lựa chọn, an ninh và
quyền lực cần thiết để đạt được một mức sống thích hợp và tham gia vào đời sống kinh
tế, xã hội.
Martin Ravallion đưa ra định nghĩa và cách xác định ngưỡng nghèo trong hai ấn
phẩm của Ngân hàng thế giới là Poverty Line in Theory & Practice, World Bank, 1998
[55] và Poverty Lines across the World, World Bank, 2010 [54].
Jonathan Morduch, Barbara Haley, Analysis of the Effects of Microfinance on
Poverty Reduction, 2002. NYU Wagner Working Paper No. 1014 [49] phân tích về các
tác động tích cực của tài chính vi mô tới kết quả giảm nghèo chung của toàn xã hội, đặc
biệt khả năng tiếp cận những đối tượng nghèo đói nhất trong cộng đồng của các hoạt
động cho vay quy mô nhỏ này. Các phân tích mới chỉ dừng lại ở nhận định và lý
thuyết, đồng thời tổng hợp các kết quả nghiên cứu trước đó; chưa có sự kiểm chứng rõ
ràng qua thời gian hay tại một tổ chức tài chính vi mô thực tế nào ở một quốc gia bất
kỳ.
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Finance for the Poor: Microfinance
Development Strategy, 2000 [28] đã phân tích thực trạng những người nghèo không thể
hoặc có thể không tiếp cận được với các dịch vụ tài chính vi mô; trên cơ sở đó đề ra
chiến lược hỗ trợ của ADB đối với các nước đang phát triển để mở rộng phạm vi tác
động của các tổ chức tài chính vi mô và tăng hiệu quả đối với xóa đói giảm nghèo.
James C. Brau và Gary M. Woller, Microfinance: A Comprehensive Review of
the Existing Literature, 2004 [45] đã tổng hợp về các lý thuyết nghiên cứu tài chính vi
mô, tuy nhiên phần lớn nội dung tập trung liên quan đến lĩnh vực tài chính, mà chưa
nhắc tới nhiều tác động tới xóa đói giảm nghèo.



15

Joanna Ledgerwood của Ngân hàng thế giới (WB) đã có hai nghiên cứu và tài
liệu giới thiệu về tài chính vi mô là Microfinance handbook: An Institutional and
Financial Perspective, World Bank, 1998 [47] và The New Microfinance Handbook,
World Bank, 2013 [48]. Hai tài liệu trình bày khá đầy đủ về các định nghĩa, khái niệm
liên quan tới tài chính vi mô, các yếu tố tác động cũng như quan điểm về ảnh hưởng
của tài chính vi mô tới xóa đói giảm nghèo.
Các nghiên cứu khác có thể kể đến liên quan tới lý thuyết về tài chính vi mô bao
gồm: Armendariz de Aghion, Beatriz, Jonathan Morduch, Microfinance beyond group
lending, Economics of Transition 8, tr. 401 – tr. 420, 2000 [30];
Một số bằng chứng về vai trò của Tài chính vi mô trong xóa đói giảm nghèo ở
nhiều nước trên thế giới được đưa ra trong các nghiên cứu như: Afrane, Sam, Impact
assessment of microfinance interventions in Ghana and South Africa: A synthesis of
major impacts and lessons, Journal of Microfinance 4, tr. 37 – tr. 58, 2002 [25]; Asian
Productivity Organization, Regulatory Architecture for Microfinance in Asia, Japan,
2006 [29]; Armendáriz, Beatriz, Aghion, & Jonathan, Morduch, The economics of
microfinance, Economic Record, 82, 491–92, 2005 [31]; Graham A.N. Wright, The
Impact of Microfinance Services: Increasing Income or Reducing Poverty?, 2000 [38];
Hollis, Aidan, Arthur Sweetman, Microcredit: What can we learn from the past? World
Development 26, 1998 [40]; Khandker, Shahidur R., Fighting Poverty with
Microcredit: Experience in Bangladesh, Oxford University Press, Inc. New York, 1998
[51]; Remenyi, Joe, Quinones, Benjamin, Microfinance and Poverty Alleviation: Case
studies from Asia and the Pacific, New York. 79. tr. 131-134, tr. 253-263, 2000 [59].
Norhaziah Nawai và Mohamed SharifBashir, Evaluation of Micro Credit
Program for Poverty Alleviation: A case of Amanah Ikhtiar Malaysia (AIM), 2006 [56]
đãphân tích vai trò của chương trình tín dụng vi mô lớn nhất tiến hành tại Malaysia Amanah Iktiar Malaysia (AIM) trong xóa nghèo thông qua đánh giá tác động tới
cáckhách hàng ở khu vực nông thôn được lựa chọn. Trong tài liệu có mô tả cụ thể về

việc điều tra thực nghiệm đã được triển khai dựa trên câu hỏi khảo sát tại các khu vực
này. Đây có thể coi là bằng chứng cho thấy tài chính vi mô thực sự là một công cụ hữu
hiệu để xóa đói giảm nghèo, đặc biệt tại đất nước Malaysia. Dựa trên các kết quả từ


16

báo cáo nghiên cứu này, ta có thể rút ra một số gợi ý về mặt chính sách của chính phủ
trong việc thúc đẩy tín dụng vi mô phát triển.
Norma Md Saad, Jarita Ouasa, An Economic Impact Assessment of a
Microcredit program in Malaysia: the case of Amanah Ikhtiar Malaysia (AIM), Dubai,
2009 [57] tiếp tục phân tích những đóng góp của AIM trong xóa đói giảm nghèo tại
Malaysia, bổ sung số liệu và dẫn chứng trong ba năm từ 2007 đến 2009.
Abdullah Al Mamun, C. A. Malarvizhi, Sayed Hossain, Sazali Abdul Wahab,
Examining the effect of participation in microcredit programs on assets owned by
hardcore poor households in Malaysia, 2011 [24] phân tích các tác động của chương
trình tín dụng vi mô đối với việc tăng tài sản sở hữu, từ đó giúp những người nghèo
cùng cực ở Malaysia giảm nghèo và thoát nghèo.
Al-Shami, Sayed, Samer, Ali, Izaidin Bin Adbul Majid, Nurulizwa Abdul
Rashid, & Mohd Syaiful Rizal Bin Abdul Hamid, Conceptual framework: The role of
microfinance on the wellbeing of poor people cases studies from Malaysia and Yemen.
Asian Social Science 10(1), 230–42, 2013 [27] thông qua trường hợp tại Malaysia và
Yemen để phân tích vai trò của tài chính vi mô trong việc tăng phúc lợi của người
nghèo.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều phân tích đánh giá về hoạt
động tài chính vi mô cho người nghèo tại Malaysia như: David A. Lucock, Banking on
the Rural Poor in Malaysia. Project Ikhtiar, 1990 [33];
Nhóm tác giả Sayed Samer Ali Al-Shami, Izaidin Bin Abdul Majid, Mohd
Syaiful Rizal Bin Abdul Hamid and Nurulizwa Abdul Rashid, The Impact of
Microfinance on Poverty Reduction: Empirical Evidence from Malaysian Perspective,

2014 [66] đã đưa dẫn chứng về các số liệu cho thấy tác dụng cải thiện tình trạng nghèo
đói của Malaysia thông qua hoạt động tài chính vi mô. Cũng trong thời gian này, nhóm
tác giả tiếp tục công bố nghiên cứu thứ hai, The Role of Malaysian Microfinance on the
Wellbeing of Users’ Services from the Perspective of (AIM) and (TEKUN), 2014 [67]
đã bổ sung thêm đánh giá tích cực trong việc tăng phúc lợi của người nghèo của tài
chính vi mô thông qua một ví dụ khác là tổ chức TEKUN của Malaysia.


17

Việt Nam cũng có rất nhiều báo cáo, nghiên cứu, luận án và tài liệu liên quan
đến đề tài nghèo đói, xóa đói giảm nghèo và tài chính vi mô.
World Bank, Martin Rama, Nguyễn Nguyệt Nga, Rob Swinkels, Carrie Turk,
Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004: Nghèo, Hà Nội, 2003 [88] đánh giá hiện trạng
nghèo ở Việt Nam dựa trên bộ số liệu Điều tra Mức sống Hộ gia đình năm 2002 kết
hợp với sự tham gia của người dân trên 43 tỉnh thành giai đoạn này. Với báo cáo này,
lần đầu tiên Việt Nam có thể có được những hiểu biết đáng tin cậy về bản chất khác
nhau của tình trạng nghèo ở những vùng khác nhau của đất nước. Báo cáo cũng đề xuất
những cơ chế cụ thể nhằm thúc đẩy sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết
định ở địa phương, tuy chưa hoàn toàn nhìn nhận được các vấn đề đa chiều của nghèo
đói ở Việt Nam.
Gabriel Demombynes, Linh Hoang Vu, Demystifying Poverty Measurement in
Vietnam, World Bank group, Vietnam Country Office, 2015 [37] đưa ra các dẫn chứng
và phân tích về cách tính toán nghèo đói ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Việt Nga, Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn Văn
Thục, Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về giảm nghèo ở Việt Nam, Hà Nội, 2015
[10] đánh giá tổng quan các kết quả chính của các nghiên cứu trong giai đoạn tám năm
từ 2005 đến 2013 về giảm nghèo ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu cũng
đưa ra những vấn đề mang tính gợi ý sâu cho các hoạt động giám sát của Đoàn Giám
sát theo nội dung của Nghị quyếtsố 47/2013/QH13 ngày 20/6/2013 của Quốc hội về

chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2014 và Nghị quyết số 621/NQUBTVQH13 ngày 22/7/2013 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Báo cáo là bản liệt kê
tương đối đầy đủ các nghiên cứu về nội dung xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Đào Tấn Nguyễn, Giải pháp tín dụng góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo
của ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, 2004 [11] đã phân tích thực trạng hoạt
động tín dụng cho vay hộ nghèo của ngân hàng phục vụ người nghèo trong thời gian
bảy năm từ 1996 đến 2002. Luận án phân tích trên góc độ về chính sách vay, chế độ lãi
suất cho vay, chủ yếu dựa trên kiến thức về tài chính; và từ đó rút ra một số bài học
kinh nghiệm ban đầu về tín dụng cho người nghèo, ý thức tiết kiệm và hỗ trợ lẫn nhau
giữa phụ nữ nghèo.


18

PGS. TS. Nguyễn Kim Anh, PGS. TS. Ngô Văn Thứ, TS. Lê Thanh Tâm, ThS.
Nguyễn Thị Tuyết Mai, Tài chính vi mô với giảm nghèo tại Việt Nam – Kiểm định và
so sánh, NXB Thống kê, Hà Nội, 2011 [1] tập trung cung cấp thông tin về hoạt động
tài chính vi mô Việt Nam, đặc biệt, thông qua các kết quả kiểm định và so sánh, nghiên
cứu khẳng định một lần nữa tác động tích cực của tài chính vi mô đến giảm nghèo ở
nước ta. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc kiểm chứng trong phạm vi giới
hạn của mẫu nghiên cứu tại Việt Nam, mà chưa có sự đối chiếu và học tập kinh nghiệm
từ quốc tế.
Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam đã thực hiện nhiều báo cáo, bao gồm:
Mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam: thực trạng và một số kiến
nghị, Hà Nội, 2013 [13]; Báo cáo hoạt động năm 2014: 10 năm - Một chặng đường,
Hà Nội,2014 [12]; Tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính
sách,2014 [14]. Các báo cáo đã thể hiện thực trạng của tài chính vi mô Việt Nam qua
gần 3 thập kỷ hình thành và phát triển. Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam còn
chậm phát triển, chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của các cơ quan quản lý Nhà
nước, Chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức đoàn
thể, các nhà đầu tư, nhà tài trợ và các bên liên quan. Đáng chú ý là hành lang pháp lý

cho hoạt động Tài chính vi mô đã được tạo dựng nhưng còn những “khoảng trống”
hoặc chưa thực sự có tính khả thi cao, phù hợp với thực tiễn. Một số quy định về hoạt
động tài chính vi mô chưa thực sự phù hợp (như về quản trị điều hành, lãi suất, tỷ lệ
đảm bảo an toàn, bảo hiểm vi mô…) đã phần nào cản trở khả năng thu hút nguồn vốn
đầu tư vào lĩnh vực này.
Nhìn chung, các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở phân tích thực trạng tại địa
phương, quốc gia nghiên cứu sau đó đề xuất một số giải pháp hoặc bài học từ các nước
mà không dựa trên một cơ sở so sánh bối cảnh, thực trạng trong cùng giai đoạn giữa
các nước khác nhau để thấy việc áp dụng là khả thi hay không? Ngoài ra, cũng có một
số nghiên cứu về kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước và bài học dành cho
Việt Nam; nhưng chưa có nghiên cứu dành riêng cho trường hợp thành công vượt trội
của Malaysia.
3. Mục đích nghiên cứu


19

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan, tìm hiểu kinh nghiệm
thực tế của Malaysia và đánh giá thực trạng phát triển tài chính vi mô với mục đích
giảm nghèo tại Việt Nam, luận văn đề xuất một số kiến nghị chính sách và giải pháp
nhằm tiếp tục phát triển tài chính vi mô gắn với xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
Để hoàn thành mục đích này, tác giả sẽ trình bày các nội dung trong luận văn
nhằm làm rõ các mục tiêu cụ thể sau:


Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về nghèo đói, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là tác

động của tài chính vi mô tới xóa đói giảm nghèo;
• Nghiên cứu kinh nghiệm của Malaysia về phát triển tài chính vi mô trong xóa đói giảm



nghèo;
Phân tích thực trạng phát triển tài chính vi mô và tác động đối với nghèo đói và xóa đói

giảm nghèo tại Việt Nam;
• Đề xuất một số xuất một số kiến nghị chính sách và giải pháp nhằm tiếp tục phát triển
tài chính vi mô gắn với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm cơ sở lý luận về nghèo đói, tài
chính vi mô và tác động của tài chính vi mô trong xóa đói giảm nghèo; kinh nghiệm
thành công tại Malaysia và thực trạng, hạn chế cũng như đề xuất định hướng để cải
thiện hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của luận văn như sau:


Về mặt nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu tổng quát bức tranh nghèo đói; các
sản phẩm, dịch vụ của tài chính vi mô và kết quả tác động tới đối tượng khách hàng
nghèo đói. Tại Malaysia, tác giả chỉ đề cập chủ yếu đến chương trình Amanah Iktiar
Malaysia (AIM), và điểm qua dự án Ikhtiar, Chương trình Yayasan Usaha Maju

(YUM), Quỹ kinh tế cho Nhóm Doanh nhân Quốc gia (TEKUN).
• Về mặt không gian: luận văn nghiên cứu tình hình nghèo đói, thực trạng và tác động


của tài chính vi mô tại lãnh thổ hai quốc gia Malaysia và Việt Nam.
Về mặt thời gian: luận văn phân tích các số liệu của Malaysia trong giai đoạn từ năm
1999 đến năm 2014; và Việt Nam giai đoạn từ 1992 đến 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong phạm vi thời gian hữu hạn tác giả đã sử
dụng kết hợp các phương pháp phân tích, thu thập thông tin, tài liệu, số liệu từ các



20

giáo trình giảng dạy của các trường đại học, báo cáo của các nhà khoa học và các
đơn vị, tổ chức kinh tế của Việt Nam và trên thế giới và tra cứu các nguồn tin cậy
trên mạng Internet.
6. Kết cấu của đề tài

Với nội dung và mục tiêu như trên, đề tài sẽ được trình bày với nội dung gồm 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về nghèo đói và tài chính vi mô
Chương 2: Vai trò của tài chính vi mô trong xóa đói giảm nghèo tại Malaysia
Chương 3: Thực tiễn hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam và một số đề xuất từ
kinh nghiệm của Malaysia
Nghèo đói, xóa đói giảm nghèo hay tài chính vi mô đều là những nội dung phức
tạp, có nhiều thách thức trong cả nghiên cứu và thực tiễn thực hành; tuy nhiên cũng là
lĩnh vực thú vị và nhiều ý nghĩa đóng góp cho xã hội. Mặc dù tác giả đã hết sức nỗ lực
và cẩn trọng trong quá trình hoàn thành đề tài, nhưng do thời gian có giới hạn nên
không tránh khỏi sai sót, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để tiếp tục
hoàn thiện đề tài.
Tác giả cũng xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn và sự cảm kích sâu sắc đối với
đội ngũ giảng viên giảng dạy trong chương trình đào tạo Cao học, Khoa Sau đại học,
trường Đại học Ngoại Thương đã trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết cho tác giả
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin
chân thành cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Hoàng Nam đã mang đến nguồn cảm
hứng rất lớn cho tác giả đối với bộ môn Kinh tế phát triển cũng như đề tài về xóa đói
giảm nghèo và tài chính vi mô. Thầy cũng là người đã hướng dẫn tận tình cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này. Bên cạnh đó, tác giả rất cảm ơn
những người thân, các đồng nghiệp, bạn bè đã luôn động viên, tạo điều kiện, đóng góp

ý kiến cũng như hỗ trợ tìm kiếm thông tin trong quá trình tác giả thu thập số liệu, tài
liệu để thực hiện luận văn này.
Trần Thị Hương Giang
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ TÀI CHÍNH VI MÔ
1.1.

Giới thiệu chung về Nghèo đói


21

1.1.1. Khái niệm Nghèo đói và Ngưỡng nghèo
a. Định nghĩa Nghèo đói

Các vấn đề về nghèo đói đã được nghiên cứu từ rất lâu và ngay trong những
tài liệu đầu tiên, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như tại mỗi quốc gia đều cố
gắng để đưa ra một định nghĩa về tình trạng này.
Theo định nghĩa của Ủy ban kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
(Economic and Social Commission for Asia and the Pacific)trong Hội nghị về
chống nghèo ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tháng 9 năm 1993 tại Bangkok,
Thái Lan thì, “nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấyphụ thuộc trình độ
phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy
được xã hội thừa nhận.
Trong báo cáo của Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức
tại Copenhagen Đan Mạch năm 1995 đưa ra một mô tả khác về Nghèo đói như sau:
Nghèo đói có biểu hiện khác nhau, bao gồm thiếu thu nhập và nguồn lực sản xuất
đủ để đảm bảo sinh kế bền vững; đói và suy dinh dưỡng; sức khỏe kém; hạn chế
hoặc thiếu tiếp cận với giáo dục và các dịch vụ cơ bản khác; tăng tỷ lệ mắc bệnh và
tử vong do bệnh tật; vô gia cư và nhà ở không đầy đủ; môi trường không an toàn;

bị phân biệt đối xử và loại trừ xã hội. Nó cũng được đặc trưng bởi sự thiếu tham
gia trong việc ra quyết định và trong đời sống dân sự, xã hội và văn hóa… Hơn
nữa, đói nghèo ở các hình thức khác nhau của nó đại diện cho một rào cản trong
giao tiếp và tiếp cận với các dịch vụ, cũng như mộtnguy cơ sức khỏe nghiêm trọng,
và những người sống trong nghèo đói đặc biệt dễ bị tổn thương trước các hậu quả
của thiên tai và xung đột.
Thuật ngữ “poverty” trong tiếng Anh được dịch ra tiếng Việt bằng nhiều cách
khác nhau như nghèo, nghèo khổ, nghèo đói, đói nghèo. Mỗi cách dịch khác nhau
của “poverty” thể hiện một quan niệm có thay đổi về tình trạng này tại Việt Nam, từ
việc chỉ giới hạn ở mức độ thiếu thốn về vật chất, lương thực, thực phẩm; đến mở


22

rộng liên quan tới khả năng tiếp cận dịch vụ như giáo dục, văn hóa, y tế - không chỉ
là kinh tế thuần túy.
Nghèo đói được chia thành hai loại là nghèo đói tuyệt đối (Absolute poverty)
và nghèo đói tương đối (Relative Poverty). Trên website chính thức của Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (United Nations Educational
Scientific and Cultural Organization, viết tắt là UNESCO) đưa ra so sánh như
sau:“Nghèo tuyệt đối (absolute poverty) đo nghèo liên quan đến số tiền cần thiết để
đáp ứng nhu cầu cơ bản như thực phẩm, quần áo, và nơi trú ẩn”. Quan niệm này
không nhắc tới vấn đề chất lượng cuộc sống hoặc thể hiện mức độ bất bình đẳng
trong xã hội vì trong phạm vi khái niệm này không thể hiện rằng các cá nhân cũng
có nhu cầu xã hội và văn hóa không kém gì nhu cầu về vật chất. Trong khi đó,
nghèo tương đối (relative poverty) đo nghèo liên quan đến tình trạng kinh tế nhiều
mặt của một bộ phận dân cư sống dưới một mức tiêu chuẩn sống có thể chấp nhận
được tại một địa điểm và thời gian xác định. Khái niệm này thường được các nhà xã
hội học ưa dùng vì nghèo tương đối liên quan đến sự chênh lệch về những nguồn
lực vật chất, nghĩa là về bất bình đẳng phân phối trong xã hội. Phương pháp tiếp cận

này cho thấy rằng nghèo là khái niệm động thay đổi theo không gian và thời gian,
cũng như theo trình độ học vấn và truyền thống. Đây là cách tiếp cận nghèo đói tập
trung vào phúc lợi của tỷ lệ số dân nghèo nhất, có tính đến mức phân phối phúc lợi
của toàn xã hội. Khái niệm nghèo tương đối phát triển theo thời gian, tùy thuộc vào
mức sống của xã hội. Chuẩn mực để xem xét nghèo tương đối cũng thường khác
nhau giữa các nước, các quốc gia, hoặc các vùng lãnh thổ. Có thể khẳng định rằng
nghèo tương đối sẽ luôn hiện diện bất kể trình độ phát triển kinh tế xã hội nào.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ “nghèo đói” được
định nghĩa trong Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 (Vietnam Development
Report), “nghèo đói là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện, thu nhập hạn
chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng trong những
lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng
truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, ít


23

được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị xỉ nhục, không được người
khác tôn trọng v.v.”
b. Ngưỡng nghèo

Dù có cách nhìn nhận như thế nào về Nghèo đói thì việc xác định được đâu
là ranh giới một người được xếp vào nhóm nghèo đói và không nghèo đói cũng rất
quan trọng, bởi từ đó các nhà nghiên cứu mới có thể có được số liệu để nghiên cứu
và đề ra chính sách cũng như đánh giá hiệu quả chính sách. Từ đó, các tổ chức và
các nhà nghiên cứu về vấn đề này cố gắng xây dựng ngưỡng nghèo, chuẩn nghèo
hay mức nghèo (Poverty Line, viết tắt PL) dưới đây được gọi chung là “ngưỡng
nghèo”. Hiện nay ngưỡng nghèo trên phạm vitoàn cầu được sử dụng dựa trên
ngưỡng nghèo quốc tế (International Poverty Line, viết tắt là IPL) do Ngân hàng
quốc tế (World Bank, viết tắt là WB) đưa ra và cập nhật. Mỗi quốc gia cũng có thể

tự đưa ra ngưỡng nghèo của nước mình.Phương pháp xây dựng ngưỡng nghèo của
WB (Phụ lục 1) tương đối tổng quát và có thể mở rộng để phù hợp với nhiều định
nghĩa khác nhau về nghèo đói. Theo đó, ngưỡng nghèo là chi phí của một gói hàng
hóa tương ứng với phần thỏa dụng bị thiếu của người nghèo. Gói hàng hóa này dễ
dàng nhận ra chính là các mặt hàng tiêu dùng cơ bản như cơm ăn, áo mặc, nhà để ở;
và khái quát hơn cũng có thể là những nhu cầu sinh tồn và nhu cầu hòa nhập xã hội
khác của một con người.
“1 USD mỗi ngày” là ngưỡng nghèo đầu tiên được đưa ra dựa vào dữ liệu
trongBáo cáo Phát triển Thế giới về Nghèo đói (World Development Report) năm
1990. Ngưỡng nghèo này được công nhận là ngưỡng cơ sở, nghĩa là những quốc gia
giàu hơn sẽ có thể có ngưỡng nghèo cao hơn. Trong báo cáo đầu tiên này, WB chỉ
có dữ liệu cũ từ những năm 1980 và kết quả của 22 cuộc khảo sát từ 22 quốc gia
đang phát triển chứ không được thu thập một cách độc lập, đầy đủ. WB cũng không
códữ liệu của các nước Châu Phi là những nước có tình trạng nghèo đói nghiêm
trọng trên thế giới. Do vậy, cơ quan này xác định việc cập nhật ngưỡng nghèo theo
tình hình thực tế là rất cần thiết. Qua thời gian WB đã có thể thu thập nhiều dữ liệu
hơn để phân tích và có cơ sở để điều chỉnh ngưỡng nghèo quốc tế IPL lên 1,08 USD
một ngày năm 1993. Cuối tháng 12 năm 2007, Ngân hàng thế giới tiếp tục phát


24

hành ấn phẩm mới về đánh giá sức mua tương đương (PPP) cho năm 2005 theo
Chương trình so sánh quốc tế ICP (International Comparison Program) cho thấy
rằng chi phí sinh hoạt ở các nước đang phát triển thực chất cao hơn quan niệm giai
đoạn trước đó. Từ đó, một lần nữa, ngân hàng này quyết định điều chỉnh ngưỡng
nghèo quốc tế lên mức 1,25 USD một ngày theo PPP 2005. Vào tháng 10 năm 2015,
Ngân hàng Thế giới tiếp tục công bố cập nhật một lần nữa ngưỡng nghèo quốc tế và
con số mới là 1,90 USD một ngày dựa trên ngang giá sức mua năm 2011. Bên cạnh
đó, trong các dữ liệu về nghèo đói của các quốc gia mà tổ chức này đưa ra trên

website chính thức của mình, WB cũng đặt ra một ngưỡng nghèo vừa phải ở mức
3,10 USD một ngày (PPP 2011).

Hình 1.1 – Ngưỡng nghèo quốc tế của WB qua thời gian
Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo Phát triển Thế giới về Nghèo đóicủa WB
1.1.2. Đặc điểm của Nghèo đói

Trong thực tế có nhiều ý kiến xung quanh việc xác định đặc điểm của người
nghèo. Theo Ủy ban Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (United Nations, viết
tắt là UN) xác định tại phiên họp thứ 3 tháng 4 năm 1995, “các đặc điểm kinh tế
chung chủ yếu của người nghèo là họ thiếu tư liệu sản xuất, hoặc là vốn vật chất
hoặc vốn nhân lực. Tại các khu vực nông thôn, nơi tập trung chủ yếu người nghèo ở
hầu hết các nước đang phát triển, ngoại trừ Mỹ Latin, họ là những người nông dân,
người dân du mục, ngư dân, người chăn gia súc và người sống trong rừng, không
biết chữ, không có đất hoặc gần như không có đất, họ chỉ có thu nhập từ việc làm
nông nghiệp theo mùa hoặc từ những vùng đất biên và rừng hay từ thu nhập thấp
của công việc phi nông nghiệp. Tại các khu vực thành thị, họ là những người không
có tay nghề, không được học hành, thiếu vốn vật chất, những người sống phụ thuộc
vào những công việc không chính thức có mức lương thấp và là lớp dưới cùng trong
lĩnh vực dịch vụ, không có sự hỗ trợ của Chính phủ, hoặc những người nhặt rác vật
liệu từ các bãi rác hay đường phố.” “Cho dù ở nông thôn hay thành thị, những


25

người sống trong nghèo đói thường bị suy dinh dưỡng, ngay cả khi đã dành phần
lớn thu nhập cho thực phẩm. Con cái của họ nói chung có trọng lượng dưới trung
bình so với tuổi và vì chịu sự suy giảm về phát triển tinh thần và thể chất mà dẫn tới
nguy cơ không có việc làm khi lớn lên. Bệnh tật dễ đến với người nghèo và làm tiêu
hao năng lượng sản xuất của họ, làm giảm thu nhập của gia đình và ngăn trẻ em

được giáo dục đầy đủ. Tỷ lệ tử vong trung bình cũng như tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh
và trẻ nhỏ của người nghèo cao hơn.”
Đến năm 2010, trong báo cáo “Xem xét lại về nghèo đói – Báo cáo về Tình
hình Xã hội Thế giới 2010” (Rethinking Poverty - Report on the World Social
Situation 2010) của Vụ Kinh tế và Xã hội của UN (Department of Economic and
Social Affairs) đã nhìn nhận lại trên góc độ đa chiều về nghèo đói: “Nghèo đói
không chỉ đơn giản là thiếu thốn thu nhập thích đáng. Nó là một hiện tượng đa
chiều vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế mà còn bao gồm các yếu tố khác như không có
khả năng tham gia vào đời sống xã hội và chính trị. Trong ngắn hạn, nghèo đói tước
đi khả năng của một người được sống như một người tự do và đàng hoàng với đầy
đủ tiềm năng để đạt được mục tiêu mong muốn trong cuộc sống.”
Chương trình Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Xã hội (UN, năm
2006, nghị quyết 1, phụ lục II, đoạn 19) nêu đặc trưng về nghèo đói như sau:
“Nghèo đói có nhiều biểu hiện khác nhau, bao gồm thiếu thu nhập và nguồn lực sản
xuất đủ để đảm bảo sinh kế bền vững; đói và suy dinh dưỡng; sức khỏe kém; hạn
chế hoặc thiếu tiếp cận với giáo dục và các dịch vụ cơ bản khác; tăng tỷ lệ mắc bệnh
và tử vong do bệnh tật; vô gia cư và nhà ở không đầy đủ; môi trường không an toàn;
và bị phân biệt đối xử, bị tách biệt xã hội. Nghèo đói cũng đặc trưng bởi sự thiếu
tham gia vào việc ra quyết định vào đời sống dân sự, xã hội và văn hóa”.
Người nghèo cũng là đối tượng rất dễ bị tổn thương. Khái niệm dễ bị tổn
thương là để chỉ khả năng một người sẽ rơi vào hoàn cảnh nghèo đói do những cú
sốc của nền kinh tế hoặc những rủi ro cá nhân, hoặc cũng có thể do mất an ninh
kinh tế. Tuy nhiên, không phải tất cả những người dễ bị tổn thương đều là người
nghèo. Có những cá nhân mặc dù hiện tại chưa nghèo đói nhưng rất dễ rơi vào
nghèo đói nếu một trong các rủi ro xảy tới như mất việc, người thân trong gia đình


×