Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

VAI TRÒ của PHÁN QUYẾT của cơ QUAN tài PHÁN QUỐC tế đối với VIỆC HÌNH THÀNH và áp DỤNG các QPPL QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.47 KB, 4 trang )

VAI TRÒ CỦA PHÁN QUYẾT CỦA CƠ
QUAN TÀI PHÁN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI
VIỆC HÌNH THÀNH VÀ ÁP DỤNG
CÁC QPPL QUỐC TẾ

Trong những năm gần đây tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở các quốc gia
trên thế giới và các khu vực khác nhau có nhiều biến đổi. Bên cạnh những thuận
lợi để cộng đồng quốc tế phát triển bền vững không tránh khỏi các tranh chấp quốc
tế. Giải quyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán quốc tế là một trong nhiều
biện pháp. Các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế có ảnh hưởng tới sự hình
thành và áp dụng của điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Trong phạm vi bài tập
nhóm, nhóm xin chọn đề tài: “Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của phán
quyết của cơ quan tài phán quốc tế đối với việc hình thành và áp
dụng các quy phạm pháp luật quốc tế (quy phạm điều ước và/
hoặc quy phạm tập quán quốc tế)” để làm rõ hơn vấn đề này.
I. Khái quát chung về cơ quan tài phán quốc tế
Cơ quan tài phán quốc tế là cơ quan hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận của
các chủ thể Luật Quốc tế, thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự, thủ tục tư
pháp các tranh chấp phát sinh trong quan hệ hợp tác giữa các chủ thể nhằm củng cố
và duy trì trật tự pháp lý quốc tế. Về tổng thể, các cơ quan tài phán quốc tế tồn tại
chủ yếu dưới ba dạng là Tòa án quốc tế, Trọng tài quốc tế và cơ quan tài phán được
thành lập trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế.


Cơ quan tài phán quốc tế có đặc thù riêng của cơ quan giải quyết tranh chấp
phát sinh giữa các chủ thể Luật Quốc tế. Cụ thể:
- Cơ quan tài phán quốc tế được thành lập dựa trên sự thỏa thuận của các chủ
thể Luật Quốc tế. Hình thức của sự thỏa thuận này chính là điều ước quốc tế được
các chủ thể Luật Quốc tế ký kết dựa trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng.
- Cơ quan tài phán quốc tế có chức năng chính là giải quyết tranh chấp quốc
tế. Giải quyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán quốc tế là biện pháp giải


quyết tranh chấp được các chủ thể Luật Quốc tế lựa chọn sử dụng, với tính chất là
công cụ pháp lý khi nhu cầu bảo vệ lợi ích chủ thể được đặt ra.
- Cơ quan tài phán quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên trong quá trình
giải quyết tranh chấp.Thẩm quyền của cơ quan tài phán quốc tế phụ thuộc vào sự
thỏa thuận của các bên tranh chấp về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại cơ
quan tài phán quốc tế.
- Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp tại cơ quan tài phán quốc tế là các
nguyên tắc và quy phạm của Luật Quốc tế. Cụ thể là các điều ước quốc tế mà các
bên ký kết hoặc tham gia và tập quán quốc tế.
- Phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế là chung thẩm và có giá trị pháp lý
bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có nghĩa vụ thi hành phán
quyết trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế.
II. Vai trò của phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế đối với việc hình
thành quy phạm pháp luật quốc tế
Trong quá trình giải quyết các vụ việc, cơ quan tài phán quốc tế sẽ xem xét và
lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng. Tuy nhiên, quy phạm pháp luật nhiều khi
mới chỉ mang tính nguyên tắc, chung chung, chưa thể áp dụng vào một trường hợp
cụ thể để giải quyết vụ việc, chưa mang tính cụ thể. Khi đó, vai trò của cơ quan tài
phán là rất quan trọng bởi cơ quan tài phán không chỉ xem xét lựa chọn quy phạm
nào để áp dụng mà nhiều khi lại phải giải thích ý nghĩa của các quy phạm đó. Sự
giải thích của cơ quan tài phán thường được viện dẫn áp dụng và giải quyết các vụ
việc tương tự sau này. Sự giải thích dần được thừa nhận rộng rãi và trở thành các
quy phạm pháp luật quốc tế.
Cơ quan tài phán quốc tế khi xem xét các vụ việc thuộc thẩm quyền để đưa ra
các phán quyết thì thường xem xét cả các quy phạm điều ước quốc tế và quy phạm
tập quán quốc tế, thường thì xét quy phạm điều ước trước, nếu vụ việc trên thực tế
chưa có quy định nào trong điều ước điều chỉnh thì sẽ xét đến các quy phạm tập
quán quốc tế. Khi phán quyết áp dụng quy phạm trong một điều ước quốc tế, quy
phạm đó nếu được áp dụng nhiều lần trong giải quyết các vụ việc sau này dần dần
có thể trở thành tập quán quốc tế và ngược lại, khi sử dụng tập quán để giải quyết

vụ việc thì sau này các nhà làm luật sẽ có thể pháp điển hóa và biến quy phạm tập
quán trở thành quy phạm điều ước quốc tế.


Ví dụ: Vụ ngư trường Anh – Nauy năm 1951 liên quan đến đường
cơ sở thẳng.
Sự kiện: Nửa đầu thế kỷ XX, Anh và Nauy tranh chấp về quyền đánh cá trong
khu vực biển ngoài khơi Nauy, phía Bắc của vòng cung Bắc cực, Nauy cho rằng họ
có quyền bảo tồn nghề cá cho ngư dân của họ trong khu vực này. Vương quốc Anh
cho rằng khu vực này là biển cả và ngư dân của mọi quốc gia đều có quyền đánh
cá. Ngày 12/7/1935, Nauy quyết định hoạch định khu vực biển cả đó bằng nghị
định. Ngày 28/9/1948, Vương quốc Anh đơn phương thỉnh kiện Tòa án quốc tế
xem xét đường hoạch định khu vực đánh cá của Nauy và yêu cầu Tòa tuyên bố
Nauy phải bồi thường mọi thiệt hại do việc họ bắt giữ các tàu đánh cá của Anh sau
ngày 16/9/1948 tại các vùng biển được coi là biển cả.
Phán quyết ngày 18/12/1951 của Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “Người
ta không thể khăng khăng biểu thị đường ngấn nước thủy chiều thấp nhất như một
nguyên tắc bắt buộc chạy theo bờ biển tại tất cả các chỗ uốn gập của nó. Người ta
cũng thể biểu thị như các ngoại lệ của quy tắc này, các vi phạm nhiều đến nỗi
chúng gợi lên các mấp mô của một bờ biển gồ ghề; quy tắc sẽ mất đi trước các
ngoại lệ. Toàn bộ một đường bờ biển như vậy đòi hỏi áp dụng một phương pháp
khác: đó là đường cơ sở cách đường hình thể của bờ biển một khoảng hợp lý”.
Tòa công nhận việc phân định của Na Uy dựa trên kỹ thuật đường cơ sở
thẳng: “không trái với luật pháp quốc tế”.
Từ phán quyết về vụ ngư trường Nauy ngày 18/12/1951, có thể thấy:
- Phán quyết đã mở đầu cho việc công nhận rộng rãi phương pháp đường cơ
sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Các tiêu chuẩn của đường cơ sở thẳng
Na Uy qua phán quyết của tòa, đã trở thành các tiêu chuẩn chung được Luật pháp
quốc tế thừa nhận và được điển chế hóa trong các Công ước của Liên Hợp Quốc về
Luật biển – Công ước Giơ-ne-vơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải

và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.
- Nguyên tắc áp dụng đường cơ sở thẳng năm 1935 của Nauy đã trở thành tiêu
chuẩn mới của Luật quốc tế, thể hiện trong Công ước Giơ-ne-vơ về lãnh hải và
vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1958 và điều 7 Công ước 1982. Điều 7 Công ước của
Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định: “1.Ở nơi nào bờ biển bị khoét
sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển,
phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng
để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. 2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ
không ổn định do một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích
hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất nhô ra xa nhất và,
ngay cả trong trường hợp về sau, ngấn nước triều thấp nhất có dịch chuyển vào
phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các
quốc gia ven biển sửa đổi theo đúng công ước…”.


Như vậy, phán quyết của Tòa án công lý quốc tế đã tạo ra một bước ngoặt
quan trọng trong việc xác định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh h



×