Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

QUY ĐỊNH của bộ LUẬT tố TỤNG HÌNH sự năm 2015 về tạm GIAM và VIỆC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.18 KB, 4 trang )

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TẠM GIAM
VÀ VIỆC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
NÀY
MỞ BÀI
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta
quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau phù hợp với mục đích của từng giai đoạn khác nhau. Trong đó gồm có
những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn
cho quá trình giải quyết vụ án. Đề tìm hiểu về một trong số biện pháp trên em xin chọn đề 8: Quy định của bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 về tạm giam và việc hoàn thiện quy định này.

NỘI DUNG
I.

KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA TẠM GIAM

1.

Khái niệm tạm giam
Đầu tiên, để hiểu như thế nào là tạm giam thì ta nên tìm hiểu thế nào là biện pháp ngăn chặn, theo cách hiểu
chung thì “ Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối
với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố nhằm ngặn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”.
Như vậy, biện pháp ngăn chặn là những biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để ngăn chặn hành vi phạm
tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo vệ thi hành án.
Tại điều 79 BLTTHS 2003 đã chỉ ra các biện pháp ngăn chặn cụ thể gồm có: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Như vậy, tạm giam được hiểu là một trong những
biện pháp ngăn chặn quy định trong luật tố tụng hình sự.
Do đó theo cách hiểu chung của nhà làm luật thì “ Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng


hình sự do cơ quan điều tra, viện kiệm sát, tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng


mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
2.

Mục đích tạm giam

So với các biện pháp khác thì tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất
trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội một thời
gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân do đó trong trường hợp đặc biệt mới nên áp dụng biện pháp này.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài
mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng
nhằm bảo đảm thực hiện tố tụng của cơ quan áp dụng.
Ví dụ: Việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể
tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào khi nào mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần.
Hoặc việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm bảo đảm cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VỀ TẠM GIAM
Những quy định về tạm giam được quy định cụ thể tại các Điều 88, Điều 89, Điều 90... và rải rác trong BLTTHS 2003,
sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về nội dung chính được quy định về tạm giam như sau.
1.

Đối tượng áp dụng
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người không phải là bị can, bị cáo

thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam, không ai có quyền làm trái quy định này.

Khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Điểm a, khoản 1 Điều 88 quy định “ Bị can, Bị can phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng, phạm tội rất nghiêm trọng”. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà
theo quy định của Bộ luật hình sự, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình ( tội phạm đặc biệt nghiêm trọng ) hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù
( tội phạm rất nghiêm trọng ). Tuy nhiên biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần thỏa mãn đồng thời hai điều kiện
+ Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị thẩm phán ra quyết địh đưa vụ án ra xét xử
với tư cách là bị cáo. Điều kiện này cho thấy, đối tượng của tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo mà thôi.
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng. Tạm giam là một biện pháp có tính chất
nghiêm khắc nhất, hạn chế quyền tự do của người phạm tội do đó nó cũng chỉ áp dụng cho những tội gây nguy hiểm cao
cho xã hội.
Trường hợp thứ hai: Điểm b, khoản 1 Điều 88 quy định “ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng
hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn


cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội.” Việc tạm giam trong trường hợp này cần thỏa mãn 3 điều kiện như sau:
+ Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo.
+ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên
hai năm. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên hai năm tù. Trong một điều luật có nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt
trên hai năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù từ hai năm trở xuống thì không được tạm
giam.
+ Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội. Để xác định được điều kiện này cần phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội
hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam như sự đề phòng bỏ lột
tội phạm. Tuy vậy, không phải tất cả các đối tượng thỏa mãn 3 điều kiện trên sẽ bị tam giam vì người phạm tội thì đa dạng,
chúng ta còn phải xem xét đến độ tuổi, sinh lý, điều kiện cụ thể của từng đối tượng để áp dụng các biện pháp ngăn chặn
phù hợp vừa để hợp tình vừa đúng pháp luật.

Tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định: “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ
ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng
đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm
giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”
Trừ đi những trường hợp trên vì đó là những tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật quốc gia, phải tạm
giam họ vì nếu không rất dễ bị lộ ra ngoài ảnh hướng xấu tới sự sống còn của đất nước. Bị can, bị cáo thuộc khoản này đã
được Nhà nước “nhân văn” áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhẹ hơn nhưng vẫn lỳ lợm, cứng nhắc có ý định bỏ trốn và
chống lại người thi hành công vụ, gây cản trở điều tra thì sẽ áp dụng biện pháp tạm giam nhằm răn đe tội phạm, bảo đảm
cho vụ án được tiến hành đúng tiến độ, tránh bỏ lọt tội phạm.
2.

Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam

BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ quy định các
căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung. Điều 79 BLTTHS 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
bao gồm:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm.


- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
- Để đảm bảo thi hành án.
Trong số các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn kể trên, căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng
cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo
điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hay không để
người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ

áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam vì đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi
phạm tội của họ là hành vi đã được thực hiện trong quá khứ. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam bao gồm:



×