Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

VAI TRÒ của PHÁP LUẬT THUẾ ở nước TA HIỆN NAY GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ đó TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG và hội NHẬP QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.8 KB, 5 trang )

VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY GIẢI PHÁP
PHÁT HUY VAI TRÒ ĐÓ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
“Thuế là nguồn chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước” – chúng ta bắt gặp và
đọc được những tấm pa – nô, áp – phích như thế này hàng ngày. Từ đó, chúng ta dễ dàng
hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của thuế nói chung và hệ thống pháp luật thuế nói riêng
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế của
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức rõ về tầm quan trọng đấy, trong phạm vi bài tập học kỳ, em xin chọn đề tài:
“Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.

I. Khái quát chung về thuế và pháp luật thuế
1. Khái quát chung về thuế
Thuế là hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng kinh tế - xã hội
khác[1].


Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về thuế được đưa ra dưới các góc độ kinh tế học, luật
học. Do đó, việc đưa ra một định nghĩa duy nhất về thuế hoàn toàn không đơn giản. Tuy vậy,
có thể hiểu: Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải
thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không
phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và
nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra ba đặc điểm của thuế. Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp
bắt buộc vào ngân sách nhà nước. Thứ hai, thuế luôn gắn với yếu tố quyền lực nhà nước. Thứ
ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp.
Có rất nhiều tiêu chí và nội dung phân loại thuế, tùy theo mục đích của người nghiên


cứu đánh giá, chẳng hạn như:
Nếu căn cứ vào mục đích điều tiết, thuế có hai loại cơ bản là thuế trực thu và thuế gián
thu. Thuế trực thu là thuế mà người, hoạt động, đồ vật chịu thuế và nộp thuế là một. Thuế
gián thu là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một, thuế này chuyển
sức mua khỏi người tiêu dùng cuối cùng bằng cách tạo khoảng chênh lệch giữa số tiền chi trả
cho nhà sản xuất và giá bán.
Nếu căn cứ vào đối tượng tính thuế, có thuế đánh vào tài sản, thuế đánh vào thu nhập
và thuế tiêu dùng.
Thuế tài sản là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh vào phần thu nhập
phát sinh từ tài sản đó.
Thuế đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với những đối tượng có giá trị thặng dư phát
sinh từ tài sản của họ.
Thuế tiêu dùng, phần lớn là loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt.
Ngoài các tiêu chí phân loại và nội dung phân loại trên đây, còn có rất nhiều tiêu chí
phân loại và nội dung phân loại thuế, tùy theo mục đích của người nghiên cứu đánh giá.
2. Khái quát về pháp luật thuế
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế
nhằm hình thành nguồn thu ngân sách Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay bao gồm:
- Luật quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012);
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
- Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);


- Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);
- Luật thuế tài nguyên năm 2009;

- Luật thuế bảo vệ môi trường năm 2010
- Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010.
- Các Nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các Nghị định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế…
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp
nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế – thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo
quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ
cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Nghiên cứu lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ, ở các quốc gia cho
thấy: thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách Nhà nước. Ở nước ta, từ những năm 1990 trở
lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các luật
thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách
Nhà nước”[2] như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoản 90% tổng thu ngân
sách Nhà nước. Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách Nhà nước được pháp luật ghi
nhận: “Ngân sách Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ
thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích
lũy ngày càng cao vào đầu tư phát triển”[3].
Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế –
xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết. Điều này
đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế.
Qua đó, bất kì quốc gia nào cũng mong muốn và cần phải có hệ thống pháp luật thuế
đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà
nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, mọi dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực
tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp
luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà
nước.
2. Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời

sống xã hội. Hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng thông qua sự phân bổ và sử dụng các
nguồn lực. Nó cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích hiệu quả sản xuất kinh
doanh
Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công
cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà
nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và
tiêu dùng xã hội.


Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết mọi mặt của đời sống kinh tế –
xã hội. Qua hệ thống pháp luật thuế, Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối
phát triển kinh tế, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội.
Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các
loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn, giảm thuế… Nhà nước chủ động phát
huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở pháp
luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh,
hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể
thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến quan hệ
cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh quan hệ cung – cầu của
nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Qua
các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến quan hệ trong tất cả các giai
đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích
xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn
chế việc xuất khẩu, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này
thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chấp phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất
nhập khẩu.
Trong nên kinh tế thị trường, các tổ chức, các cá nhân có thể tồn tại và vận động theo

nhu cầu và lợi ích của chính mình điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như
định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp
luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư
của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước.
Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu
ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước
pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên
và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm thu nhập của
đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này
sang khu vực đầu tư khác.
Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên.
Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với
từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành,
nghề, qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu
nhập trong từng trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định
hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế
chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện
tại. Trong đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với
những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.


Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn
đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề, lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có
các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn
định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong
việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các

nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung – cầu và cơ cấu ngành kinh tế.
3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật thuế được áp dụng thống nhất cho các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và
nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông
qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều thiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế
đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội. Sự vận động của nền kinh tế
theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để
khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà
nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô thu nhập trong xã hội thông qua các
quy định của pháp luật thuế. Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng
nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế và cơ cấu các loại
thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập
trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế
theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất. Tuy vậy, việc
thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò pháp luật thuế là công cụ điều tiết
vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Có thể khẳng định pháp luật thuế có vai trò quan trọng trong việc giúp nhà nước thực
hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu
nghèo, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Bằng những quy định của pháp luật
thuế, nhà nước phát huy trách nhiệm của mỗi cá thể đối với cộng đồng xã hội.
4. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối
tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế đ




×