Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

HÃY nêu điểm mới của BLHS năm 2015 SO với BLHS năm 1999 QUY ĐỊNH về tội THAM NHŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.41 KB, 4 trang )

HÃY NÊU ĐIỂM MỚI CỦA BLHS NĂM
2015 SO VỚI BLHS NĂM 1999 QUY
ĐỊNH VỀ TỘI THAM NHŨNG
MỞ BÀI
Tham nhũng là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hôi. Tính nguy hiểm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại
đến lợi ích quốc gia, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người nhân đối
với nhà nước. Về đối ngoại, tham nhũng làm giảm niềm tin của các đối tác nước ngoài, uy tín của Việt Nam trong quan hệ
quốc tế, cản trở hoạt động đối ngoại và các nguồn đầu tư. Tuy Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 đã bị hoãn hiệu lực thi hành,
tuy nhiên nó cũng có những điểm mới, tiến bộ quy định về chế định tham nhũng so với HBLS 1999. Để tìm hiểu thêm về
vấn đề tham nhũng trong giai đoạn hiện nay em xin chọn đề tài số 01: “ Hãy nêu điểm mới của BLHS năm 2015
so với BLHS năm 1999 quy định về tội tham nhũng” làm bài tập học kỳ lần này của mình.

NỘI DUNG
I.
1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM THAM NHŨNG
Tội phạm về chức vụ
Để hiểu về tội phạm, Điều 8 BLHS 1999 quy định như sau : “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa”.
Điều 277 BLHS 1999 quy định : “ Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của
cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ”.
Luật cũng quy định thêm “ người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất
đính trong khi thực hiện nhiệm vụ”.
Như vậy khi những cá nhân mang chức vụ, thực hiện những hành vi như trên thì có thể bị truy tố về các tội phạm
về chức vụ tùy vào mức độ vi phạm.


2.

Tội phạm tham nhũng

Tội phạm về tham nhũng là một trong số những loại tội phạm về chức vụ thường gặp nhất.


Theo khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2012 đưa ra khái niệm
tham nhũng như sau: “ Là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi”.Cũng theo Điều 3 Luật này quy định có 12 loại hành vi được xét là hành vi tham nhũng, tuy nhiên dựa theo
Điều 2 Nghị định số 59//2013/NĐ-CP và BLHS năm 1999 đã xác định 7 hành vi được xét vào tội phạm tham nhũng.
Như vậy, theo khái niệm này, hành vi tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật nhưng gắn bó với quyền lực nhà
nước và là mặt trái của sự vận hành quyền lực nhà nước ở góc độ của sự lạm quyền và tha hóa của một số người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp…. vì mục đích vụ lợi làm ảnh hưởng đến quản lý, uy tín của cơ quan nhà nước.
II. ĐIỂM MỚI CỦA BLHS 2015 SO VỚI BLHS 1999 QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM THAM NHŨNG.
1.

Điểm giống nhau giữa BLHS 2015 và BLHS 1999 quy định về tội phạm tham nhũng.

Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đầy lùi tệ
nạn tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả,
tình trạng tham nhũng vẫn rất nghiêm trọng, vẫn đang là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa,
trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Trên tinh thần đó BLHS 2015 đã có những điểm
mới về BLHS 1999 quy định về vấn đề tội phạm tham nhũng ( từ điều 353 đến 359 ) song cũng kế thừa những quy định
của BLHS 1999 như:
Đầu tiên, vẫn tiếp tục thừa nhận và quy định 7 trong 12 hành vi tham nhũng là tội phạm tham nhũng là Tội tham
ô tài sản (Điều 353); Tội nhận hối lộ ( Điều 354); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 355); Tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357); Tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358); Tội giả mạo trong công tác ( Điều

359).
Các khung hình phạt thì được quy định thành nhiều mức khác nhau, trong đó cũng đề cao giá trị tài sản chiếm
đoạt để làm căn cứ tăng nặng cho các tội phạm có yếu tố chiếm đoạt. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều
luật.
Các biện pháp xử phạt thể hiện sự răn đe của nhà nước như phạt tiền, cách chức, tù có thời hạn, tù chung thân và
tử hình…. Đều được BLHS 2015 và BLHS 1999 áp dụng.
2. Điểm mới giữa nhau giữa BLHS 2015 và BLHS 1999 quy định về tội phạm tham nhũng.
Đối với các tội phạm về tham nhũng so với BLHS 1999 thì BLHS năm 2015 nói chung không có sữa đổi, bố sung
lớn. Tuy nhiên trong từng điều Luật cụ thể, nhà làm luật quy định các tình tiết là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung
hình phạt cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay.
Đối với tội tham ô tài sản ( Điều 353): Mức định lượng tài sản quy định là yếu tố định tội quy định tại khoản
1 điều luật theo hướng mở rộng hơn có lợi cho người phạm tội, nếu khoản 1 Điều 278 BLHS 1999 quy định tham ô
2.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khoản 1 Điều 353 BLHS 2015 quy định tham ô


từ 2.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự và mức phạt cho cấu thành tội cơ bản cho tội
danh vẫn giữ nguyên là từ 02 năm đến 07 năm.
Các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định lại và rõ ràng hơn trước. BLHS năm 2015 thay cụm từ “ gây hậu
quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả nghiêm trong khác” bằng các quy định cụ thể hơn như “chiếm đoạt tài
sản sử dụng vào mục đích xóa đói giảm nghèo; tiền, phụ cấp đối với người có công với cách
mạng…” hay “ ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
trong cơ quan tổ chức” . Đặc biệt, ngoài việc chiếm đoạt tài sản thì việc gây thiệt hại về tài sản cũng là
một yếu tố mới làm tăng mức hình phạt của tội phạm; định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong các tình tiết là yếu tố định
khung hình phạt cũng thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội ( ví dụ như khoản 2 tội này thay mức từ 50.000.000
đồng đến dưới 200.000.000 đồng bằng từ 100.000.000 đến dưới 500.000.000 triệu đồng..). Bố sung với tội này là khoản
6 Điều 353 là quy định “ Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh ghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước
mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.”
Đối với tội nhận hối lộ ( Điều 354): khoản 1 Điều 354 đã thay thế và bổ sung đầy đủ, hoàn thiện về hành vi
của người phạm tội này hơn so với khoản 1 Điều 279 từ “…trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị..” bằng “ trực tiếp

hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó
hoặc cho người và tổ chức khác”; như vậy chủ thể của tội phạm ở đây được quy định về hành vi một cách rõ ràng
hơn, đầy đủ hơn và mở rộng hơn trước. Tại khoản 1 điều 354 tách riêng ra mức tài sản bị chiếm đoạt thành một điểm cụ
thể chứ không quy định chung như Điều 297, đặc biệt ở điểm b khoản 1 Điều 354 đã bổ sung “lợi ích phi vật
chất” đây là lần đầu tiên lợi ích phi vật chất được đề cao và nêu ra ở tội nhận hối lộ, hay là ở Điều 2 có khoản “ đòi hối
lộ,sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt”. Các mức tài sản hối lộ quy định lại có lợi cho người phạm tội
hơn với năm 1999 như 100.000.000 triệu đến 500.000.000 triệu…Ngoài ra cũng như tội Tham ô tài sản BLHS 2015 cũng
thay thế các cụm từ “ gây hậu quả nghiêm trọng khác” bằng các hành vi cụ thể và bổ sung khoản 6 như Điều 6
của Điều 353.

Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 355): khác với các tội
khác thì tội phạm này được quy định chặt chẽ và nghiêm khắc hơn trước, yếu tố chiếm đoạt tài sản được đặt ra với mức
chiếm đoạt hay gây thiệt hại cao như “ chiếm đoạt tài sản từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ;
chiếm đoạt tài sản từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng…” hay “ gây thiệt hại về tài sản
từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng; từ 3.000.000.000 đồng đến dưới
5.000.000.000 đồng”…mức tài sản giá trị cao hơn so với BLHS 1999. Tại khoản 2 còn quy định điểm mới “ chiếm
đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ giúp, ưu đãi với người
có công với cách mạng..” hay lần đầu quy định tội này cho các doanh nghiệp như “ dẫn đến doanh nghiệp


hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động”, và còn “ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội”. so với BLHS 1999 thì hình phạt bổ sung với tội này được tăng lên từ 10.000.000 đồng đến
50.000.0000 thành từ 30.000.000 đồng lên đến 100.000.000 đồng thể hiện mức độ nguy hiển cho xã hội của tội phạm.
Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ( Điều
356):kế thừa những tư tưởng chủ đạo của BLHS 1999, BLHS 2015 góp phần làm rõ hơn quy định đó như: thay cụm
từ “ gây hậu quả nghiêm trọng” bằng “ gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới
1.000.000.000 đồng” ( khoản 2 Điều 356); tương ứng như thế ở Khoản 3 cũng thay cụm từ “ gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng cụm từ “gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000
đồng trở lên” việc quy định rõ ràng như thế này giúp cho người dân cũng như các nhà áp dụng luật được thực hiện một
cách nhất quán, dễ hiểu và dễ làm. Việc áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cũng được tăng lên từ “ ba triệu

đồng đến ba mươi triệu đồng” thành “ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”.
Đối với tội làm quyền trong khi thi hành công vụ ( Điều 357): được cấu tạo lại thành 4 khoản
( ngoài hình phạt bổ sung ) theo hướng không có lợi cho tội phạm như Điều 282 BLHS 1999. Ngoài ra còn quy định chi
tiết, rõ ràng hơn mức tài sản chiếm đoạt trong tội phạm này để cấu thành tội phạm tại khoản 1 Điều 357 mà tại khoản 1
Điều 282 không đề cập tới đó là “ làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng; cũng tại khoản 1 Điều 357 cũng quy định về việc gây thiệt hại cho tổ chức mà tại BLHS 1999
chưa đề cập đến. Mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 là 1 năm tù, khoản 2 là 5 năm tù, khoản 3 là 10 năm tù và
khoản 4 là 15 năm tù. Các cụm từ như “ gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” thành lượng giá trị cụ thể như 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hay
từ 1.500.000.000 đồng trở lên .. Ở hình phạt bổ sung thì số tiền có thể bị phạt của người phạm tội này được tăng lên từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục l



×